Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chùm ảnh những chiếc Trống Bát Nhã của Phật giáo Hàn Quốc

19/08/201503:35(Xem: 6759)
Chùm ảnh những chiếc Trống Bát Nhã của Phật giáo Hàn Quốc
trong bat nha trieu tien

Chùm ảnh những chiếc Trống Bát Nhã 
của Phật giáo Hàn Quốc
Thích Vân Phong

     
Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn Độ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Đức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. 
 
Trung Quốc thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo…

Từ đời Đường về sau, theo Thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo.

Dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.

Trong nhà Phật, mỗi một Phật cụ đều có một ý nghĩa đặc biệt. Tiếng trống hay tiếng chuông trong thiền môn khi đánh lên đều ngầm có ý là cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành. Mỗi thứ khi sử dụng, đều có pháp thức riêng.

Chuông trống Bát nhã rất quan trọng trong thiền môn. Chuông trống Bát nhã thường đánh lên vào những buổi lễ pháp sự đặc biệt, như thuyết pháp, truyền giới, Sám hối v.v…Và mỗi khi đánh lên ngầm ý thỉnh Phật thượng đường chứng minh. Đồng thời cung nghinh chư Tôn Đức và cũng để cho mọi người chú ý nhiếp tâm trở về với chánh niệm. Cụ thể là giờ hành lễ quan trọng.

Về ý nghĩa, ngoài âm vang của tiếng trống cảnh tỉnh khách trần ra, nó còn nói lên một ý nghĩa đặc thù siêu việt. Mục đích là nhằm nhắc nhở mọi người cần phải trang bị cho mình có đầy đủ trí huệ sáng suốt. Vì trí huệ rất là quan trọng. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, mà thiếu trí huệ chỉ đạo, thì coi như sự tu hành không có kết quả tốt đẹp. 
 
Nếu không có trí huệ sáng suốt để biện biệt chánh tà, chân ngụy, thì trong khi ứng dụng tu hành, chúng ta dễ bị sai lệch và đi vào con đường tà ngoại. Vì Bát nhã quan trọng như thế, nên chư Tổ mượn hình thức cái trống, để khi đánh lên nhằm thức nhắc mọi người tăng cũng như tục phải luôn nhớ đến cái trí Bát nhã sẵn có ở nơi chính mình. Trí Bát nhã nầy, còn gọi là Vô sư trí. Nhưng muốn nhận ra cái Vô sư trí nầy, hành giả cần phải nương cái trí hữu sư, tức cái trí do học hỏi ở nơi thầy bạn mà có được.

Ở mức độ thấp hơn, khi nghe âm thanh của những pháp khí đó, như trống, chuông, mõ v.v… thì người nghe chóng hồi tâm thức tỉnh để gắng lo tu niệm. Phải hết lòng siêng năng làm lành lánh dữ, không nên gây tạo những nghiệp ác mà phải chuốc lấy quả khổ đau. 
 
Cho nên, khi chúng ta đến chùa mỗi khi nghe những âm thanh của những thứ nói trên, thì lập tức chúng ta hãy trở về với chánh niệm. Hay nói rõ hơn là phải luôn thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm. Một làn khói trầm vương nhẹ, một lời kinh khuya sớm, một tiếng chuông rơi… đều làm cho tâm hồn ta nhẹ nhàng, thanh thoát, hướng thượng và quay về với nội tâm.

Tiếng trống Bát nhã đã in sâu vào tiềm thức của người dân Việt, khi có những tiếng động ồn náo, người ta bảo “om sòm Bát nhã”; do khi đến chùa vào những buổi lễ, nhà chùa thường chuyển những hồi trống Bát nhã.

Mỗi tôn giáo đều có những nghi thức và pháp khí hành lễ đặc thù, phù hợp với truyền thống và văn hóa của tôn giáo mình. Đạo Phật, gần hai ngàn năm gắn liền với Dân tộc chúng ta, cho nên những pháp khí, tiếng trống, tiếng chuông chùa… trở thành thân thương, gần gũi, quen thuộc với văn hóa Dân tộc và lắng đọng trong tâm hồn người Việt Nam.

Tiếng chuông trống Bát-nhã khai sáng tiềm lực, khả năng trí tuệ siêu việt, trí tuệ giải thoát thường trực, hiện hữu, không gián đoạn. Tiếng chuông trống Bát-nhã đang giục giã chúng ta sớm thức tỉnh, thôi thúc chúng ta thắp lên ngọn đuốc trí tuệ mà “lên đường” ngay, bắt nhịp theo dòng tuệ giác của chư Phật, chư Bồ Tát, Thánh Hiền… xuất thế, giải thoát.

Kệ chuyển Trống Bát Nhã:

Trống pháp đánh cùng ngọc kệ tuyên
Suốt thông địa phủ đến chư thiên
Nghe thanh cùng niệm Di Đà hiệu
Tịnh độ sinh về thoát não phiền.

Nam mô Lạc Bang Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Con xin trì tụng, niệm kệ nhiệm mầu, chứa đựng lời vàng ngọc.

Xin chuyển tiếng trống thành âm thanh xa vời vợi… lên tận thiên đình… xuống tận địa ngục cho tất cả ai ai đều nghe rõ.

Nghe âm thanh trống nầy, người người đều niệm Nam mô A Di Đà Phật.

Cúi xin Phật A Di Đà với lòng từ bi vô lượng, tiếp dẫn chúng con vãng sanh về cõi Tịnh độ để được an vui, thoát vòng sinh tử.

Nam mô Thiên Tràng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tiếng trống rền vang tận cõi xa
Trời rồng tám bộ hỷ hoan ca
Ba vòng chín chuyển lìa sinh tử
Chúng khổ hân hoan thoát ái hà.

Con xin cho tiếng trống nầy vang dội khắp mười phương.

Chư long thiên hộ pháp đều an nhiên tự tại, khắp ba cõi đều được thông thấu, giác ngộ.

Cõi dục giới đầy ái nhiễm, khổ hải như lao tù, nguyện ra khỏi.

Cầu xin cho không còn ai phải chịu đọa kiếp luân hồi, thoát  vòng sinh tử, đến được cảnh giới an vui.

Án kim cang yết đế yết đế tóa ha.

Trống nhạc tưng bừng chuyển pháp luân
Thanh âm mầu nhiệm tiếng trong ngần
Kinh diên kính lễ hằng sa Phật
Chín loại phàm lưu chứng pháp thân.
Nam mô Cổ Lôi Âm Bồ Tát.

 (Con xin dùng tiếng trống nầy điểm từng hồi… từng hồi, lực âm  thanh mầu nhiệm chuyển quay bánh xe chánh pháp.


Tiếng trống có năng lực tẩy sạch cấu trần khiến cho thân tâm chúng sanh đều được thuần khiết, thanh tịnh.

Cầu xin giáo pháp của Đức Phật được truyền bá sâu rộng đến khắp mọi nơi mọi chốn, để mọi người mọi loài đều được thấm nhuần uyên thúy.

Nam mô Cổ Lôi Âm Bồ Tát).

Nguyện cầu âm thanh nầy được thuần túy, không còn xen tạp một âm thanh nào khác. Tiếng vang giải thoát không còn xen tạp, lẫn với tiếng kêu than rên xiết, thương đau ai oán, khổ lụy.

Con xin được cùng mọi loài chúng sanh đồng hành trên con đường giác ngộ, từ bỏ cõi lãng quên, chí quyết theo con đường Giới, Định, Huệ, chóng quay về trong tỉnh thức.

Con xin nguyện cầu trong khắp pháp giới, mọi loài chúng sinh được thoát sanh phàm trần, noi theo hạnh nguyện của chư Phật, chư Bồ Tát phát bồ đề tâm, đầy đủ phước trí để đạt được Trí tuệ Ba-la-mật, chứng thành Phật đạo.

Nguyện đem công đức nầy, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo.

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chùm ảnh những chiếc Trống Bát Nhã của Phật giáo Hàn Quốc, trân trọng kính mời quý bạn đọc, mỗi người đánh một vài tiếng để xua tan những âm mưu bành trướng của Bắc Kinh, biển Đông sóng lặn gió yên, nhân loại an lạc, thế giới hòa bình.





































































Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2010(Xem: 3372)
Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997).
09/09/2010(Xem: 15912)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
08/09/2010(Xem: 5048)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
07/09/2010(Xem: 5482)
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
31/08/2010(Xem: 7116)
Trước cửa Phật lập đàn phổ thí, Cho trọn đều quân lợi âm dương, Quang minh tỏ khắp mười phương, Kính dâng một nén tâm hương ngạt ngào. Cơn mưa tuệ dồi dào tưới khắp, Bóng mây từ che rợp mọi nơi, Lọt đâu dưới đất trên trời, Từ bi tế độ muôn đời viên thông. Trên đức Phật rất công rất chính, Dạy cho đời luyện tính tu tâm, Thương người đọa kiếp tối tăm, Giáo Hội chỉ dẫn khỏi lầm khỏi mê.
27/08/2010(Xem: 44663)
Đi thuyết linh nhiều nơi, thấy nhiều trường hợp oan gia trái chủ hiển bày rất rõ nét, cần phải giải trừ để có một đời sống an lạc. Rất nhiều Phật tử, thấy tâm tư không an khi nhìn lại đời sống đã gây nên tội lỗi oan trái muốn giải trừ, mà chưa có nhận thức đúng đắn.
05/08/2010(Xem: 4047)
Thiết dĩ, thể tánh hư hàm, bí thảo điêu tàn du vị tử, Thiền cơ diệu ngộ, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương. Xuất một tự như, Khứ lai vô ngại. Cung duy - Tôn sư: Đạo phong trác thế, Giới đức siêu trần.
04/08/2010(Xem: 6559)
Có rất nhiều đám tang, không chỉ trong cộng đồng Phật Giáo mà cả trong các cộng đồng tôn giáo khác, khi đăng cáo phó thường ghi là: “Xin Miễn Phúng Điếu” và có một số cáo phó khác còn ghi rõ là: “Xin Miễn Phúng Điếu và Tặng Vòng Hoa”. Vậy xin hỏi: ý nghĩa của việc miễn phúng điếu này như thế nào? Nếu tang gia nhận tiền và tràng hoa người ta mang đến phúng điếu, thì người qua đời có mang nợ hay không? Và có nên nhận hay không nhận phúng điếu?
05/06/2010(Xem: 3158)
Sám Ngã Niệm - Cư Sĩ Hạnh Cơ dịch - Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp, Thất viên minh tánh tác trần lao, Xuất sanh nhập tử thọ luân hồi, Di trạng thù hình tao khổ sở, Túc ư thiểu thiện sanh nhơn đạo, Hoạch ngộ di phong đắc xuất gia,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567