Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 12

03/05/201316:19(Xem: 3919)
Phần 12


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

Phần 12

Ðại sư thứ 56

LUCIKAPA

(Kẻ đào tẩu)

Từ vô thuỷ đến vô chung

Ta đắm mình trong bể trầm luân

Lời của chân sư là con tàu vửng chải

Giúp ta vượt qua bao đại dương

Ðến bên kia bờ giải thoát

Lucikapa là một người thuộc giai cấp bà-la-môn.Vì thấy cảnh chết chóc của những người chung quanh,ông sinh ra chán nãn không muốn sống ở chốn phồn hoa đô hội mà ẩn cư nơi xa xôi hẻo lánh.Lucikapa rất muốn tu tập phép Phật nhưng chưa tìm được cho mình một chân sư.Một hôm nhìn thấy một vị tăng đi ngang qua chổ ở,ông vội ra vái chào và đảnh lễ rất cung kính.Sư hỏi:

-Vì sao ngươi vái chào ta?

-Thưa,bấy lâu tôi mong được tu tập phép Phật nhưng chưa gặp được chân sư.Nay duyên may đưa đến,xin thầy xót thương truyền cho diệu pháp.

Sư hoan hỷ làm phép quán đảnh và khai tâm cho Lucikapa.Y pháp tu tập,sau mười hai năm thì Lucikapa đắc pháp.Ông dọc bài kệ ngắn nói lên sự giác ngộ của mình:

Luân hồi và niết bàn là hai

Riêng ta thấy ấy hai mà một

Giải thoát chính là niềm an lạc

Chẳng dựa vào một vật gì,thời

Khó khăn máy cũng qua được bờ kia

^

Ðại sư thứ 57

NIRGUNAPA

(Trẻ thơ giác ngộ)

Giáo pháp của chân sư

Dẫn đường ta đi đến chốn bình an

Nơi ấy,

Không có chổ cho cảm xúc dữ dội hay

Tư tưởng mâu thuẩn trú ngụ

Lời dạy của một chân sư

Làm tan những cơn sóng dữ

Những cơn sóng quấy rầy ta trong thiền định

Nirgunapa sinh trưởng ở vùng Purvadesa.Sự ra đời của ông thật sự là một niềm vui sướng lớn đối với cả gia đình.Ðiều không may là khi lớn lên, Nirgunapa không thể ngồi dậy được hay làm các cử động bình thường như bao đứa trẻ khác.Ðiều này khiến bố mẹ của Nirgunapa thất vọng.Hơn nữa,tuy lớn tuổi nhưng trí óc của cậu chẳng khác nào của trẻ lên năm.Họ bảo:

-Thằng Nirgunapa nhà ta thật là vô tích sự. Lẻ ra,chúng ta chẳng nên sinh nó ra làm gì.

Tuy khờ khạo nhưng nghe những lời bố mẹ than phiền, Nirgunapa buồn tủi lắm.Cho đến một hôm Nirgunapa tự lăn mình ra khỏi nhà đến một nơi vắng vẻ.Ở đấy,cậu gặp một nhà sư du-già.Sư bảo:

-Ngươi hảy đứng dậy,vào thành mà kiếm cơm.Cớ sao cứ nằm ì ra đấy?

-Tôi không thể ngồi dậy dược.

Thương hại cho hoàn cảnh của Nirgunapa,sư nhường cho cậu một ít thức ăn,và hỏi:

-Ngươi có biết làm nghề gì không?

-Thưa thầy,tôi không biết làm gì cả.

-Nhưng ngươi còn phải ăn.Không sợ chết đói à?

-Thưa có, nhưng tôi biết phải làm gì đây?

-Nếu ngươi có thể gắng công tu tập thiền định,ta sẽ dạy cho.

-Thưa thầy,nếu nằm mà thiền định được thì tôi xin vâng.

Sư làm phép khai tâm cho Nirgunapa và dạy:

-Người-ngộ và pháp-được-ngộ đều là vô minh cả.kẻ nào không chấp nhận chân lý ấy thời sẽ bị phiền não sai xử.Khi tâm thức vắng lặng thì phiền não ấy không có chổ trụ.Không có sự tách biệt giữa các pháp và tánh không.Nếu nắm bắt được chân lý này, ngươi có thể đi lại tự tại.

Nirgunapa tuân theo lời dạy của sư,vừa khất thực độ thân vừa tu tập thiền định cho đến khi ngộ được các pháp và tánh không là sự hợp nhất của ánh sáng tự tâm.Những ai gặp ngài hỏi han lai lịch xuất thân của ngài, Nirgunapa thường nhìn chằm chằm vào mắt họ với ánh mắt từ bi khiến kẻ đó phải động lòng rơi lệ và khóc theo ngài.

^

Ðại sư thứ 58

JAYANADA

(Ðiểu sư)

Vào đại định,ta náu mình trong thanh tịnh

Thoát khỏi bủa vây của sự phân biệt tư lương

Nhận biết rằng ta đã thoát tai ương

Vì vọng tưởng đã không còn theo đuổi kịp

Jayanada là một quan nhân ở xứ Bengal theo đạo Bà-la-môn.Ðức vua xứ này cũng là người của Bà-la-môn giáo.Tuy vậy, Jayanada rất hâm mộ đạo Phật và ngài bí mật cải đạo,tu tập pháp môn mật-tông.Ngài có những sở đắc tâm linh mà không một ai biết được điều bí ẩn này.

Trong lúc ngài tu pháp “bi điền” tức pháp tu cúng dường thức ăn bằng cách gia trì mật chú rồi sau đó tung lên trên không trung để hiến cúng cho chư thần.Có người biết được bèn tâu với nhà vua.Ðức vua ra lệnh giam ông vào ngục tối.

-Tâu bệ hạ,cúng dường cho thần thánh đâu phải là tội lỗi.Xin bệ hạ xem xét.

Nhưng nhà vua vẫn không thay đổi quyết định.Ở trong ngục, Jayanada vẫn tu tập và bớt phần thức ăn ném ra bên ngoài cửa sổ để cúng dường.Mỗi lần như thế có một bầy quạ đế để ăn những thức ăn đó.Thấy hiện tượng lạ ấy,vua ra lệnh cho dời Jayanada đến một trại giam khác.Thấy không có thức ăn như thường lệ,đàn quạ kết tụ thành một đàn lớn,đông vô số kể bay đến hoàng cung,cắn mổ tất cả mọi người.Chúng cho rằng đức vua đã cầm tù Jayanada,người nuôi dưỡng chúng.Vua nhận thấy rằng Jayanada vô tội,bèn thả ngài ra và yêu cầu ngài xua đàn chim ấy đi,đồng thời ban cho hai mươi đấu gạo để ngài cho chim ăn hàng ngày

^

Ðai sư thứ 59

PACARIPA

(Thợ làm bánh)

Ðừng nhìn quanh quẩn

Chú mục vào tâm

Thiền định thực hành

Ðược vui thanh tịnh

Pacaripa làm nghề bán bánh mì dạo ở thành Campa.Vì nghèo khổ,ông chỉ có độc một bộ quần áo duy nhất mang trên người.Ông thường nhận bành mì của một chủ hiệu rồi đem đi bán dạo khắp nơi để kiếm sống.Một ngày nọ,ông không hề bán được một ổ bánh nào mà bụng thì đói meo nên đành phải ăn một ổ.Chưa ăn hết phân nữa thì một nhà sư đến khất thực;thực ra đây là hoá thân của Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, Pacaripa đành nhịn phần mình để cúng dường cho vị sư ấy.Tuy vậy,trước khi trao bánh, Pacaripa cung kính đảnh lễ sư,và thật lòng cho biết bánh ấy không phải của mình.Sư cười nói:

-Vậy,ngươi là đại thí chủ của ta.Có lẽ ta nên truyền pháp của ta cho ngươi.

Pacaripa chuẩn bị một mạn-đà-la và dâng hoa cho sư.Ðáp lại,nhà sư làm lễ qui y,truyền Lục Tự Ðại Minh Chơn Ngôn và Bồ Tát giới cho ông.

Một ngày nọ, Pacaripa tình cờ gặp lại ông chủ hiệu bánh mì.Ông này đòi khoản tiền mà Pacaripa còn thiếu lại.Ông bảo ông không có gì sở hữu đáng giá để trừ vào món nợ cũ khiến người chủ bánh tức giận xông vào đánh đập Pacaripa.Ông kêu lên:

-Ðâu chỉ một mình ta ăn.Cả thầy lẫn trò ta ăn.

Tiếng kêu của Pacaripa vang dội như tiếng sấm khiến ông chủ bánh hoảng sợ dừng tay:

-Ta đánh ngươi như thế đã trừ đủ nợ.Bây giờ,ngươi hảy đi cho khuất mắt ta.

Pacaripa đi vào một ngôi đền thờ Ðức Quán Thế Âm,ông đứng trước tượng đòi tiền nửa ổ bánh mì,lập tức ba mươi lạng vàng hiện ra trước mắt.Pacaripa lấy số vàng này trả nợ cho ông chủ bánh.

Pacaripa thầm nghĩ:” Hẳn đức Quán Thế Âm là thầy của ta.”Vì vậy,ông khởi hành đi về phía núi Potala,là nơi Bồ Tát trú ngụ.Trên đường,Pacaripa phải băng qua một rừng gai,có lúc bị gai nhọn đâm vào da thịt,chân tay đến rướm máu,Ðau đớn,Pacaripa kêu lớn danh hiệu của Bồ Tát,đức Quán Thế Âm bèn hiện ra:

-Ðúng,ta chính là chân sư của ngươi.Ngươi không cần phải đến Potala nữa mà hảy quay về Campa để hoằng dương chánh pháp.

Pacaripa quá đổi vui mừng bay bổng lên không,rồi quay về xứ cũ.

^

ÐẠI SƯ THỨ 60

CAMPAKA

Ðức vua yêu hoa.

Thanh quang hiển hiện

Ðó là sự kết hợp

Của Bi và Trí

Tuyệt đối bẩm sinh (Sahaja)

Là cây Như Ý

Hoa trái của nó

Là Ba thân Phật.

Sở dĩ đức vua xứ Campa lấy vương hiệu là Campaka là vì xứ này có một loài hoa gồm hai màu vàng trắng rất thơm va đẹp. Nhà vua rất yêu loài hoa đặc biệt này ngoài nỗi vui thú quyền lực.

Trong vườn Thượng uyển của cung điện mùa hè luôn luôn có một chiếc ngai kết bằng hoa Campaka vàng. Một hôm nhà vua đang ngự trên chiếc ngai đặc biệt ấy thì một nhà sư đến để khất thực. Vua rửa chân cho Sư và cho người mang đến một chiếc đệm để Sư an toạ, đoạn cúng dường vật thực. Sau đó, Vua cùng triều thần nghe Sư thuyết pháp.

- Thưa thầy ! Ngài đã vân du khắp nơi, ngài có bao giờ thấy loại hoa nào đẹp như hoa ở đây không ? Và có vị vua nào như quả nhân không, thưa ngài ?

- Tâu Bệ hạ ! Hương của loài hoa Campaka thật là kỳ diệu, khó có loài hoa nào sánh bằng. Nhưng mùi phát từ thân của Bệ hạ thật khó ngửi. Thật vậy, vương quốc của Bệ hạ giàu có, hùng mạnh, nhưng rồi đây ngài củng phải bỏ lại tất cả để rồi ra di với đôi bàn tay trắng.

-Những lời lẽ của Sư khiến nhà vua xét lại bản thân mình. Ngài cầu xin nhà Sư dạy thêm Phật pháp. Sư bèn dạy cho nhà vua về luật Nhân quả. Một thứ luật chi phối mọi hoạt động của con người. Kế đó, Sư truyền cho nhà vua phép thiền định. Nhưng nhà vua lâu nay có thói quen thưởng ngoạn hoa và tâm trí lúc nào cũng nhớ đến hoa kiểng nên khó tu hành tinh tấn. Sư biết việc, bèn nói:

Các pháp vốn không

Ðây là hoa của giáo pháp

Tâm trí là ong

Hút nhuỵ không hề cạn

Ong, hoa, phấn, là một

Niềm an lạc là mật

Ấy là lời Phật dạy

Hãy tu chớ nghi ngờ.

Campaka nghe lời dạy, nắm được yếu lý của pháp tu. Ngài thực hành 12 năm thời chứng đắc.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 34189)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
08/04/2013(Xem: 7489)
Những chỉ dạy gồm những trong Những Khai thị từ Đức Liên Hoa Sanh được nói trực tiếp bởi Padmasambhava cho các đệ tử thân thiết ở Tây Tạng. Trước tiên chúng được ban cho để trả lời các câu hỏi từ Bà Tsogyal, công chúa của Kharchen, bà chép lại và cất giấu chúng như kho tàng Terma quý báu để sẽ được khám phá vào nhiều thế kỷ sau.
08/04/2013(Xem: 5955)
Vào trung tuần tháng 12 (từ ngày 11 đến 19/12) năm 1994, tại sân vận động Olympic, thuộc bang Barcelona, nước Tây Ban Nha, đã diễn ra tuần lễ thuyết Pháp và truyền Pháp Mật Tông KALACHAKRA theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chủ trì.
08/04/2013(Xem: 4860)
Thành ngữ « Pháp Nghệ Thuật Thưởng Thức Chân Chính » không có nghĩa tượng trưng cho những biểu tượng hay nhận định về bánh xe cuộc đời hoặc lịch sử Đức Phật Gautama; ở đây muốn nói đến nghệ thuật phóng xuất trạng thái tâm thức nơi người nghệ sĩ, có thể gọi những phóng xuất trạng thái Thiền định trực tiếp trong sáng tạo không bám víu vào tư tưởng hay thiên kiến.
08/04/2013(Xem: 19004)
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát từ Tòa đứng dậy, trật áo bên phải , quỳ xuống chắp tay , đảnh lễ chân Phật, bạch rằng :” Thế Tôn ! Con muốn nói Pháp , hay trừ nghiệp chướng trong ba đời. Mong Thế Tôn từ bi hứa khả “
08/04/2013(Xem: 11029)
Đều để Kệ Duyên Khởi Số đủ như Kinh nói Làm đủ như vậy xong Pháp tu trì niệm tụng Dùng đây làm phước điền Tất cả các Hữu Tình Mau thành A Súc Phật
08/04/2013(Xem: 11361)
An( Om ) Cứu Độ Du Hồi Đáp Liệt Mẫu (Samskara Tàre – Độ thoát luân hồi Mẫu ) Dùng Đô Đáp Liệt (Tuttàre) thoát tám nạn. Tất cả bệnh tội, Đô Liệt (Tùre) cứu Trước Cứu Độ Mẫu kính tán lễ
08/04/2013(Xem: 12196)
Bạch tản cái đại phật đỉnh vương tối thắng vô tỷ đại uy đức kim cương vô ngại đại đạo trường đà la ni niệm tụng pháp yếu
08/04/2013(Xem: 10172)
Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có toàn thân màu xanh ngọc bích, ngự trong cung điện báu trên tòa sen trăm báu (Bách Bảo Liên Hoa tòa) , nhập vào Tam Muội ĐẠI KHÔNG phóng tỏa ra vô số ánh sáng.
08/04/2013(Xem: 7183)
Nạp mộ hạt lạt đát na đát lạt dạ gia ( 1 ) Nạp mộ a lạt-gia ( 2 ) Phộc lô chỉ đê thấp phiệt la gia ( 3 ) Bộ địa tát đỏa gia ( 4 ) Mô ha tát đỏa gia ( 5 ) Mô ha ca lô nặc ca gia ( 6 ) Đát điệt tha ( 7 )
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567