Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

20/04/201113:17(Xem: 9261)
II. Tinh thần thể nghiệm của thiền

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ BẤT LẬP VĂN TỰ


II. TINH THẦN THỂ NGHIỆM CỦA THIỀN

Nói “giáo ngoại biệt truyền”, nói “bất lập văn tự”, với tinh thần đó, thiền môn luôn đòi hỏi người học phải tự thể nghiệm thực sự nơi chính mình, bằng một sức sống chân thật ngay trong lòng mình, chớ không thể chỉ hiểu suông. Phật pháp sâu xa màu nhiệm đã trải qua thời gian dài của sự truyền bá, mà phương tiện truyền bá ở cõi Ta Bà này lại là ngôn ngữ văn tự, vì vậy con người dần dần lọt vào cái khuôn chữ nghĩa, thiếu mất sức sống chân thật nơi tự tâm, đó là điều Phật Tổ hằng lo lắng. Nếu không có sự thể nghiệm ấy, thì làm sao có sự chuyển hóa tập khí chính mình, có sức thắng được phiền não sanh tử? Khẩu đầu thiền, thiền đầu môi, là câu mà các Thiền sư thường quở trách, mình có vượt khỏi được chưa?

Hòa thượng Châu Hoằng, một hôm Sư đang chép kinh Thập Thiện, có ông tăng đến nói với Sư:

- Trong pháp của tôi thì một hạt bụi chẳng lập, đâu bày ra mười hạnh (thập thiện) làm gì?

Hòa thượng Châu Hoằng liền bảo:

- Năm uẩn lăng xăng, bốn đại dẫy đầy, sao bảo là không hạt bụi?

Tăng nói:

- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có.

Bất ngờ Sư tát cho ông một tát tai bảo:

- Hạng học nói suông như mè, như lúa, chưa đúng hãy nói lại!

Tăng không đáp được bực bội đứng dậy. Sư cười bảo:

- Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao ông chẳng phủi đi?

Nói “một hạt bụi chẳng lập” nghe hay qua nhưng bị tát một cái liền bực bội thì có lập hay không? Ngay đó thì “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng phải có” đã bay đi đâu mất rồi! Do đó, Hòa thượng Châu Hoằng mới bảo: “Bụi bặp đã lấp đầy mặt rồi, sao chẳng phủi đi?” Chớ nói suông vô ích!

Bởi vậy Thiền tông rất chú trọng đến sự thể nghiệm, thường quở trách thiền trên chót lưỡi và hay đả phá kiến giải suông, đưa người thẳng vào. Nan-in, một Thiền sư Nhật thuộc thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912), nhân một hôm có vị giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Thiền sư rót trà mời ông. Tách trà đã đầy, nhưng Thiền sư cứ tự nhiên rót tiếp không ngừng. Nước tràn ra ngoài. Vị giáo sư không kềm được nữa, phải thốt lên:

- Đầy tràn rồi! Xin thầy đừng rót nữa!

Thiền sư Nan-in thong thả bảo:

- Cũng giống như tách nước này, trong ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng của ông thì làm sao tôi còn có chỗ để tỏ bày thiền cho ông được, trừ khi ông chịu cạn cái tách của ông trước đi!

Thật là một ý nghĩa thâm thúy! Câu chuyện ngầm nói lến, người đến với thiền mà torng đầu còn chứa đầy ắp những kiến thức vay mượn, ôm một khối to khái niệm hiểu biết thì còn mong gì tiếp nhận được nữa! Như thế là đến để phô bày kiến thức, đâu phải đến để học thiền!

  • Thiền nhổ đinh tháo chốt, không lập một pháp.

Chính vì lẽ trên, thiền vốn không lập một pháp thật, không có gì để cho người nhận, chỉ cốt nhổ đinh tháo chốt, cởi mở tình chấp cho người, khiến người tự sống dậy. Hỏi: Thế nào là Phật. Đáp: Ba cân gai. Thì có gì để hiểu? Có gì để nhận? Chừng nào trong đầu bạn còn có một khái niệm, cón có một kiến giải chắc thật thì Thiền sư vẫn còn đập phá để cho trong lòng bạn thật rỗng rang không một vật mới mong khế hợp cơ thiền. Hãy nhìn Huệ Nam bị Từ Minh mắng chửi! Sư ở pháp hội của Thiền sư Thê Hiền được cử làm thư ký. Chợt Thê Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì. Được tin này Sư rất vui mừng, có cơ hội để nghiệm xét lời Văn Duyệt nói với Sư trước kia, lúc ở Tây Sơn, Duyệt đã thúc đẩy Sư đến gặp Từ Minh.

Khi Từ Minh đến, Sư trông thấy ngài thì thân tâm đều cung kính. Kế nghe Từ Minh luận nói, phần nhiều ngài chê các nơi, mỗi điều đều trách là thuộc tà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũng bị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyêt lúc trước rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói:

- Đại trượng phu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?

Sư liền vào thất Từ Minh thưa:

- Huệ Nam tối dốt, trông đạo mà chưa thấy. Giờ tham thiền khi hôm, nghe thầy dạy, như người đi lạc đường được xe chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho con được hết nghi ngờ?

Từ Minh cười bảo:

- Thư ký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùng lâm,nếu còn có nghi ngờ thì chẳng khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng (bàn bạc).

Từ Minh liền gọi thị giả đem ghế mời Sư ngồi. Sư vẫn từ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.

Từ Minh bảo:
- Thư ký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Như nói: “Tha Động Sơn ba gậy” Động Sơn khi ấy nên đánh hay chẳng nên đánh?
Sư thưa:
- Nên đánh.
Từ Minh nghiêm nghị bảo:
- Nghe tiếng “ba gậy” liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đến chiều nghe chim kêu, trống đánh, tiếng chuông, tiếng bảng cũng nên ăn ba gậy. Thế thì ăn gậy đến lúc nào mới thôi?
Sư chỉ nhìn sững mà thôi.
Từ Minh lại bảo:
- Tôi lúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủ tư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi!
Sư lễ bái xong, đứng dậy. Từ Minh nhắc lại lời trước:
- Nếu ông lãnh hội đựơc ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói: “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá, thử chỉ ra chỗ khám phá xem?”
Sư mặt nóng hực, mồ hôi xuất hạn, không biết đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra.
Hôm sau Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn mọi người bên cạnh nói:
- Chính vì chưa hiểu mới cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải phải quy cũ từ bi thí pháp!
Từ Minh cười bảo:
- Đó là mắng chửi sao?
Ngay câu này Sư đại ngộ. Như vậy Từ Minh mắng chửi Huệ Nam có gì lạ? Bởi Huệ Nam đã là thư ký, đã từng chứa một bụng thiền rồi, lại kẹt theo lời, theo tiếng, nên Từ Minh mắng chửi cho nó xẹp, nó bể đi, cho hết còn chỗ để bám, mới bừng dậy sức sống mới. Nếu cứ để nó óch ách trong lòng, nó nặng trĩu trong đầu thì lại nuôi lớn ngã kiến và luôn bao bọc chung quanh một lớp si mê vô hình này, làm sao có kẻ hở để lóe sáng. Nghe mắng chửi hiểu là mắng chửi, tức là theo tiếng snah hiểu nữa rồi. Vì vậy Từ Minh đánh thức: “Đó là mắng chửi sao?” liền đó Huệ Nam chợt tỉnh dậy, vượt qua mọi khái niệm trong đầu.
Còn đây, Tuyết Phong hỏi Hòa thượng Đức Sơn:
- Việc trong tông thừa con có phần chăng?
Đức Sơn đánh cho một gậy bảo:
- Nó cái gì?
Sư liền như thùng lủng đáy.
Thùng lủng đáy tức lọt tuốt tất cả, không còn chứa lại một chút gì. Vậy mà ở Ngao Sơn, Sư còn thú thật với Nam Đầu: “Tôi thật còn chưa ổn.” Và chính nhờ Nam Đầu trợ giúp mới thành đạo tại Ngao Sơn này.

" Chẳng mai một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương".

Hoàng Bá đã từng nhắc nhỏ, cảnh tỉnh cho người học thiền như thế. Bởi các ngài đã từng nếm qua việc này, từng kinh nghiệm xương máu nên mới nói ra những lời thành thật như trên. Người kiến giải cho đó là tầm thường. Người chứng nghiệm thì cảm sâu tận xương tủy, khó nói hết bằng lời, do đó rất thấm thía!

  • Thể nghiệm ở đâu?

Đã biết thiền cần phải thể nghiệm, không thể nói suông, nhưng thể nghiệm ở đâu?
Hỏi ở đâu lại là chưa biết thiền. Có ở đâu là thuộc cái bên ngoài, là đi vào chữ nghĩa nữa rồi. Thiền là phải thể nghiệm nơi tự tâm thôi, không thể có ở đâu khác. Có vị tăng hỏi Hòa thượng Triệu Châu:
- Khi ở ngay tâm, tâm chẳng lường biết thì thế nào?
Sư bảo:
- Lường biếtai?
Sư bảo:
- Không hai kẻ.
Đã ở ngay tâm, còn hỏi gì nữa? Hỏi như thế là chứng tỏ mình đang ở ngoài rồi. Bởi vậy trong đây vừa hỏi ở đâu, là xa mất ngay. Bởi, có ở đâu tức đặt thành chỗ nơi; mà có chỗ nơi tức bị dời đổi, đi vào luân hồi, xoay chuyển không biết ngày dừng!
Bảo Triệt cùng Đơn Hà đi đến núi Ma Cốc, Sư liền nói:
- Tôi đến trong đó trụ.
Đơn Hà bảo:
- Trụ tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:
- Trân trọng!
Đây cho thấy rõ hễ vừa có trụ tức thành có chỗ, mà có chỗ là rơi lại sanh tử, là quên mất chính mình. Với tâm phàm thì luôn luôn phải tìm chỗ nơi, bởi vì nó đang sống theo duyên, mất duyên thì chới với, mờ mịt. Kinh Lăng Nghiêm Phật đâu từng chẳng bảo A Nan: “Nếu thật là tâm tánh ông thì nó phải rời tiền trần mà có toàn tánh. Nếu rời tiền trần mà không có toàn tánh thì không phải thật.” Rõ ràng tâm duyênthì luôn bám vào tiền trần, nghĩa là luôn luôn tìm có bạn, không bạn thì dường như không có. Đó là sống lệ thuộc, sống nươgn tựa vất vưởng nên gọi đó là sống trong hư vọng. Trong khi đó chính mình đang hiện hữu ngay mọi hành động hằng ngày lại không biết.
Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:
- Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật lợi sanh, bỗng gặp người có ba thứ bệnh đến thì làm sao tiếp?
Bệnh mù thì cầm chùy, dựng phất họ chẳng thấy. Bệnh điếc thì ngôn ngữ tam muội họ chẳng nghe. Bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy thì phải làm sao tiếp? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp không còn linh nghiệm.
Có vị tăng đem việc này hỏi ngài Vận Môn. Vân Môn bảo:
- Ông lễ bái đi!
Tăng lễ bái xong đứng dậy. Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, tăng lùi lại sau, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh mù.
Vân Môn gọi:
- Lại gần đây!
Tăng tiến lại gần, Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh điếc.
Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:
- Lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Chẳng lãnh hội.
Vân Môn bảo:
- Ông chẳng phải bệnh câm.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Người có ba thứ bệnh đó ở đâu?
Có phải là chúng ta đây chăng? Hiện tại thấy, nghe, đáp rõ ràng có thiếu chỗ nào đâu? Trái lại, ngay đó lầm qua mất thì có khác gì đui, điếc, câm! Cần thể nghiệm ngay chỗ này, chớ tìm đâu khác. Chính đó là bài pháp sống! Thiền sư luôn đánh thức người sống lại trong ấy.
Có một Thiền sư Nhật Bản tên Nhất Hưu lúc Sư ở dưới núi Tỉ Duệ, một hôm thấy tín đồ ùn ùn kéo nhau lên n1ui nhân đến kỳ tự viện trên đấy phơi tạng kinh. Theo truyền thuyết thì khi phơi tạng kinh, nếu ai được làn gío thổi trên trang kinh phất qua mình sẽ được tiêu trừ tai ách, tăng trưởng trí tuệ. Vì lẽ đó mà mọi người đua nhau lên núi để mong đón được ngọn gió đó. Thiền sư Nhất Hưu biết vậy, Sư cũng nói:
- Tôi cũng cần phơi tạng kinh.
Nói xong, Sư vạch áo bày trần hông bụng nằm trên bãi cỏ phơi dưới ánh mặt trời. Nhiều tín đồ trông thấy khó chịu, cho là thiếu lịch sự. Vị pháp sư ở tự viện trên n1ui nghe n1oi, bèn đến khuyên Nhất Hưu chẳng nên làm việc mất oai nghi như thế.
Thiền sư Nhất Hưu thật tình giải thích:
- Các ngài phơi tạng kinh đó là phơi tạng kinh chất, nó biết sanh mối mọt mà chẳng biết hoạt động. Còn tạng kinh của tôi phơi làTạng kinh sống, nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm; Người có trí tuệ phải nhận rõ tạng kinh này mới quý giá! (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đó là Thiền sư muốn đánh thức cho người hãy xoay lại chính mình, phải thể nghiệm được sức sống chân thật ngay chính mình đây, chỗ đó mới là chỗ đáng quý, mới có giá trị thực sự, không phải hiểu suông, không thể chết ở trên hình tướng bên ngoài.

  • Làm sao thể nghiệm?

Chỗ này phải chín chắn, chớ để bị ngôn ngữ chuyển. Nếu có làm sao tức thành tạo tác rồi và như vậy là không thể có thể nghiệm. Vì đã thành tạo tác là thuộc pháp sanh diệt, đó là cái có thể suy nghĩ, có thể hiểu biết, là vẫn nằm trong tình mê!
Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ có lần thượng đường bảo:
- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một cái giàn có người gỗ máy, luiền đến gần xem, thì thấy hoặc đẹp đẽ lạ lùng hoặc xấu xí vô kể, động chuyển đi ngồi, xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi thấy xong, đến khi chín chắn xem kỹ lại, vốn là miếng vải xanh bọc lại, bên trong có người. Lão tăng nhịn không nổi, bèn đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy bảo: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kẻ ấy hỏi một câu, liền không lời có thể đáp, không lý có thể bày, trong đây có ai vì lão tăng nói được chăng?

Hôm qua trong ấy rơi cành
Ngày nay trong đây nhổ gốc.

Đó là một bài pháp thiền. Hãy xem Thiền sư Pháp Diễn nói: Lão tăng đến hỏi: Ông tên họ gì? Kẻ ấy đáp: Ông Hòa thượng này, xem thấy liền xong, hỏi tên họ làm gì? Liền đó Sư không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Đã thấy thì tự biết ngay, còn hỏi tên hỏi họ làm gì? Muốn diễn tả bằng lời để hiểu là tự trái xa rồi. Bởi hiểu được nó thì nó thành cái bị hiểu, là thuộc cái bóng thứ hai, không phải thật. Muốn đặt tên cho nó là gượng ép dán nhãn hiệu vào nó , biến nó thành vật để hiểu, tức ngay trước mắt lầm qua! “Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc”, quét sạch hết mọi chỗ cho ông có thể duyên, tự trong ấy sống dậy liền gặp nhau.
Để rõ thêm, chứng ta hãy nghe đoạn nhân duyên Hòa thượng Tùng Sơn với cư sĩ Bàng Uẩn uống trà, cư sĩ đưa tách trà lên hỏi:
- Mỗi người trọn một phần, vì sao nói chẳng được?
Tùng Sơn đáp:
- Sở dĩ nói chẳng được, chỉ vì mỗi người đều trọn có.
- Tại sao a huynh nói được?
- Chẳng thể không lời.
- Rõ ràng! Rõ ràng!
Sư bèn uống trà. Bàng Uẩn nói:
- A huynh uống trà sao chẳng mời khách.
- Ai?
- Bàng Công!
- Sao lại mời!
Đưa tách trà lên, ngưới người đều trọn thấy rõ, còn phải nói thế nào? Việc này đâu ai dối gạt được ai.Uống trà đi là xong. Đã là chính mình sao con2 phải đợ mời? Chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết? Chỉ phải một phen xông thẳng vào, tự sống dậy vỗ tay cười to ha hả là xong. Như Thủy Lạo hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ tống cho một đạp té nhào. Ngay đó Thủy Lạo đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to nói:
- Trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa, chỉ ở trên đầu sợi lông đủ hết thảy.
Đó là đưa người thẳng vào thể nghiệm, không giải thích “làm sao?” “thế nào?” theo chữ nghĩa dài dòng. Thủy Lạo tự cảm nghiệm lấy trực tiếp cũng ra ngoài chỗ suy nghĩ tính trước. Người đứng bên ngoài khó hiểu nổi, dù có hiểu cũng hiểu méo mó theo ngã kiến.
Đạt Quán Dĩnh ở chỗ Hòa thượng Cốc Ẩn, sau khi được thầm khế hội, Sư hỏi:
- Như Thạch Đầu nói: Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ.
Cốc Ẩn hỏi:
- Ông cho là lời nói thuốc hay lời nói bệnh.
Sư thưa:
- Lời nói thuốc.
Cốc Ẩn quở:
- Ông lấy bệnh làm thuốc, lại đâu có thể được thay!
Sư nói:
- Sự như phong thư được gói kín. Lý như mũi tên thẳng đầu nhọn. Chỗ nhiệm mầu đâu có thêm mà còn cho là bệnh, thật chưa rõ yếu chỉ?
Cốc Ẩn bảo:
- Chỗ nhiệm mầu đến thế đó cũng chỉ gọi là lý sự. Chỗ ý chỉ của Tổ sư, trí biết không thể đến được, huống nữa là sự lý mà hay cùng tột đó sao? Cho nên đức Thế Tôn nói: Lý chướng ngăn ngại cái thấy biết đúng. Sự chướng tiếp nối các sanh tử.
Sư dường như chợt tỉnh cơn mộng thưa:
- Làm sao thọ dụng?
Cốc Ẩn bảo:
- Lời nói chẳng rời khuôn sáo cũ, làm sao ra khỏi ràng buộc.
Sư than:
- Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào ý nghĩ, trọn là cửa chết, rốt cuộc chẳng phải con đường sống vậy.
Chỗ “ý chỉ của Tổ sư” trí biết không thể đến được. Dù người thấy hiểu cao siêu đến đâu mà còn thấy có cái “lý” để khế hợp, là vẫn chưa phải thật hiểu, vì còn bị trí soi đến, còn luận bàn được, chưa gọi là nhiệm mầu. Đến chỗ thật nhiệm mầu thì vượt ngoài ngôn ngữ luận bàn, bỏ xa trí suy luận, chỉ có thể Phật cùng Phật biết đựơc thôi . Đó là chỗ chánh định tự thọ dụng, thiền chứng nghiệm chính ở trong ấy.
Hòa thượng Triệu Châu đã ngầm chỉ ý này qua đoạn nhân duyên có vị tín đồ đến hỏi Sư:
- Tham thiền thế nào mới hay ngộ đạo?
Chợt Sư đứng dậy khỏi tòa nói:
- Tôi cần đi tiểu xong đã.
Sư đi mấy bước, quay đầu lại bảo:
- Ông hãy xem đó! Việc nhỏ như đi tiểu thế ấy mà tôi cũng cần phải tự đi, người khác không thể thay thế được.
Ý Triệu Châu muốn chỉ việc này mình phải tự thể nghiệm ngay chính mình, không thể tìm nới người. Không ai thể nghiệm thay cho mình được. Còn hướng ra ngoài tìm cầu thì chỉ là đạp trên cảnh giới của người khác, chưa thể có sự chứng ngộ chân thật.
Nói thẳng, thiền là ở ngay đây, tại đây! Không thời gian! Vừa kẹt thời gian, liền có không gian, tức cách biệt ngay. Có vị tăng đến hỏi một Thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Thiền sư bảo:
- Hãy đến gần đây!
Tăng đi đến gần, Sư bảo:
- Ông lãnh hội chăng?
Tăng thưa:
- Dạ không.
Sư bảo:
- Như một ánh chớp đã qua bao a tăng kỳ kiếp.
Trong đây là phải thấy nhanh hơn làn chớp, không cho niệm thứ hai kịp xen vào. Chậm một chút là đã trải qua vô số kiếp rồi. Nhưng nhanh một chút cũng vượt qua vô số kiếp một cách dễ dàng. Bảo: Hãy đến gần đây! Liền đi đến gần. Ngay đây sẵn đủ tất cả! Chỉ phải trống lòng, sạch mọi kiến chấp, thẳng đó liền nhận, không trải qua thứ lớp. Thiền thể nghiệm là VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI GIAN.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1615)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3593)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 5486)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 8305)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 7641)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 16417)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5188)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6940)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3875)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 5416)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567