Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ hôn

23/12/201003:47(Xem: 4902)
Lễ hôn


Ở Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
Hẳn vào thời kỳ xa xưa, người Việt Nam xây dựng hôn nhân có lẽ giản dị lắm. Thế nên quan lại Trung Hoa sang cai trị đất Giao Chỉ phải dạy dân cưới gả theo nghi lễ phiền phức của họ.
Theo cổ tục, hôn lễ có 6 lễ:

1/ Nạp thái: lễ coi mắt, chọn lựa.
2/ Vấn danh: lễ hỏi tên họ, tuổi.
3/ Nạp kiết: lễ bói xem hai tuổi có hợp nhau không.
4/ Nạp trưng: nạp sính lễ như tiền bạc, quần áo, nữ trang...
5/ Thỉnh kỳ: định ngày cưới.
6/ Thân nghinh: lễ rước dâu.


Tuy kết hôn theo kiểu Tàu nhưng người Việt Nam đã bỏ bớt một số nghi lễ phiền phức mà chỉ còn giữ ba lễ chính:

1/ Lễ vấn danh (lễ giạm) là lễ do nhà trai nhờ mối (mai) đến hỏi tên tuổi người con gái để so hai tuổi trai gái xem có hợp nhau không (sung khắc hoặc tương hợp theo số tử vi).
2/ Lễ nạp trưng (lễ hỏi) là lễ đem đồ sính lễ đến nhà gái.
3/ Lễ thân nghinh là lễ họ nhà trai đến nhà gái rước dâu về.


Việc hôn nhân do cha mẹ định đoạt (phụ mẫu chi mạng) hay do lời nói của người mối lái (môi chước chi ngôn). Con cái không có quyền định đoạt mối lương duyên của mình.
Khi cha mẹ ưng ý một người con gái nào hoặc vì nết na, đảm đang, hoặc vì địa vị gia đình (môn đăng hộ đối) thì nhờ người mối (băng nhân) đến điều đình. Nếu nhà gái thuận thì người mối đem lễ đến nhà gái xin "lộc mạng" hay "bát tự", tức là giấy ghi chép giờ, ngày, tháng, năm sinh của người con gái. Nếu thấy số so tuổi hai người trai gái được tương hợp thì nhà trai cùng người mối đem lễ vật đến nhà gái để sính ước. Lễ này gọi là lễ nạp trưng, lễ nạp lệ hay cũng gọi là lễ hỏi.
Từ đấy, cứ đến ngày nhà gái có giỗ, người con trai phải đến cúng. Và theo những ngày lễ tết trong một năm, phải đem đồ lễ tết đến nhà vợ chưa cưới. Lễ tết dài trong bao nhiêu năm không chừng. Vì người Nam có tục hỏi vợ cho con ngay từ lúc con còn nhỏ, đợi đến gần tuổi trưởng thành mới cưới hẳn, hoặc bị tang chế phải đợi.
Cũng có tục bắt con trai đến nhà gái làm giúp đỡ công việc trước khi cưới, tục gọi làm rể hay giữ rể. Nhưng thường con trai nhà nghèo mới chịu cách này.
Sau lễ hỏi, nhà gái đem trầu cau biếu người trong họ, bằng hữu để báo tin mừng. Nếu đôi trai gái đã trưởng thành mà lỡ gặp người trong họ chết thì có thể hỏi cưới ngay để tránh sự ngăn trở bởi tang chế. Như vậy tục gọi là cưới chạy tang.
Trước ngày cưới (lễ nghinh thân) nhà trai cho mối đến điều đình về món tiền và lễ vật cưới. Đến ngày đón dâu, chú rể cùng họ hàng khăn áo tốt đẹp chỉnh tề, họp thành một đoàn, chọn giờ hoàng đạo, kéo đến nhà gái do một người chủ hôn đi đầu hướng dẫn. Người chủ hôn (thường chọn người cao tuổi, vợ chồng song toàn có con cháu đông đúc) mặc lễ phục, bưng quả hộp đựng trầu cưới và tư trang của cô dâu, mở lối, rồi đến các người dẫn lễ, sau đến chú rể cùng hai người phù rể, sau là cha mẹ và họ hàng đàng trai.
Tất cả lễ vật cũng như số người đều không được lẻ mà phải đủ đôi đủ cặp.
Trong khi đến nhà gái, dọc đường, họ nhà trai thường gặp những đám giăng dây. Phải nộp tiền, họ mới mở lối cho đi. Nếu lấy vợ ở làng khác, lệ giăng dây còn sinh ra nhiều phiền nhiễu. Vì mỗi ngõ phải qua, họ nhà trai thường gặp nhiều đám giăng dây. Có đám bày cả hương án với đỉnh trầm, đèn nến, giá hương, độc bình, trên giăng một sợi dây điều kèm một cây kéo cắm trong bình hương do tuần tráng bầy ra. Khi họ đàng trai nạp tiền rồi mới cắt dây cho đi. Đó là một thứ tiền phụ, còn có số tiền nộp cheo phải trả cho làng để làng công nhận việc hôn thú.
Nhiều khi, trong họ nhà gái, có người ra đón tại cổng để lấy tiền nhà trai rồi mới mở cổng cho vào. Hoặc chính người em hay người cháu đích trưởng nhà gái đóng cả cửa từ đường lại để đòi tiền rồi mới mở ra. Những tục lệ này không được phổ thông bằng tục lệ giăng dây.
Bấy giờ vị chủ nhân họ nhà trai (hay mai nhân) đem đồ nữ trang và đôi đèn cầy đi thẳng lại bàn thờ để khai hộp giữa bàn. Hai ông sui trai gái, mỗi người lãnh lấy một cây đèn cắm vô chưn đèn rồi đốt lên. Mai nhân họ nhà trai trình cho mai nhân họ nhà gái những lễ cưới. Đoạn chú rể cô dâu làm lễ từ đường, rồi lạy cha mẹ, mai dong, thân tộc. Bà con họ hàng muốn cho tiền thì cho ngay lúc cô dâu chú rể đương lạy mình.
Lễ xong, nhà họ gái đãi trà mứt rồi tiệc rượu. Trong lúc này cũng như trong họ nhà trai đến, họ thường đốt pháo để cảnh thêm tưng bừng vui vẻ.
Ăn uống xong đoạn rước dâu về.
Khi đưa dâu, họ nhà gái chọn người cao tuổi cầm bó hương đi trước. Rồi họ hàng dẫn cô dâu theo sau. Có hai cô phù dâu đi cạnh hai bên cô dâu.
Về đến nhà trai, cô dâu chú rể đến bàn thờ làm lễ gia tiên, rồi lạy cha mẹ, mai dong, thân tộc như bên nhà gái, đoạn làm lễ nhập phòng. Trước khi vào phòng, cô dâu phải bước qua cái hỏa lò than hồng để xua đuổi tà khí.
Trong phòng cưới có đặt sẵn một mâm trầu rượu gọi là "mâm tơ hồng". Người chồng lấy trầu lễ tơ hồng trao một nửa cho vợ lại rót một chén rượu, uống một nửa trao cho vợ uống. Đó là lễ Hợp Cẩn hay lễ Giao Bôi.
Ba hôm sau, hai vợ chồng cùng trở về nhà vợ làm lễ từ hỉ hay "lại mặt" hay cũng gọi là lễ "giở mâm trầu". Rồi vợ chồng cùng đi chào họ hàng nhà vợ. Sau lễ cuối cùng này, hai vợ chồng lại trở về nhà chồng. Từ đấy, người vợ không còn quan hệ mật thiết đến gia tộc mình nữa (nữ nhân ngoại tộc).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2014(Xem: 34519)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
09/10/2014(Xem: 5884)
Một buổi lễ tụng kinh Pali theo truyền thống Nam tông Tụng kinh hay cầu kinh là một điều phổ biến trong các tôn giáo. Phật giáo cũng không ngoại lệ trong vấn đề này. Tuy nhiên, mục đích của việc tụng niệm thì khác nhau giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất không xem tụng niệm như là cầu nguyện. Đức Phật trong nhiều phương cách đã chỉ dạy chúng ta phải có niềm tin vào hành động của mình và kết quả của nó, và qua đó khuyến khích chúng ta nương tựa vào chính mình mà không vào một ai khác. Điều này trong thực tế là điều cốt lõi nơi thông điệp sau cùng của Ngài ở trong kinh Đại Niết-bàn (Mahaparinibbana Sutta). Một trong những thông điệp trong kinh ngày là: “Này A Nan, hãy nương tựa chính mình và chớ nương tựa vào ai khác, hãy nương tựa Chánh pháp và chớ nương tựa vào pháp nào khác”.
25/09/2014(Xem: 26505)
Phụng hành lời giáo huấn của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trong Kinh Du Hành - bộ Trường A Hàm : “ Chúng Tỳ Kheo phải thường xuyên theo đúng các qui định của Luật Tạng, để giảng luận Chánh Pháp, khiến cho các Tỳ Kheo trong trú xứ cùng sinh hoạt hòa hợp, là pháp đầu trong Bảy Pháp Bất Thối của hàng Thích tử ”. Theo tinh thần đó, chúng ta đã và đang nối gót các bậc Thầy Tổ trong sự nghiệp kế thừa gia bảo của Đức Thế Tôn qua Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư hay Ngày Về Nguồn năm nay là năm thứ 8.
08/09/2014(Xem: 8005)
Đức Phật từng dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý. Thứ nhất, người chưa hề phạm tội và thứ hai là người lỡ phạm tội nhưng hết lòng sám hối, nguyện không tái phạm.” Kinh sách ghi lại nhiều bài sám với những hình thức ngắn, dài, đại cương hoặc chi tiết, để mỗi hành giả tùy căn cơ, nhu cầu và phương tiện mà phát nguyện sám hối. Ở đây, chỉ xin được chia sẻ đôi giòng, sau hai tuần lễ đại chúng đạo tràng chùa Phật Tổ hành trì, trong khóa tu sẽ liên tục một tháng, tụng lạy bộ“Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Lương Hoàng Sám”
02/09/2014(Xem: 9100)
Đạo Phật là Đạo cứu chúng sanh ra khỏi sáu cõi sinh, tử, luân hồi khổ đau, để đến các cõi Phật, là những cõi vô sanh, vô tử. Do đó chư Phật trong 10 phương thế giới Phật, đều thị hiện vào Tam giới, Lục đạo, để cứu khổ chúng sanh theo sở nguyện và phương tiện(giáo pháp, tâm đại từ bi, trí tuệ) của mình. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện vào cõi Ta bà, nói Pháp và hướng dẫn con Người tu tập giáo pháp, để giải thoát sanh tử, luân hồi. Đức Phật còn thuyết minh về các kinh
26/08/2014(Xem: 8708)
Với niềm tin rằng từ bỏ cõi đời ở thành phố linh thiêng Varanasi và ngâm mình dưới dòng sông Hằng thì linh hồn sẽ được gột rửa, nhiều người ở Ấn Độ tìm đến thành phố đó để chờ chết.
20/06/2014(Xem: 5548)
… Buỗi lễ vẫn tiếp diễn, chú bé được gội tóc sạch sẽ bằng xà-phòng, đầu được cạo láng bóng, bây giờ chú ra giếng múc nước để rữa những bụi tóc còn sót lại. Chú ở trần, chỉ mặc độc một chiếc quần bằng vải trắng tinh, rộng thùng thình may theo kiểu Ấn Độ. Một người lớn, có lẽ là bố chú, rữa chân cho chú, từ đầu gối trở xuống chú lại được dội nước từ đầu xuống chân. Tắm rữa sạch sẽ xong, chú cũng chỉ mặc chiếc quần trắng, mình trần . Vị Sư trưởng lấy chiếc áo Ca sa vàng vừa mới được dâng lên, cột chéo áo vào cổ chú, trước đó Ngài đã đọc một bài kinh ngắn và chú lập lại từng câu, bài kinh bằng tiếng Phạn nói lên ý nghĩa rời bỏ thế tục. Có câu chú nghe không trọn, Vị Sư trưởng lập lại cho chú đọc theo…
14/06/2014(Xem: 32194)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Đại Mông Sơn thuộc về loại chẩn tế cô hồn trọng đại. Đây là một hình thức tổ chức nghi thức lập đàn tràng chẩn tế cô hồn rất lớn. Như đại lễ trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan năm 2007, do Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cùng chư Tăng Ni Làng Mai, đã hợp tác cùng Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam trong nước tổ chức ở ba nơi: chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn), chùa Diệu Đế (Huế), chùa Sóc Sơn (Hà Nội). Cả ba nơi lập trai đàn chẩn tế này mọi người đến dự lễ rất đông, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hay đảng phái chánh trị.
11/06/2014(Xem: 6327)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp như cá mòi, có người đã bắt đầu “lên dây đàn” mở màn cho buổi hòa tấu. Nhìn quanh không còn chỗ nào trống để ngả lưng. Đang đứng ngơ ngác ở hành lang cầu thang, tôi định trải túi ngủ nằm bừa xuống, có chị bạn đạo vừa chuyển mình nhích qua một bên, vừa cất tiếng:
07/06/2014(Xem: 6752)
Thời xưa, khi mới bắt đầu tu tập, tôi rất muốn tụng kinh và đi hỏi xem nên tụng cuốn nào. Được khuyên bảo và tôi mua cuốn “Chư kinh nhật tụng”. Thầy chùa bảo, cứ tụng đi, tụng hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567