Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Thiền Và Thắng Trí

30/04/201103:19(Xem: 5763)
2. Thiền Và Thắng Trí

BƯỚCĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG THIỀN
HT Thích Thanh Từ

THIỀN VÀ THẮNG TRÍ

Kinh Thiền và Thắng Trí trong Tương Ưng bộ thuộc hệ Pàli và kinh 1142 trong Tạp A Hàm thuộc hệ Sanskrit, nội dung Phật xác nhận tâm hạnh của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp trước chúng Tỳ kheo, là người có công đức và trí tuệ thù thắng. Hôm nay, chúng ta nghiên cứu qua hai kinh này xem Phật xác nhận tâm hạnh Tôn giả Ma Ha Ca Diếp như thế nào?

KINH 1142

Một hôm, Phật ở nước Xá Vệ,rừng cây Kỳ Đà, vườn ông Cấp Cô Độc, tôi nghe như vầy:

Lúc đó, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã ở lâu tại nước Xá Vệ chỗ sàng tòa vắng vẻ, râu tóc dài thượt, mặc chiếc y kết bằng vải rách đi đến chỗ Phật. Lúc đó vây quanh Thế Tôn, đại chúng đông vô số, Phật đang nói pháp, Chư Tỳ kheo thấy Ma Ha Ca Diếp từ xa đi đến liền khởi tâm khinh mạn nói:

- Đây là Tỳ kheo gì mà y phục xấu xa, không có nghi dung, đi chậm rãi đến. Thế Tôn biết tâm niệm các Tỳ kheo liền gọi Ma Ha Ca Diếp:

- Ca Diếp đến đây ! Đây cònnửa tòa nhường ông, Ta đã biết: Ai đã xuất gia trước. Ông chăng? Ta chăng?

Các Tỳ kheo kia tâm sanh kinh hãi, lông dựng ngược, cùng nói với nhau :

- Kỳ thay, Tôn giả, Tôn giảMa Ha Ca Diếp kia đại đức, đại lực, Thế Tôn mời ngồi nửa toà.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp chắp tay bạch Phật:

- Thế Tôn là thầy con, con là đệ tử.

Phật bảo Ca Diếp:

- Như thế, như thế, Ta là thầy, ông là đệ tử, ông hãy tùy chỗ ngồi.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên. Khi ấy, Thế Tôn muốn kỉnh ngộ các Tỳ kheo, lại do Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đồng được công đức thù thắng quảng đại với mình, vì chúng hiện tại nên bảo các Tỳ kheo:

- Ta lìa dục pháp ác bất thiện, có giác có quán, trụ Sơ thiền cụ túc, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng như ta, lìa dục pháp ác bất thiện, cho đến trụ SơThiền cụ túc hoặc ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ta muốn trụ đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha CaDiếp cũng lại như thế. Ta tùy muốn trụ từ bi hỷ xả, Không nhập xứ. Thức nhập xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, cảnh giới thần thông thiên, nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm; Ma Ha Ca Diếp cũng lại như thế.

Khi ấy Thế Tôn ở trong đại chúng số đông vô lượng khen ngợi Ma Ha Ca Diếp công đức thắng diệu, quảng đại đồng với mình, rồi chư Tỳ kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.

KINH THIỀN VÀ THẮNG TRÍ

1. Trú ở Sàvatthi

2. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Sơ thiền, mộttâm trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ...

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú SơThiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ...

3. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo. Ta diệt tầm và tứ, chứng đạt an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

4. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ màcác bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.

5. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta xả lạc khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo Kassapa cũng xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt và an trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

6. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chứng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng. Ta nghĩ rằng: "Hư không là vô biên". Chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.

Tuỳ theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng không tác ý đối với di tưởng, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.

7. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên"chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi Không vô biên xứ... chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.

8. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì",chứng và an trú Vô sở hữu xứ.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng vượt lên mọi Thức vô biên xứ... chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.

9. Tùy theo mong muốn, này các Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng đạt và an trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng... chứng đạt và an trú Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ.

10. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, ta vượt lên mọi Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ chứng đạt và an trúDiệt thọ tưởng định.

Tùy theo mong muốn... Kassapa cũng... chứng đạt và an trú Diệt thọ tưởng định.

11. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, ta chứng đạt các loại thần thông.Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến hình đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi ngang hư không, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ởtrong nước, đi trên nước không chìm như trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng chứng đạt được các loại thần thông.... bay đến cõi Phạm Thiên.

12. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, ta với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng : Chư thiên và loài người, xa và gần.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng với Thiên Nhĩ thanh tịnh... xa và gần.

13. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình, ta có thể biết như sau: "Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm không chuyên chú biết là tâm không chuyên chú. Đại hành tâm biết là Đại hành tâm. Không phải Đại hành tâm biết là không phải Đại hành tâm. Tâm chưa Vô thượng biết làtâm chưa Vô thượng. Tâm Vô thượng biết là tâm Vô thượng. Tâm thiền định biết là tâm thiền định. Tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm khônggiải thoát.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của mình, Kassapa cũng được biết như sau: Tâm có tham biết là tâm có tham... Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát.

14. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời,bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, 30 đời, 40 đời, 50, đời một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thếnày, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia. Ta được sanhra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, giòng họ như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ở đây. Như vậy, ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết".

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... và các chi tiết.

15. Tùy theo mong muốn, nàycác Tỳ kheo, ta với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân thấy các chúng sanh. Tabiết rõ ràng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẻ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Những bậc chúng sanh ấy làm những ác hạnh về thân ngữ ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những bậc chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy,với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng.

Tùy theo mong muốn, này cácTỳ kheo, Kassapa cũng với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết các chúng sanh... đều do hạnh nghiệp của chúng.

16. Và Ta, này các Tỳ kheo,với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí Ta chứng ngộ Vô lậu tâm giải thoát, TUỆ giải thoát, chứng đạt và an trú.

Này các Tỳ kheo, Kassapa cũng với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với trí chứng ngộ Vô lậu tâm giải thoát, Tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú.

GIẢNG

Kinh 1142 trong Tạp A Hàm thuộc hệ Sanskrit và Kinh Thiền và Thắng Trí trong Tương Ưng Bộ thuộc hệ Palicó mối liên hệ với Thiền tông đáng lưu ý mà người tu Thiền chúng ta không thể bỏ qua.

Từ lâu có sự ngờ vực về việc Phật truyền tâm ấn cho Ngài Ma Ha Ca Diếp. Đọc các kinh không thấy nói màtrong sử Thiền tông lại có ghi sự truyền thừa từ trước tới sau. Hôm nay, chúng ta học qua hai kinh này xem Ngài Ma Ha Ca Diếp có xứng đáng để thừa kế Phật không?

Lúc đó, tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã ở lâu tại nước Xá Vệ, chỗ sàng tòa vắng vẻ, râu tóc dài thượt, mặc chiếc y kết bằng vải rách đi đến chỗ Phật. Lúc đó, vây quanh Thế Tôn đại chúng đông vô số. Phật đang nói pháp. Chư Tỳ kheo thấy Ma Ha Ca Diếp từ xa đi đến,liền khởi tâm khinh mạn: Đây là Tỳ kheo gì mà y phục xấu xa, không có nghi dung đi chậm rãi đến. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là một trong mười vị đệ tử lớn của Phật, chuyên tu hạnh đầu đà, Ngài ở một mình nơi vắng vẻ, râu tóc radài chưa cạo. Mặc thì lượm từng miếng vải bỏ kết lại thành y, nên y xấu và thô. Ngài đến với đức Phật trong lúc chúng tân Tỳ kheo đang nghe pháp. Họlà những người đến sau nên không biết Ngài, với tâm thiển cận đánh giá người qua lớp áo bên ngoài, nên khởi tâm khinh mạn chê Ngài ăn mặc thô xấudung nghi không tươi đẹp.

Thế Tôn biết tâm niệm các Tỳ kheo liền gọi Ma Ha Ca Diếp:

- Ca Diếp đến đây! Đây còn nửa tòa nhường ông, Ta đã biết: ai xuất gia trước, ông chăng? Ta chăng?.

Thế Tôn biết các vị tân Tỳ kheo đang khởi tâm kiêu mạn, khinh chê xem thường Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Để cảnh tỉnh họ, Thế Tôn bèn kêu Ngài lại nhường cho nửa tòa ngồi. Nếu thực chất đức hạnh và trí huệ của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp còn kém, dù cho Phật có muốn cảnh tỉnh răn dạy hàng tân Tỳ kheo, Phật cũng không thể làm như vậy được,vì làm như thế không đúng ý nghĩa, mà Phật thì không nói hay làm một điều gì vô nghĩa. Chính vì Phật đã thấy trí tuệ và đức hạnh của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp xấp xỉ với Phật, nên mới kêu lại ngồi cùng tòa. Đọc lại những bài kinh nói về những vị đệ tử lớn của Phật, chúng ta không thấy vị nào được Phậtkêu ngồi cùng tòa, chỉ có bài kinh này Phật kêu Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhường cho nửa tòa ngồi. Điều này chứng minh rằng: khả năng của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đủ sức kế thừa mạng mạch Phật pháp về sau.

Các Tỳ kheo kia tâm sanh kinh hãi lông dựng ngược, cùng nói với nhau:

- Kỳ thay! Tôn giả, Tôn giảMa Ha Ca Diếp kia đại đức đại lực, Thế Tôn mời ngồi nửa tòa.

Thấy Phật xử sự với Tôn giảMa Ha Ca Diếp như vậy, các vị tân Tỳ kheo hốt hoảng, bàn với nhau không biết Tôn giả đó là ai, ắt phải có khả năng, có trí tuệ vĩ đại mới được đức Thế Tôn quý trọng mời ngồi chung tòa.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp chấp tay bạch Phật:

- Thế Tôn là thầy, con là đệ tử.

Phật bảo Ca Diếp:

- Như thế, như thế, ta là thầy, ông là đệ tử, ông hãy tùy chỗ ngồi.

Tuy được Đức Phật xử sự ngang hàng với Phật nhưng Tôn giả Ma Ha Ca Diếp vẫn thủ lễ của một người trò, không nhân cơ hội Phật ưu đãi mà sanh tâm cậy thế cầu cao. Phật thấy Tôn giả Ma Ha Ca Diếp giữ lễ mới bảo: Nếu ông thấy ông là đệ tử thì thôi tùy ý ôngmuốn ngồi đâu thì ngồi.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cúi đầu lễ dưới chân Phật, lui ngồi một bên. Khi ấy, Thế Tôn muốn kỉnh ngộ các Tỳ kheo, lại do Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đồng được công đức thù thắng quảng đại với mình, vì chúng hiện tại nên bảo các Tỳ kheo:

- Ta lìa dục pháp ác bất thiện có giác, có quán, trụ sơ thiền cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha Ca Diếp cũng như Ta, lìa dục pháp ác bất thiện, cho đến trụ sơthiền cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ta muốn trụ đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền cụ túc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm. Ma Ha CaDiếp cũng như thế. Ta tùy muốn trụ từ bi hỷ xả, Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ, Phi tưởng Phi Phi tưởng nhập xứ, cảnh giới thần thông thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí cụ túc hoặcngày hoặc đêm, hoặc trọn ngày đêm, Ma Ha Ca Diếp cũng lại như thế.

Khi ấy, Thế Tôn ở trong đạichúng số đông vô lượng khen ngợi Ma Ha Ca Diếp công đức thắng diệu, quãng đại đồng với mình rồi, chư Tỳ kheo nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.

Phật cảnh ngộ để các Tỳ kheo hiểu rõ công đức trí tuệ của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp thù thắng quãng đại, có thể tương đương với Phật: Phật đã lìa dục, lìa các pháp bất thiện, có giác có quán, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng lìa dục, lìa các pháp bất thiện, cógiác có quán. Phật chứng tứ thiền (sắc giới), Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng chứng tứ thiền. Phật trụ tứ vô lượng tâm. Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cùng trụ tứ vô lượng tâm. Phật nhập tứ định (Vô sắc giới). Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng nhập tứ định, cho đến lục thông tứ trí Phật chứng tới đâu thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp chứng tới đó. Phật nói giữa chúng như thế là công khai thừa nhận tôngiả Ma Ha Ca Diếp có khả năng, có trí tuệ thù thắng, gần tương đương với Phật. Trước Phật mời Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ngồi chung tòa với Phật, kế Phật nói thể trạng tu chứng của Phật đến đâu là tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng tuchứng đến đó. Giả sử không có những bài kinh nói về việc truyền pháp cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp , nhưng qua lời xác chứng của Phật trong bài kinh này,chúng ta thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp là người xứng đáng kế thừa Phật, cho nên Phật mới nói như vậy.

Kinh Thiền Và Thắng Trí trong Tương Ưng bộ tập II trang 241 do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch không có giai thoại Phật mời Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp ngồi nửa tòa . Song, Phật xác nhận với chúng Tỳ kheo là, tùy theo mong muốn, Phật lìa dục, lìa các phápbất thiện, chứng đạt và an trú từ sơ thiền cho đến tứ thiền ở sắùc giới,tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng tùy theo mong muốn chứng từ sơ thiền cho đến tứ thiền. Phật chứng đạt tứ thiền ở vô sắc giới thì tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũngchứng tứ thiền ở vô sắc giới. Phật an trú diệt thọ tưởng định, chứng sáu thắng trí.Tôn giả Ma Ha Ca Diếp cũng an trú diệt thọ tưởng định, chứng sáuthắng trí. Đức Phật xác định khả năng trí tuệ của tôn giả Ma Ha Ca Diếp rất rõ ở đoạn 16: " Này các Tỳ kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay tronghiện tại, tự mình với thắng trí, ta chứng ngộ vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú."

" Này các Tỳ kheo, Kassapa cùng với sự đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự mình với trí chứng ngộ vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chứng đạt và an trú".

Qua đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ ràng Đức Phật thừa nhận Tôn giả Ma Ha Ca Diếp có khả năng như Phật. Đó là lý do mà các thiền sư nói Phật truyền tâm ấn cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Tuy ở kinh không nói truyền tâm ấn mà Phật xác nhận khả năng chứng đắc của Tôn giả Ma Ha Ca Diếp trước chúng Tỳ kheo, thì có khác gì truyền tâm ấn.Vì truyền tâm ấn là một lối xác nhận thầy chứng đắc tới đâu, trò chứng đắt tới đó.

Thiền tông thường đề cập việc Tôn giả Ma Ha Ca Diếp được Phật truyền tâm ấn ba lần.

Lần nổi bật nhất là ở hội Linh Sơn trên núi Kỳ Xà Quật, Phật cầm cành hoa sen đưa mắt nhìn khắp chúng, cả hội đều ngơ ngác. Chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhìn thấy chúm chím cười.Phật bảo: "Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi, ngươi khéo gìn giữ, truyền trao mãi đừng cho dứt mất, đến sau sẽ truyền cho A Nan". Phật ở trên nhìn xuống, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ở dưới nhìn lên,tâm Phật tâm Tôn giả Ma Ha Ca Diếp khế hội nhau, thông cảm nhau nên đượcThiền tông coi sự kiện đó là truyền tâm ấn.

Lần thứ hai ở tháp Đa Hòa, như kinh 1142 hay Thiền và Thắng Trí mà chúng ta vừa đọc qua. Bài kinh tuy Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ kheo xem thường Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Nhưng dưới mắt Thiền tông thì đức Phật đã khen ngợi Tôn giả Ma Ha CaDiếp có đầy đủ công đức và trí tuệ thù thắng cũng như Đức Phật đã có và xứngđáng cho Phật nhường nửa tòa ngồi.

Theo Thiền tông, truyền tâmấn là việc xác chứng thầy chứng đắc tới đâu, trò cũng chứng đắc tới đó. Như vậy, không phải truyền tâm ấn là gì?

Lần thứ ba, tại đền Makuta bandhana, thành Kusinàrà, khi Thế Tôn nhập diệt, nhục thân được liệmvào kim quan và đưa lên giàn hỏa để trà tỳ, châm lửa thiêu ba lần mà vẫn không cháy. Trong khi hai đệ tử lớn là Anuruddha và Ananda có mặt tại đó mà không làm cho lửa cháy được. Mãi đến khi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp từ núi Kỳ Xà Quật đến, đi nhiễu quanh kim quan ba vòng rồi cởi mở chân và cúi đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn. Khi Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đảnh lễ Thế Tôn xong, thì giàn hỏa tự bắt lửa cháy.

Sự kiện vừa nêu đã nói lên sự tương quan cảm thông rất lớn giữa Phật và Tôn giả Ma Ha Ca Diếp ở giờ phút cuối cùng. Dưới mắt Thiền tông coi sự tương quan cảm thông đó là truyền tâm ấn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2016(Xem: 10770)
Thiền định dựa vào hơi thở là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền phát huy một sự chú tâm cao độ mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức giúp mình trở về với chính mình hầu tìm hiểu tâm thức và con người của chính mình. Kỹ thuật đặc biệt này được áp dụng trong phép thiền định thật căn bản của Phật giáo Theravada là Vipassana.
08/12/2015(Xem: 39399)
Bạn đang cầm trong tay một cuốn cẩm nang hướng dẫn hành Thiền thật hữu ích và tinh tế, do một vị sư đầy kinh nghiệm tu tập uyên thâm trình bày. Ajahn Brahm là một trong những vị sư thuộc thế hệ mới của những tăng sĩ Tây phương đã tu học, thực hành và nắm vững giáo lý quan trọng của Đức Phật, và nay Sư cống hiến kinh nghiệm ấy cho các hành giả thành tâm trên khắp thế giới hiện đại.
31/10/2015(Xem: 11673)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
02/12/2014(Xem: 24059)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
03/10/2013(Xem: 12052)
Qua đề tài: “Sự tương quan giữa các pháp môn hành trì Thiền – Tịnh – Luật của người tu tập” mà chiều hôm nay sau hai tiếng đồng hồ với 11 ý kiến phát biểu, chia sẻ và cùng nhau thảo luận, chúng tôi hết sức hoan hỷ và trân trọng tinh thần tham gia đóng góp ý kiến của Đại chúng. Qua đó chúng tôi xin rút gọn lại và có mấy ý kiến đóng góp them để cùng nhau chia sẻ với Đại chúng như sau:
11/05/2013(Xem: 9443)
“Zen” là lối phát âm của Nhật Bản của danh từ Ch’an của Trung Hoa, mà từ này lại là lối phát âm theo từ Dhyana của Phạn ngữ có nghĩa là “thiền.” Điểm đặc biệt của công phu tu tập đạt đến giác ngộ của Đức Phật là quán chiếu nội tậm. Vì lý do nầy mà nhiều người tin rằng rằng họ thiền quán để thành Phật. Vâng, họ đúng. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ người con Phật nào cũng là thành Phật; tuy nhiên, thiền tự nó không làm cho bất cứ chúng sanh nào thành Phật.
23/04/2013(Xem: 12901)
Trong thời đại của chúng ta hôm nay, thiền không phải chỉ là pháp môn tu tập để kiến tánh thành Phật, vốn được xem như là sắc thái đặc thù của chốn sơn môn, mà đã và đang trở thành những phương thức trị liệu đầy kiến hiệu trong các ngành tâm lý và xã hội. Ở cả Đông và Tây phương, con người càng ngày càng trực nhận ra được khả tính ưu việt và độc đáo của thiền trong việc giải thoát những khổ luỵ, những ưu phiền của đời sống cá nhân và xã hội.
23/04/2013(Xem: 4674)
Sách này được thực hiện để trước là báo tứ trọng ân, sau là giúp người sơ học. Bên cạnh các sách Thiền bằng Việt ngữ do các thiền phái sọan, dịch và xuất bản ở VN tương đối đã nhiều và đầy đủ, tuyển tập này hy vọng sẽ trình bày thêm một số thông tin khác, được nhìn từ nhiều hứơng khác nhau. Ba truyền thống chính trình bày trong sách này chỉ là vì tiện lợi. Mỗi bài đều tự hòan tất, và độc giả có thể đọc thẳng từ bất kỳ bài nào, không cần thứ tự.
23/04/2013(Xem: 8666)
Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào.
23/04/2013(Xem: 7531)
Ðây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc đời qua con đường tâm linh. Con đường đạo của Ðức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người. Bất cứ ai với lòng quyết tâm và thiện ý đều có thể đi trên con đường này để đạt được tự do, giải thoát cho thân tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567