Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh A Di Đà dịch nghĩa

15/09/201002:23(Xem: 3653)
Kinh A Di Đà dịch nghĩa

A_Di_Da_Phat_1
Kinh A Di Đà dịch nghĩa

KỆ TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

LỄ PHẬT

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sinh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

TÁN LƯ HƯƠNG

Lò hương vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị đa, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô yết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng.
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát (3 lần)

KINH A DI ĐÀ

Phật nói Kinh A Di Đà,
Chính tôi nghe đúng thực là không sai.
Thường theo Phật ngàn hai trăm rưỡi,
Toàn những là bậc đại Tỳ kheo,
Chứng A la hán đã lâu,
Chúng đều quen biết không đâu không tường.
Có một thời ở vườn Trưởng giả,
Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà,
Nước là Xá Vệ không xa.
Bấy giờ Phật tự nói ra kinh này,
Bậc tuổi cao đã dầy công đức,
Xá Lợi cùng ngài Mục Kiền Liên,
Ngài Ca Diếp, ngài Chiên Diên,
Ngài Câu Ly cũng cùng liền Bà Đa,
Châu Lợi với Nan Đà các vị
Át Nan và con quý Như Lai,
Kiều Bà Đề cũng ở đây,
Tân Đầu Lư với lại ngài Ca Lưu,
Kiếp Tân Na, Bạc Câu La cũng,
Đâu Lâu Đà là những bậc trên.
Cùng chư Bồ tát, Thánh Hiền,
Văn Thù Sư Lợi đứng trên mọi người,
Con vua Pháp chính ngài hơn hết.
A Dật Đa Bồ tát cũng đây,
Bồ tát Càn Đa Ha Đề,
Ngài Thường Tinh Tấn cũng về rất đông.
Các bậc lớn thật không còn thiếu,
Vua Thích Đề cũng chịu khó theo,
Chư Thiên chẳng biết bao nhiêu,
Tất cả đại chúng cũng đều ở đây.
Bấy giờ, Phật gọi thầy Xá Lợi,
Bảo cho rằng từ cõi Ta đây,
Đi sang thẳng phía phương Tây,
Qua mười muôn ức cõi thời tới nơi.
Có thế giới tuyệt vời sung sướng,
Có Phật là Vô Lượng Thọ Quang,
Hiện đương thuyết pháp rõ ràng.
Vậy thầy có biết vì cơn cớ gì,
Sao lại gọi nước kia cực sướng ?
Chúng sinh trong đều hưởng thuần vui,
Khổ đau tuyệt tích tăm hơi,
Cho nên mới gọi cõi đời rất vui.
Xá Lợi Phất ! Lại coi xem đã,
Cõi nước kia khắp cả trong ngoài,
Đường đi có bảy hàng cây,
Bảy lần lưới phủ, bảy lần bao lơn,
Toàn là chất bạc vàng châu báu,
Tất cả đều vây nhiễu chung quanh.
Nước kia vì đấy thành danh,
Gọi là Cực lạc sạch sanh vui vầy.
Xá Lợi Phất ! Lại đây mới lạ,
Cõi nước kia có cả hồ ao,
Toàn là thất bảo quý sao.
Nước tám công đức dồi dào ở trong,
Đáy ao cũng tuyệt không chút đất,
Cát dưới đều toàn chất vàng thôi,
Bốn bên đường bậc hẳn hoi,
Pha lê, vàng, bạc cùng loài lưu ly,
Hợp lại coi cực kỳ đẹp mắt.
Trên lại còn lầu các nguy nga,
Cũng đem vàng, bạc, xa cừ,
Xích châu, mã não, lưu ly mọi loài.
Tô điểm hết trong ngoài như một,
Sen trong ao hoa tốt lạ thường,
Bánh xe cũng chỉ ngang ngang,
Mùi hương mầu nhiệm sạch thơm khác thường,
Đủ bốn sắc : Xanh, vàng, đỏ, trắng,
Đều theo màu ánh sáng hiện ra.
Thầy Xá Lợi ! Có đó mà,
Nước trang nghiêm thế đúng là trang nghiêm,
Nhờ công đức gây nên được thế.
Lại còn đây, thầy sẽ xem xem,
Tiếng thiên nhạc vẫn vang rền,
Đất là vàng tốt ngày đêm sáu thời.
Hoa mạn đà trên trời mưa xuống,
Chúng sinh trong ra hứng đem về,
Túi này đựng lấy hoa kia,
Hằng ngày sáng sớm đem đi cúng dường.
Dâng khắp cả mười muôn ức Phật,
Bao nơi mà giây phút về ngay,
Cơm xong dạo gót thảnh thơi.
Thầy Xá Lợi Phất ! Thử coi xem nào,
Cõi Cực lạc xiết bao công đức,
Đấy mới là đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Nước kia có đủ thứ chim dị kỳ,
Hình dung đẹp thiếu chi màu sắc.
Bạch hạc cùng Khổng tước rất xinh,
Anh vũ, Xá lợi cùng mình,
Ca lăng tần cũng cùng sinh một thời.
Các chim ấy đêm ngày kêu hót,
Ra toàn là tiếng ngọt như ru,
Diễn thành đủ các phép tu,
Ngũ căn, ngũ lực, bảy Bồ đề chi,
Tám đường chính như chia thật rõ.
Chúng sinh trong cõi đó nghe rồi,
Đều là niệm Phật tức thời,
Pháp, Tăng cũng niệm không ai chịu ngừng.
Xá Lợi Phất ! Thầy đừng có bảo,
Chim ấy là tội báo sinh ra,
Bởi vì cõi Đức Di Đà,
Địa ngục, ma đói, cùng là súc sinh,
Ba thứ ấy sạch sanh chẳng có.
Xá Lợi thầy ! Nên rõ cõi kia,
Cái tên xấu đã không thì,
Làm gì có thực chim kia bao giờ,
Các chim ấy chẳng qua là Phật,
Muốn làm cho tiếng pháp chan hòa,
Nên Ngài mới biến hóa ra.
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem qua đây này,
Cõi Phật kia so đây xa khác,
Gió hiu hiu thổi các hàng cây,
Cùng là lưới phủ trên cây,
Phát ra những tiếng êm tai lạ thường,
Thật không khác trăm ngàn âm nhạc,
Cùng một thời khua tất cả lên.
Ai nghe thấy bỗng tự nhiên,
Lòng nhớ Phật Pháp Tăng liền có ngay.
Xá Lợi Phất ! Xem đây càng rõ,
Cõi Phật kia còn có đâu hơn,
Gây nên rực rỡ muôn phần,
Đều do phúc đức công huân của Ngài.
Xá Lợi Phất ! Lòng thầy có hiểu,
A Di Đà là hiệu làm sao,
Hào quang Phật sáng xiết bao,
Soi mười phương chẳng nước nào là không.
Đến đâu tựa trăng trong nước biếc,
A Di Đà mới thiệt xưng tên.
Thầy Xá Lợi ! Lại coi xem,
Đức Di Đà thọ vô biên vô lượng,
Cả nhân dân sống ngang như Phật,
Kể kiếp đời tính thật khó ra,
Thế nên tên gọi Di Đà,
Này thầy Xá Lợi ! Nghe mà nghĩ coi,
Đức Di Đà lên ngôi thành Phật,
Đến nay là mười kiếp chu viên.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Phật kia còn có vô biên vô lượng,
Các đệ tử Thanh văn, La hán,
Không thể nào tính toán mà hay.
Các Bồ tát cũng nhường này,
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem đây thế nào,
Cõi Phật kia xiết bao công đức,
Gây nên thành đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Cõi nước Cực lạc ai lên đấy rồi,
Hết thảy đều lên ngôi bất thoái.
Phật sắp thành cũng lại rất đông,
Chỉ một kiếp nữa là cùng.
Đọc các số ấy khó lòng tính ra,
Tạm lấy số hằng sa mà kể,
Gọi rất nhiều cho dễ hiểu thôi.
Xá Lợi Phất ! Ai nghe rồi,
Cố nên phát nguyện tới nơi kẻo hoài.
Vì ở với thuần người thật tốt,
Vui cùng nhau mãi suốt đời đời,
Xá Lợi Phất ! Phải những người,
Nhân duyên phúc đức rất dày thiện căn,
Thì mới được sinh sang nước ấy.
Xá Lợi ! Thầy xem đấy quý không,
Nếu như ai có thực lòng,
Trai lành gái tốt đều không phân bì,
Được nghe nói A Di Đà Phật,
Là tên Ngài liền chấp trì ngay,
Một ngày luôn đến bảy ngày,
Một lòng chẳng rối tức thời thành công.
Người ấy lúc mình cùng số tận,
Các Thánh cùng Ngài hiện tới ngay,
Hiện ra trước mắt cho coi,
Lòng người ấy lúc tắt hơi êm đềm,
Tức khắc được sinh lên cõi Phật,
Đấy chính là cõi nước Như Lai.
Ta xem thấy sự lợi này,
Nói cho thầy biết để thầy xét suy.
Nếu có ai được nghe đây nói,
Nên cố cầu sinh cõi Phật kia,
Này thầy Xá Lợi lặng nghe !
Nay ta khen ngợi Đức Di Đà rồi,
Công đức Phật muôn đời khôn kể.
Phương Đông ngài A Bế Như Lai,
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật cùng ngài Diệu Âm.
Phật như thế kể bàn sao xiết,
Cát sông Hằng tỷ thiệt đúng thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Nam,
Có Đức Phật Nhật Nguyệt Quang,
Danh Văn Quang, Đại Diệm Kiên hai Ngài,
Tu Di Đăng Như Lai tinh tiến,
Đức của Ngài khôn đếm kể sao.
Phật như thế số rất nhiều,
Cát sông Hằng mấy bấy nhiêu các Ngài.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Tây,
Có Vô Lượng Thọ Như Lai,
Phật Vô Lượng Tướng cùng ngài Đại Quang,
Bảo Tướng, Vô Lượng Tràng hai vị,
Tĩnh Quang cùng xiết kể Như Lai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Bắc phương,
Diệm Kiên, Nan Trở hiện đương,
Tối Thắng Âm Phật cũng thường ở đây.
Nhật Sinh, Võng Minh đầy đủ cả,
Hằng hà sa khó tả được thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Hạ phương,
Có Ngài Sư Tử Danh Văn,
Danh Quang, Đạt Mạ, Pháp Tràng Như Lai,
Trì Pháp Phật, các Ngài như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ nhiều thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi thầy ! Còn ở Thượng phương,
Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương,
Phật Hương Thượng với Hương Quang hai Ngài,
Đại Diệm Kiên cùng ngài Tạp Sắc
Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật Như Lai,
Sa La Thọ Vương Như Lai,
Kiến Nhất Thiết Nghĩa cùng ngài Bảo Hoa,
Tu Di Sơn Phật đà như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ không sai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Lòng thầy có nghĩ ra,
Sao kinh này lại gọi là,
Hết thảy chư Phật giữ mà nhớ không.
Xá Lợi Phất ! Là chung hết thảy,
Gái, trai lành nghe thấy là may,
Người nghe chịu tin kinh này,
Cùng tên chư Phật đêm ngày tụng luôn.
Những người ấy chẳng còn sợ sệt,
Chư Phật đều giúp sức hết cho,
Còn ngôi thứ cũng chẳng lo,
Tới nơi thành Phật dễ hồ ai hơn.
Xá Lợi Phất ! Chớ còn lưỡng lự,
Đều nên tin lời của Ta đây,
Với lời chư Phật cho hay,
Thầy xem như đã có ai phát nguyền,
Giờ hay sau nguyện lên cõi ấy,
Những người này đều tới không lui,
Ngôi thành Phật chứng hẳn hoi.
Nước kia người đã sang rồi rất đông,
Nay về sau cũng không phải thiếu,
Thế nên Ta khuyên bảo cho hay,
Trai lành gái tốt những ai,
Nếu tin nên phát nguyện ngay đợi gì,
Nguyện sinh sang nước kia cực sướng.
Xá Lợi ! Thầy nên tưởng đó coi,
Nay Ta khen các Phật rồi,
Rất nhiều công đức khó hay nghĩ bàn.
Chư Phật lại khen Ta có hẳn,
Công đức này thật khó nghĩ bàn,
Nói rằng việc rất khó làm,
Thích Ca Phật thật không ngần ngại chi.
Ở cõi nước cực kỳ khổ sở,
Đời bẩn nhơ xấu đủ cả năm,
Kiếp cùng ý kiến dục lầm,
Chúng sinh, phiền não, mạng thuần bẩn nhơ.
Ở cõi này tu mà thành Phật,
Thương chúng sinh nói pháp nhiệm mầu.
Thế gian đều có tin sâu,
Xá Lợi nên biết ! Ta đâu ngại gì.
Ở đời xấu ngàu ngàu năm thứ,
Làm việc này thực khó lắm thay,
Đạo Bồ đề được chứng ngay.
Lại vì khắp cả trong ngoài thế gian,
Nói pháp này người tin thật khó,
Là một điều hiếm có xưa nay.
Kinh này Phật nói xong rồi,
Xá Lợi Phất với các thầy Tỳ kheo,
Tất cả có bao nhiêu thính giả,
Trời, người cùng cả thảy Tu la,
Được nghe lời Phật nói ra,
Vui mừng tin giữ lễ mà bước đi.

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Đức Bồ tát hiệu Quan Tự Tại,
Dầy công tu huệ mới mở mang !
Chân như một áng linh quang,
Chiếu soi năm uẩn đều không có gì.
Bát nhã huệ soi đi khắp chốn,
Dứt mọi đường khổ khốn tai nàn !
Xá lợi, tâm chớ nghi nan,
Sắc kia nào khác cái không đâu mà !
Cái không nọ, nào xa cái sắc,
Sắc là không, không sắc như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, khác đâu,
Chân không xét cũng một mầu thế thôi !
Này Xá lợi, nghĩ coi có phải ?
Những pháp không xét lại thực là :
Chẳng sinh, chẳng dứt đó mà,
Sạch dơ, thêm bớt, cũng là chân không.
Ấy vậy phải xét thông mọi lẽ,
Như hư không, sắc vẻ gì đâu ?
Thọ, tưởng, hành, thức, sạch làu,
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, còn đâu nương nhờ ?
Thân, ý cũng hững hờ như thế,
Lục trần kia, cũng kể là không.
Đã không nhãn giới suốt thông
Đến ý thức giới cũng không thấy gì.
Vô vô minh, nương chi mà có ?
Bổn tánh không soi nó phải tiêu !
Đã không lão tử hiểm nghèo,
Còn đâu già chết, hòng theo quấy rầy ?
Khổ, tập, diệt, đạo không thay !
Trí còn không có, đắc này được đâu ?
Vô sở đắc là câu tuyệt diệu !
Bồ tát xưa khéo liệu đường tu.
Chân không bổn tánh như như,
Nhờ huệ Bát nhã, thiệt hư soi làu !
Không ngăn ngại, còn đâu lo sợ !
Mộng tưởng không, tâm chẳng đảo điên !
Chân như bổn tánh thiên nhiên,
Niết bàn cõi ấy, chứng nên đạo mầu !
Tam thế Phật, ngôi cao chứng quả,
Thảy đều nhờ Bát nhã tu nên.
Bát nhã này rất thiêng liêng !
Ấy đại thần chú giúp nên đạo thiền.
Ấy thần chú đại minh sáng chói !
Chú vô thượng vòi vọi cao xa !
Vô đẳng đẳng chú ấy mà,
Gồm đủ thần lực, thiệt là tối linh !
Những khổ não thênh thênh trừ hết,
Lời nói này, chân thiệt chẳng ngoa.
Vậy nên Bát nhã thuyết qua,
Này câu thần chú niệm ra như vầy :
Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

VÃNG SINH THẦN CHÚ

Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

TÁN PHẬT

Di Đà thân Phật sắc vàng tươi,
Tướng tốt quang minh vẹn đủ mười.
Ánh sáng tỏa hình năm núi lớn,
Mắt trong tợ nước bốn nguồn khơi.
Hào quang hóa Phật bao nhiêu ức,
Bồ tát hiện thân gấp mấy mươi.
Bốn tám lời nguyền mong độ chúng,
Hoa sen chín phẩm rước lên ngôi.

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nammô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

SÁM NHẤT TÂM

Một lòng mỏi mệt không nài,
Cầu về Cực lạc ngồi đài Liên hoa.
Cha lành vốn thiệt Di Đà,
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
Thẳm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề.
Nguyện làm nên đạo Bồ đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sinh.
Thệ rằng : Ai phát lòng thành,
Nước ta báu vật để dành các ngươi
Thiện nam, tín nữ mỗi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.
Ta không rước ở nước ta,
Thệ không thành Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai,
Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ ơn Đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn, càng cao càng dầy.
Cầu cho con thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh.
Cầu con tội khổ khỏi mình,
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian.
Cầu con thần thức nhẹ nhàng,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.
Đài vàng tay Phật bưng chờ,
Các ông Bồ tát bây giờ đứng trông.
Rước con thiệt đã nên đông,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.
Hội này thấy Phật chân thân,
Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.
Quyết tu độ chúng phàm dân,
Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dầy.
Phật thệ chắc thiệt không sai,
Cầu về Tịnh độ, ai ai tin lòng.
Cầu về Tịnh độ một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ tát bạn lành với ta.

PHỤ LỤC: SÁM HỒNG TRẦN

Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù sinh tụ tán mấy hồi.
Người đời có biết chăng ôi !
Thân người tuy có, có rồi hườn không.
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi.
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi.
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày thanh.
Bây giờ thấy dạng, thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nấm cỏ sầu xanh xanh.
Khi nào liệt liệt oanh oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con con,
Bây giờ hai ngã nước non xa vời.
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì.
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu, cuộc kỳ vắng thiu,
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Sang mà đến bực công hầu,
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy, da phồng trần ai.
Phù du sớm tối một mai,
Giàu sang cũng thác, xạc xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng,
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go,
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn,
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc say sưa.
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về Cực lạc nước kia,
Cho xa hang quỷ mà lìa kiếp ma.
Nhờ ơn Đức Phật Di Đà,
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng.
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân.
Quan Âm Bồ tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài.
Với cùng Thế Chí các Ngài,
Cũng đều khuyên thỉnh lên ngay sen vàng
Có bảo cái, có tràng phan,
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây.
Có trời các cõi truy tùy,
Có đờn, có trống, rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có ao thất bảo, có hương ngũ phần.
Lưu ly có đất sáng ngần,
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh.
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Có ngân các, có kim lâu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền.
Đã sinh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con,
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi.
Lầu vàng đài báu thiếu gì,
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu.
Không ơn, không oán, không sầu,
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô.

Tu hành phải đời kiếp mô,
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ.
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ để mờ đi đâu ?
Mấy lời thệ nguyện trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà.
Phân thân ra khỏi Ta bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sinh.

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức vô biên
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sinh pháp giới bao la
Đều về Cực lạc Di Đà Tây thiên
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ tát đời đời vị tha
Nguyện sinh Tịnh độ Di Đà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sinh
Cùng chư Bồ tát bạn lành với ta
Nguyện đem công đức tạo ra
Hướng về khắp cả gần xa hưởng nhờ
Con cùng muôn loại thân sơ
Đều thành Phật đạo, đến bờ an vui.

TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, tất cả không ngại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/06/2016(Xem: 5739)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ Khai Chung Bảng tại Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12 Tại Tu Viện Quảng Đức Từ ngày 05/07/2011 đến ngày 15/07/2011 www.quangduc.com
19/03/2016(Xem: 5485)
Nghi thức này gồm có 3 phần. Phần một là cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát và chư thiên về chứng minh gia hộ, có mô tả ngắn gọn công hạnh của các ngài để chúng ta tán thán và noi gương; phần hai là mời các oan gia về dự lễ giải oan, thưa chuyện và xin lỗi; phần ba là chia sẻ các bài kệ tụng nhắc nhở việc tu tập để âm dương đều được lợi lạc. Trừ phần hai ra, phần một cung thỉnh chư Phật, và phần ba các bài kệ tụng, đều có thể dùng trong các thời kinh hàng ngày, hay trong các nghi lễ cầu an, cầu siêu, kị giỗ… đều thông dụng.
12/03/2016(Xem: 4932)
Mỗi lần, trước khi hành lễ ở các chùa, vị chủ lễ thường chắp tay cầm ba nén nhang dâng lên trên trán và đọc thầm bài kệ niệm hương: “Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo, thệ trọn đời giữ đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới chúng sanh, cầu Phật từ gia hộ, tâm bồ đề kiên cố, xa bể khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác.” Và chúng ta cũng thường nghe những vần thơ như: “Lặng lẽ chiên đàn tỏa khói hương, đỉnh trầm xông ngát ý thiền môn, lung linh nến ngọc ngời sao điểm, xóa sạch trần gian hết tủi hờn…” Những vần thơ này đã giới thiệu về những nét đẹp văn hóa của sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt tâm linh và cho chúng ta thấy nghi thức dâng hương là nét văn hóa rất đẹp trong nghi lễ thiền môn.
07/03/2016(Xem: 6851)
Vào lúc 8g30 ngày thứ bảy 05 tháng 3 năm 2016, nhằm ngày 27 tháng giêng năm Bính Thân, tại hội trường Trường trung học Yerba Buena thành phố San Jose, tiểu bang California, gia đình Phật tử An Nguyệt đã tổ chức Pháp hội Dược Sư, dưới sự hướng dẫn của Đại đức Thích Nhật Thiện, Ni sư Thích Nữ Nguyên Thiện cùng Ni chúng Tu viện Huyền Không ở thành phố San Jose. Nội dung chương trình như sau: - Ban tổ chức tác bạch thỉnh Sư - Lễ thượng phan - Khai kinh, trì tụng và lạy danh hiệu đức Phật Dược Sư - Trì chú Dược Sư 49 biến - Khất thực - Cúng dường Trai Tăng và Phạn thực kinh hành - Lễ hoa đăng - Pháp thoại: Pháp tu Dược Sư (Ni sư Thích Nữ Nguyên Thiện) - Tuyên sớ cầu an và cầu siêu (khoảng 280 gia đình) - Cúng thí thực cô hồn - Pháp đàm - Lời cảm tạ của Ban tổ chức - Chụp ảnh tập thể và tặng quà lưu niệm
26/01/2016(Xem: 6445)
LỄ TỐNG CHUNG SIÊU ĐỘ VONG LINH (Nghi thúc nầy tuỳ theo thời gian ít hay nhiều mà thay dổi Tại nhà quàn trước khi di quan hoặc đọc tại nghĩa trang)
13/11/2015(Xem: 5445)
Trước đây do phương tiện truyền thông còn nhiều hạn chế nên người ta ít khi nghe và thấy chữ "Tân Viên Tịch" trong các văn thư, cáo phó, phân ưu, điếu từ và điếu văn trên các phương tiện truyền thông, nhưng gần đây người ta thấy chữ "Tân Viên Tịch" nhiều hơn trước để chỉ sự kiện một vị Tôn Đức Tăng Ni Giáo Phẩm vừa viên tịch. Vậy trong thực tế có sự khác nhau giữa viên tịch và tân viên tịch không?
19/08/2015(Xem: 6729)
Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn Độ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Đức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”.
14/07/2015(Xem: 16412)
Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 8) sẽ được tổ chức tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu vào cuối tháng 9 năm 2014. Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 9) năm 2015 dự định sẽ được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry, Pháp Quốc nhân lễ Khánh Thành chùa cũng như lễ Đại Tường của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Trong dịp này, chư Tăng Ni sẽ hội luận vào ngày thứ bảy 15.08.2015 như chương trình gửi kèm theo đây. Chư Tôn Đức cũng như quý Phật tử nào không tham dự được suốt chương trình các ngày Lễ thì xin mời chọn những ngày thích hợp để đến với Tăng đoàn nhằm nói lên tinh thần cộng trụ trong sinh hoạt Phật sự tại hải ngoại ngày nay. Kính mong chư Tôn Đức và quý vị Phật tử hồi báo cho Ban Tổ
06/06/2015(Xem: 11155)
Nhà để tro cốt Ruriden thuộc ngôi đền Koukoko-ji, Nhật Bản là nơi đang lưu giữ tro cốt của 2046 người đã mất theo một cách hết sức hiện đại và đầy công nghệ. Đây là những hình ảnh ghi lại tại nhà để tro cốt Ruriden thuộc ngôi đền Koukoko-ji, Nhật Bản. Nơi đây đang lưu giữ tro cốt của 2046 người đã mất theo một cách hết sức hiện đại và đầy công nghệ. Những bức tường được ngăn thành rất nhiều ngăn, mỗi ngăn có đặt một bức tượng Phật bằng pha lê và được chiếu sáng bằng đèn LED nhiều màu. Đằng sau mỗi bức tượng là hũ đựng tro cốt của người đã khuất. Như có thể thấy trong hình ảnh, màu sắc từ mỗi bức tượng được điều khiển một cách có chủ đích, tạo nên "bức tranh" đầy màu sắc trên tường.
31/03/2015(Xem: 23693)
“Mộ cổ thần chung cảnh tỉnh thế gian danh lợi khách Kinh thanh Phật hiệu hoán hồi khổ hải mộng trung nhơn”. Một làn khói trầm vương nhẹ, một lời kinh khuya sớm, một tiếng chuông rơi… đều làm cho tâm hồn ta nhẹ nhàng, thanh thoát, hướng thượng và quay về với nội tâm. Mỗi tôn giáo đều có những nghi thức và pháp khí hành lễ đặc thù, phù hợp với truyền thống và văn hóa của tôn giáo mình. Đạo Phật, gần hai ngàn năm gắn liền với Dân tộc chúng ta, cho nên những pháp khí, tiếng trống, tiếng chuông chùa… trở thành thân thương, gần gũi, quen thuộc với văn hóa Dân tộc và lắng đọng trong tâm hồn người Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567