Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sám Khể Thủ

08/04/201311:45(Xem: 14687)
Sám Khể Thủ

phat thich ca 2

SÁM KHỂ THỦ

Khể thủ Tây phương an lạc quốc,
Tiếp dẫn chúng sinh đại đạo sư,
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.

Đệ tử chúng đẳng,
Phổ vị tứ ân tam hữu,
Pháp giới chúng sinh,
Cầu ư chư Phật,
Nhứt thừa vô thượng,
Bồ-đề đạo cố,
Chuyên tâm trì niệm,
A Di Đà Phật,
Vạn đức hồng danh,
Cầu sanh Tịnh độ.
Hựu dĩ nghiệp trọng phước khinh,
Chướng thâm huệ thiển,
Nhiễm tâm dị xí,
Tịnh đức nan thành,
Kim ư Phật tiền,
Kiều cần ngũ thể,
Phi lịch nhứt tâm,
Đầu thành sám hối.
Ngã cập chúng sinh,
Khoáng kiếp chí kim,
Mê bổn tịnh tâm,
Túng tham sân si,
Nhiễm uế tam nghiệp,
Vô lượng vô biên,
Sở tác tội cấu,
Vô lượng vô biên,
Sở kết oan nghiệp,
Nguyện tất tiêu diệt.
Tùng ư kim nhựt,
Lập thâm thệ nguyện,
Viễn ly ác pháp,
Thệ bất cánh tạo,
Cần tu Thánh đạo,
Thệ bất thoái đọa,
Thệ thành Chánh giác,"
Thệ độ chúng sinh;
A Di Đà Phật,
Dĩ từ bi nguyện lực,
Đương chứng tri ngã,
Đương ai mẫn ngã,
Đương gia bị ngã.
Nguyện thiền quán chi trung,
Mộng mị chi tế,
Đắc kiến A Di Đà Phật,
Kim sắc chi thân,
Đắc lịch A Di Đà Phật,
Bảo nghiêm chi độ,
Đắc mông A Di Đà Phật,
Cam lồ quán đảnh,
Quang minh chiếu thân,
Thủ ma ngã đầu,
Y phú ngã thể,
Sử ngã túc chướng tự trừ,
Thiện căn tăng trưởng,
Tật không phiền não,
Đốn phá vô minh,
Viên giác diệu tâm,
Quách nhiên khai ngộ,
Tịch quang chân cảnh,
Thường đắc hiện tiền.
Chí ư lâm dục mạng chung,
Dự tri thời chí,
Thân vô nhứt thiết,
Bệnh khổ ách nạn
Tâm vô nhứt thiết,
Tham luyến mê hoặc,
Chư căn duyệt dự,
Chánh niệm phân minh,
Xả báo an tường,
Như nhập thiền định.
A Di Đà Phật
Dữ Quán Âm - Thế Chí,
Chư Thánh Hiền chúng,
Phóng quang tiếp dẫn,
Thùy thủ đề huề,
Lầu các tràng phan,
Dị hương thiên nhạc,
Tây phương thánh cảnh,
Chiêu thị mục tiền,
Linh chư chúng sinh
Kiến giả văn giả,
Hoan hỉ cảm thán,
Phát Bồ-đề tâm.
Ngã ư nhĩ thời,
Thừa kim cương đài,
Tùy tùng Phật hậu,
Như đàn chỉ khoảnh,
Sanh cực lạc quốc,
Thất bảo trì nội
Thắng liên hoa trung,
Hoa khai kiến Phật,
Kiến chư Bồ-tát,
Văn diệu pháp âm,
Hoạch vô sanh nhẫn:
Ư tu du gian,
Thừa sự chư Phật,
Thân mông thọ ký,
Đắc thọ ký dĩ,
Tam thân tứ trí,
Ngũ nhãn lục thông,
Vô lượng bách thiên,
Đà la ni môn,
Nhứt thiết công đức,
Giai tất thành tựu.
Nhiên hậu bất vi an dưỡng,
Hồi nhập Ta bà,
Phân thân vô số,
Biến thập phương sát,
Dĩ bất khả tư nghị,
Tự tại thần lực,
Chủng chủng phương tiện,
Độ thoát chúng sinh,
Hàm linh ly nhiễm,
Hoàn đắc tịnh tâm,
Đồng sanh Tây phương,
Nhập bất thoái địa.
Như thị đại nguyện:
Thế giới vô tận,
Chúng sinh vô tận,
Nghiệp cận phiền não,
Nhứt thiết vô tận,
Ngã nguyện vô tận.
Nguyện kim lễ Phật,
Phát nguyện tu trì,
Công đức hồi thí hữu tình,
Tứ ân tổng báo,
Tam hữu tề tư,
Pháp giới chúng sinh,
Đồng viên chủng trí.

*

Dịch nghĩa:

Sám Khể Thủ

Cúi đầu lạy đức Pháp vương,
Độ sanh về cõi Tây phương an nhàn,
Tôi nguyền cho được bước sang,
Cúi xin thương xót rước mang tôi về.
Nay đệ tử thành tâm phát nguyện
Vì bốn ơn ba cõi hữu tình,
Khắp trong pháp giới chúng sanh,
Cầu trên chư Phật ơn lành ban ra.
Nhứt thừa đại, thật là vô thượng,
Đạo Bồ đề, vô lượng chơn truyền,
Hồng danh vạn đức kết duyên,
Di Đà chuyên niệm, Tây thiên nguyện về.
Bởi nghiệp trọng, thêm bề phước kém,
Chướng đã sâu, huệ thiển vơi vơi,
Lại thêm lòng nhiễm dễ bồi,
Mà còn đức tịnh khó thời đạt nên.
Nay tôi ở hiện tiền các Phật,
Gieo vóc nằêm sát đất chí thành,
Tỏ bày một tấm chơn tình,
Thiệt lòng sám hối tội mình những bao.
Ta cùng với những nào các loại,
Trải qua bao nhiêu kiếp mãi đến nay,
Bổn tâm tịnh đã mê say,
Buông lòng tham ố, sân, si đủ điều.
Ba nghiệp nhiễm, biết bao dơ uế,
Gây tội tình, nào kể cho xong.
Nghiệp oan kết đã vô cùng
Ngày nay cầu nguyện hai đường sạch trong.
Từ nay đến hết, lòng khẩn thiết,
Gắng xa lìa việc ác chẳng sanh,
Cần tu thánh đạo cho thành,
Dứt đường thối chuyển, quyết tình tiến lên.
Bực chánh giác, nguyện nên đạo cả,
Chốn mê đồ, độ cả chúng sanh,
A Di Đà Phật chứng minh,
Dùng Từ bi lực, thương tình hộ cho.
Cầu khi ngủ, tưởng mơ thấp thoáng,
Hay khi trong thiền quán lặng an,
Thấy Di Đà Phật rõ ràng,
Hiện ra đức tướng sắc vàng quang minh.
Đặng vào chốn nước thành đẹp đẽ,
Toàn thất trân đầy vẻ trang nghiêm,
Nhờ ơn đức Phật oai thiêng,
Nước cam lồ rưới lên trên đảnh nầy.
Hào quang sáng phủ vây thân thể,
Cánh tay vàng Phật để đầu tôi,
Lấy y Phật đắp luôn hồi,
Khiến cho chướng cũ dứt rồi còn chi.
Thiện căn lớn, lại lìa phiền não,
Gốc vô minh, mở tháo khỏi lòng,
Tánh mầu viên giác khai thông,
Tịch quang chơn cảnh được trông thấy liền.
Lúc lâm chung gần viên thân báo,
Biết ngày giờ sắp đáo nhơn duyên,
Thân không ách nạn khổ phiền,
Lòng không một chút mê huyền thích ham.
Các căn đã hân hoan viên mãn,
Lại rõ ràng niệm quán chánh chơn,
Nhẹ nhàng bỏ khúc báo thân,
Như vào thiền định vui mừng thảnh thơi.
Vô Lượng Thọ, một ngôi pháp chủ,
Quan Âm cùng Thế Chí hầu kề,
Thánh Hiền đông đủ ê hề,
Phóng quang dìu dắt đề huề tiếp tay.
Trong lầu các phất bay phan phướn,
Hương đượm nồng nhạc xướng thanh tao,
Tây phương thánh cảnh đẹp sao !
Hiện ra trước mặt, xiết bao vui mừng.
Khiến hết thảy muôn trùng sinh chúng,
Đều được nghe, thấy đúng không sai,
Vui mừng cảm kích khen hoài,
Bồ đề tâm địa kịp thời phát ra.
Trong lúc ấy còn ta vui vẻ,
Cỡi kim đài, hầu kế Phật gia,
Móng tay vừa khảy búng ra,
Đã về Cực lạc, đến nhà Tây phương.
Ao thất bảo chín từng sen nở,
Liền hóa sanh ngồi ở phẩm trên,
Hoa nở thấy Phật hiện tiền,
Các ngài Bồ Tát luân phiên chào mừng.
Nghe Phật thuyết vô cùng pháp diệu,
Nhẫn vô sanh, liễu chứng tức thời,
Chỉ trong một khoảnh khắc thôi,
Vâng thờ chư Phật cầu Ngài dạy cho.
Được thọ ký còn lo chi nữa,
Bốn trí về cùng thửa ba thân,
Hiện bày ngũ nhãn, lục thông,
Tổng trì vô lượng trăm ngàn pháp môn.
Nào xiết kể các công đức tánh,
Đều chung qui muôn hạnh tựu thành,
Rồi sau trở lại nguyện mình,
Tánh nương an dưỡng, thân hoành trần ai.
Trong thế giới khắp mười phương cõi,
Phân thân này qua lại vô cùng,
Lực thần tự tại không lường,
Phương nầy chước nọ mở đường độ sanh.
Khiến lìa hết các tình nhiễm trước,
Bổn tâm mau lại được tịnh thanh,
Tây phương cõi Phật đồng sanh,
Vào nơi bất thối, đến thành biến tri.
Lời đại nguyện, gắng ghi như vậy,
Chúng sanh và thế giới đó đây,
Nghiệp duyên phiền não đông thay,
Thảy còn mãi mãi, nguyện nầy không phai.
Nay lễ Phật, nguyện nầy chí quyết,
Rán tu trì nhứt thiết đức công,
Bốn ân, ba cõi trả xong,
Đáp đến ơn nghĩa khắp trong hữu tình,
Như Lai chủng trí viên thành.

****



Phat Thich Ca-2a

SÁM KHỂ THỦ 

(dịch nghĩa)


Cúi đầu đảnh lễ, đấng Đại-từ-tôn
Tiếp-dẫn chúng-sinh, về nước An-Lạc
Đệ-tử phát nguyện, nguyện được vãng-sanh,
Xin nguyện Từ-bi, xót thương gia-hộ.
Đệ-tử khắp vì, bốn ơn ba cõi, pháp giới chúng-sinh, cầu đạo Bồ-đề, nhứt thừa vô-thượng, chuyên tâm trì niệm, A Di Đà Phật, muôn đức Hồng danh, cầu sinh Tịnh-độ. Đệ-tử phước cạn nghiệp sâu, chướng dày huệ mỏng, nhiễm tâm dễ khởi, tịnh đức khó thành, nay xin một lòng, tin thành sám-hối. Đệ-tử trải bao số kiếp, mê tâm bản tịnh, phóng tham sân si, nhiễm ố ba nghiệp, vô lượng vô biên, kết các oán nghiệp, nguyện xin tiêu diệt.
Đệ-tử từ nay, lập nguyện sâu bền, xa lìa pháp ác, thề chẳng tái phạm, siêng tu thánh đạo, thề không thối đọa, thề thành chánh giác, thề độ chúng sinh.
A Di Đà phật, lấy từ bi nguyện lực, xin chứng giám cho, xin thương tưởng cho, xin gia hộ cho. Nguyện lực thiền quán, hay trong chiêm bao, được thấy A Di Đà Phật, thân vàng chói sáng, được sanh A Di Đà Phật, cõi nước Bảo nghiêm, được ơn A Di Đà Phật, cam lồ quán đảnh, hào quang chiếu thân, tay rờ đỉnh đầu, y che thân thể, khiến cho đệ tử, tội chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, sạch dứt phiền não, liền phá vô minh, viên giác diệu tâm, bổng nhiên khai ngộ, cảnh chơn tịch quang, thường được hiện tiền.
Khi mạng gần chung, biết trước giờ chết, thân không hết thảy bệnh khổ ách nạn; tâm không hết thảy tham luyến mê hoặc; các căn vui đẹp, chánh niệm phân minh, bỏ báo-thân này, an như thiền định, A Di Đà Phật cùng Quán-Âm, Thế-Chí, các bậc Hiền Thánh, phóng quang tiếp dẫn, dìu dắt đề huề, tràng phan lâu các, hương lạ nhạc trời, cảnh Phật Tây Phương, rỡ bày trước mắt, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, hoan hỉ cảm thán, phát Bồ Đề tâm.
Đệ tử lúc ấy, ngồi đài kim cang theo hầu sau Phật, trong một khoảnh khắc, sinh về Cực-lạc, giữa hoa sen xinh, trong ao bảy báu, sen nở thấy Phật, thấy các Bồ-tát, nghe dạy pháp mầu, khiến chứng được quả, vô sinh Pháp nhẫn. Ở trong giây phút, thừa sự chư Phật, thân được thọ ký, thọ ký đã xong, tam thân tứ trí, ngũ nhãn lục thông, trăm ngàn vô lượng, đà la ni môn, hết thảy công đức, đều được thành tựu.
Rồi sau đệ-tử, lòng nương An dưỡng, trở lại Ta-bà phân thân vô số, cùng khắp mười phương, thần lực tự tại, không thể nghỉ nghì, dùng các phương tiện, độ thoát chúng sinh, khiến lìa lòng nhiễm, trở lại tánh chơn, đồng sinh Tây phương, chứng bậc bất-thối.
Đại nguyện như vậy, thế giới không cùng, chúng sanh không cùng, nghiệp và phiền não, hết thảy không cùng, nguyện lực đệ tử, cũng lại không cùng.
Nay xin lễ Phật, phát nguyện tu trì công đức, khắp thí hữu tình, rộng báo bốn ân, giúp cùng ba cõi, pháp giới chúng sinh, đồng viên chưởng trí.

---o0o---

Cập nhật: Tâm Thái

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2014(Xem: 34571)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
09/10/2014(Xem: 5919)
Một buổi lễ tụng kinh Pali theo truyền thống Nam tông Tụng kinh hay cầu kinh là một điều phổ biến trong các tôn giáo. Phật giáo cũng không ngoại lệ trong vấn đề này. Tuy nhiên, mục đích của việc tụng niệm thì khác nhau giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Phật giáo là tôn giáo duy nhất không xem tụng niệm như là cầu nguyện. Đức Phật trong nhiều phương cách đã chỉ dạy chúng ta phải có niềm tin vào hành động của mình và kết quả của nó, và qua đó khuyến khích chúng ta nương tựa vào chính mình mà không vào một ai khác. Điều này trong thực tế là điều cốt lõi nơi thông điệp sau cùng của Ngài ở trong kinh Đại Niết-bàn (Mahaparinibbana Sutta). Một trong những thông điệp trong kinh ngày là: “Này A Nan, hãy nương tựa chính mình và chớ nương tựa vào ai khác, hãy nương tựa Chánh pháp và chớ nương tựa vào pháp nào khác”.
25/09/2014(Xem: 26633)
Phụng hành lời giáo huấn của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni trong Kinh Du Hành - bộ Trường A Hàm : “ Chúng Tỳ Kheo phải thường xuyên theo đúng các qui định của Luật Tạng, để giảng luận Chánh Pháp, khiến cho các Tỳ Kheo trong trú xứ cùng sinh hoạt hòa hợp, là pháp đầu trong Bảy Pháp Bất Thối của hàng Thích tử ”. Theo tinh thần đó, chúng ta đã và đang nối gót các bậc Thầy Tổ trong sự nghiệp kế thừa gia bảo của Đức Thế Tôn qua Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư hay Ngày Về Nguồn năm nay là năm thứ 8.
08/09/2014(Xem: 8046)
Đức Phật từng dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý. Thứ nhất, người chưa hề phạm tội và thứ hai là người lỡ phạm tội nhưng hết lòng sám hối, nguyện không tái phạm.” Kinh sách ghi lại nhiều bài sám với những hình thức ngắn, dài, đại cương hoặc chi tiết, để mỗi hành giả tùy căn cơ, nhu cầu và phương tiện mà phát nguyện sám hối. Ở đây, chỉ xin được chia sẻ đôi giòng, sau hai tuần lễ đại chúng đạo tràng chùa Phật Tổ hành trì, trong khóa tu sẽ liên tục một tháng, tụng lạy bộ“Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp Lương Hoàng Sám”
02/09/2014(Xem: 9142)
Đạo Phật là Đạo cứu chúng sanh ra khỏi sáu cõi sinh, tử, luân hồi khổ đau, để đến các cõi Phật, là những cõi vô sanh, vô tử. Do đó chư Phật trong 10 phương thế giới Phật, đều thị hiện vào Tam giới, Lục đạo, để cứu khổ chúng sanh theo sở nguyện và phương tiện(giáo pháp, tâm đại từ bi, trí tuệ) của mình. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện vào cõi Ta bà, nói Pháp và hướng dẫn con Người tu tập giáo pháp, để giải thoát sanh tử, luân hồi. Đức Phật còn thuyết minh về các kinh
26/08/2014(Xem: 8784)
Với niềm tin rằng từ bỏ cõi đời ở thành phố linh thiêng Varanasi và ngâm mình dưới dòng sông Hằng thì linh hồn sẽ được gột rửa, nhiều người ở Ấn Độ tìm đến thành phố đó để chờ chết.
20/06/2014(Xem: 5581)
… Buỗi lễ vẫn tiếp diễn, chú bé được gội tóc sạch sẽ bằng xà-phòng, đầu được cạo láng bóng, bây giờ chú ra giếng múc nước để rữa những bụi tóc còn sót lại. Chú ở trần, chỉ mặc độc một chiếc quần bằng vải trắng tinh, rộng thùng thình may theo kiểu Ấn Độ. Một người lớn, có lẽ là bố chú, rữa chân cho chú, từ đầu gối trở xuống chú lại được dội nước từ đầu xuống chân. Tắm rữa sạch sẽ xong, chú cũng chỉ mặc chiếc quần trắng, mình trần . Vị Sư trưởng lấy chiếc áo Ca sa vàng vừa mới được dâng lên, cột chéo áo vào cổ chú, trước đó Ngài đã đọc một bài kinh ngắn và chú lập lại từng câu, bài kinh bằng tiếng Phạn nói lên ý nghĩa rời bỏ thế tục. Có câu chú nghe không trọn, Vị Sư trưởng lập lại cho chú đọc theo…
14/06/2014(Xem: 32283)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Đại Mông Sơn thuộc về loại chẩn tế cô hồn trọng đại. Đây là một hình thức tổ chức nghi thức lập đàn tràng chẩn tế cô hồn rất lớn. Như đại lễ trai đàn chẩn tế bình đẳng giải oan năm 2007, do Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cùng chư Tăng Ni Làng Mai, đã hợp tác cùng Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam trong nước tổ chức ở ba nơi: chùa Vĩnh Nghiêm (Sài Gòn), chùa Diệu Đế (Huế), chùa Sóc Sơn (Hà Nội). Cả ba nơi lập trai đàn chẩn tế này mọi người đến dự lễ rất đông, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hay đảng phái chánh trị.
11/06/2014(Xem: 6366)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp như cá mòi, có người đã bắt đầu “lên dây đàn” mở màn cho buổi hòa tấu. Nhìn quanh không còn chỗ nào trống để ngả lưng. Đang đứng ngơ ngác ở hành lang cầu thang, tôi định trải túi ngủ nằm bừa xuống, có chị bạn đạo vừa chuyển mình nhích qua một bên, vừa cất tiếng:
07/06/2014(Xem: 6790)
Thời xưa, khi mới bắt đầu tu tập, tôi rất muốn tụng kinh và đi hỏi xem nên tụng cuốn nào. Được khuyên bảo và tôi mua cuốn “Chư kinh nhật tụng”. Thầy chùa bảo, cứ tụng đi, tụng hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567