Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Phương pháp tu tập

02/04/201101:41(Xem: 5196)
II. Phương pháp tu tập

KINH NGHIỆM THIỀN QUÁN
Tác giả: Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

II. Phương pháp tu tập


Mục tiêu, sự tinh tấn và buông xả

Làm cách nào để có thể vừa có một mục tiêu cho sự tu tập, vừa cảm thấy hứng khởi vì con đường ta theo có chủ đích và phương hướng rõ rệt, mà lại không bị vướng mắc vào những phiền phức của sự nỗ lực và cố gắng? Đây là một câu hỏi chủ yếu cho bất cứ ai đang đi trên con đường tâm linh!

Bất cứ sự chọn lựa nào của ta trong cuộc đời này cũng đều liên quan đến một mục tiêu hoặc chủ đích nào đó! Một ý thức phương huớng rõ ràng sẽ giúp ta sáng suốt hơn trong việc chọn lựa con đường đưa mình đến mục tiêu mong muốn. Thế nên khi hiểu được mục đích của sự ngồi thiền, ta sẽ hiểu được ý nghĩa cao thượng của hành trình tu tập này. Và sự hiểu biết đó, đồng thơi cũng mang đến cho ta một sự khích lệ cũng như năng lực để tiếp tục con đường.

Giáo lý của Đức Phật là một khích lệ lớn cho chúng ta, ngài đã trình bày thật rõ ràng mục tiêu của con đường tu tập: đưa ta đến một trạng thái sáng suốt và tự tại hơn, dẫn đến một tâm thức thanh tịnh và an vui hơn. Nơi đó ta sẽ không còn bị chi phối bởi tham, sân và si.

Nếu bạn muốn làm tăng trưởng sự tinh tấn cũng như năng lực của mình cho hành trình vô tan này, bạn có thể thử một vài phương pháp quán niệm sau đây. Bạn hãy suy ngẫm về tự tính chất tạm bợ, không thường còn của mọi hiện tượng. Mặc dù chúng ta có thể chỉ hiểu được sự thật này về mặt lý thuyết mà thôi, vì muốn nhận biết sâu xa đòi hỏi phải có một chánh niệm thật sâu sắc. Hãy nhìn lại những kinh nghiệm của bạn, bây giờ chúng đâu cả rồi? Giây phút này bước sang giây phút khác, chúng biến mất. Có chăng, ta chỉ còn giư lại những ý niệm hoặc ký ức về chúng, nhưng những thứ đó cũng lại trở thành tạm bợ, ngắn ngủi. Hiểu được sự thật hiển nhiên về luật vô thường này rồi thì cái gì là chân giá trị trong cuộc đời bạn? Còn có điều gì đáng để cho bạn theo đuổi nữa chăng?

Cũng chính sự suy tư về lý vô thường này đã thúc đẩy Đức Phật ra đi tìm chân lý giải thoát. Ngài đã tự hỏi khi còn là một vị thái tử trong hoàng cung: “Vì sao ta lại săn tìm những đối tượng của sinh, lão, bệnh, tử khi chính ta vẫn còn bị chi phối bởi sinh, lão, bệnh, tử?”

Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã khuyến khích và thúc giục những người khác nên cảm thấy sự cấp bách, vì biết rằng mọi hiện tượng rồi sẽ hoại diệt. Ngài dạy các đệ tử: “Có những cây cao và gốc cây, các ông hãy tu tập thiền quán ngay bây giờ, nếu không sẽ hối hận về sau.” Những cây cao và gốc của chúng là những địa điểm thuận lợi để ngoi thiền trong khí hậu vào thời ấy ở Ấn Độ.

Đức Phật đã thấy rõ rằng cuộc đời của ta ngắn ngủi như thế nào, cũng như sự giác ngộ và cơ hội để tu tập là quý báu và hiếm hoi biết bao! Nếu ta không biết sử dụng thời giờ của mình cho xứng đáng, sau này ta sẽ phải mang một nỗi ân hận ray rứt vì biết rằng mình đã bỏ lỡ điều quý giá nhất trên đời.

Bạn cũng có thể suy ngẫm về việc gì đầu tiên đã khiến bạn bước chân vào con đường tu tập. Phải chăng đó là một kinh nghiệm riêng tư sâu kín nào đó về khổ đau? Hay bởi lòng thương xót khi chứng kiến những đau đớn của người chung quanh? Hoặc từ một nỗi ưu tư, khắc khoải về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống nay? Đôi khi đâu đó trên quãng đường tu tập, chúng ta đã đánh mất đi cái cảm hứng ban đầu ấy. Hãy cố nối liền lại với nó, với tình yêu ban đầu của ta! Được như vậy, ta sẽ một lần nữa thắp lên ngọn lửa say mê và tinh tan trên hành trình đầy bất ngờ của giác ngộ và giải thoát.

Thiếu ngọn lửa đam mê ấy sẽ không có một việc gì có thể xảy ra. Chúng ta chỉ đơn giản sống và hành động theo những thói quen, tập quán cố hữu của mình. Thật hiếm ai có thể thoát ra được những thói quen này để có thể nhìn thấy thực tại một cách sáng suốt, mới mẻ, và biết chọn lựa bằng tuệ giác thay vì theo những phản ứng đã bị điều kiện hóa quá nặng nề.

Nhưng chỉ có sự tinh tấn thôi thì chưa đủ. Mặc dù phẩm hạnh ấy rất là quý báu, nhưng nó cũng có thể đưa ta đến sự lầm lạc nếu ta phát huy quá độ. Nếu không khéo, ta có thể vì quá cố chấp vào mục tiêu giác ngộ rồi trở nên đầy tham vọng, có một thái độ ganh đua tâm linh và đâm ra khắt khe về sự tiến bộ của mình. Khi ta nỗ lực và cố gắng với một sự khẩn thiết quá độ, có thể vì đó mà trở thành vô vọng. Bắt buộc một việc nào đó phải xảy ra ngay bây giờ chắc chắn sẽ làm mờ đi sự sáng suốt của ta, việc ấy có thể đưa đến sự thất chí, nản lòng và có khi là tuyệt vọng.

Sau khi đã ý thức được những trở ngại gây nên bởi loại nỗ lực và tinh tấn vừa kể (thường là bang kinh nghiệm đau thương của chính mình), có một số người đâm ra từ bỏ hết mọi ý niệm về mục đích. Đây cũng lại là một sai lầm khác! Khi ta không có mục tiêu và trở nên chấp rằng, tu tập chỉ đơn giản có nghĩa là trở nen tỉnh thức và chú ý trong giây phút hiện tại, mà không có một ý thức nào về mục đích, hoặc phát triển sự hiểu biết của mình, thì chúng ta đã vô tình đánh mất đi một nguồn năng lượng vô cùng của nghị lực và cảm hứng.

Điều quan trọng mà ta cần khám phá trong tu tập thiền quán - cũng như trong nhiều vấn đề khác nữa - là sự quân bình giữa tinh tấn và buông xả. Trên bề mặt thì hai đức tính này có vẻ như mâu thuẫn nhau! Làm sao ta có the vừa gắng sức theo đuổi một mục tiêu mà cùng một lúc vừa buông xả, chấp nhận những gì xảy ra theo sự khai mở tự nhiên của nó? Hiểu rõ được nghịch lý này là một khúc quanh quyết định, vì nó giúp ta nhận thức được trọn vẹn con đường tu tập của mình.

Buông xả không có nghĩa là nhẫn nhịn một cách thụ động, mà có nghĩa là biết buông bỏ, biết nương theo đạo pháp, theo sự thật của kinh nghiệm trong giây phút hiện tại này. Sự chấp nhận ấy sẽ khơi dậy nghị lực và giúp ta có thể tinh tấn mà không hề bị lay chuyển hoặc vướng mắc. Ta ý thức được sự khẩn cấp của vấn đề tu tập, nhưng vẫn biết linh động và hội nhập vào bất cứ những gì đang xảy ra trong hiện tai: cái này đang có mặt, tiếp đến sẽ là cái khác.

Trong những năm đầu tiên tu tập, tôi đào luyện đức tính buông xả này bằng cách tự nhắc nhở rằng: công việc của tôi trong khóa tu là ngồi thiền và đi kinh hành, ngồi va đi, ngồi và đi - rồi cứ để những gì xảy ra sẽ xảy ra. Bằng cách duy trì sự cố gắng của mình qua phương thức đơn giản ấy, tôi có thể chấp nhận và nương theo mọi thăng trầm trong sự tu tập. Có những lúc mọi sự đều trôi chảy, dễ dàng và tốt đẹp, nhưng cũng có những lúc chỉ gặp toàn đau đớn, khó khăn. Tôi vẫn cứ tiếp tục ngồi thiền và đi kinh hành, ngồi và đi. Và đạo pháp cứ tuần tự khai mở.

Vấn đề giữ quân bình giữa hai yếu tố tinh tấn và buông xả này có thể được hiểu theo một cách rất giản dị. Một đêm, tôi đi theo con đường nhỏ xuyên qua rừng dẫn từ nhà đến thiền đường ở cạnh đó. Trời tối đen như mực. Rõ ràng là tôi có một mục đích trong đầu: đi đến thiền đường phía bên kia bờ rừng. Ý muốn ấy tạo cho tôi một phương hướng, đặt tôi lên con đường mòn ấy và giữ cho tôi tiến bước. Nhưng nếu tôi không chịu chú ý đến mỗi bước chân trong mỗi giây phút, thì tôi có thể bị té ngã vì vấp vào đá hoặc những chỗ lồi lõm trên đường.

Hoặc như trong việc leo núi chẳng hạn. Ta cần biết quân bình phối cảnh của mình để có thể tiếp tục tiến tới, để duy trì lòng ham thích và nghị lực của ta. Ta phải ý thức được từng mỗi bước chân, mỗi vị trí miếng đất dưới chân, và cùng một lúc, tập trung cái nhìn vào đỉnh núi, mục tiêu mà mình muốn lên đến. Bằng cách giữ tầm nhìn cho rộng - ý thức về mục đích - và cùng một lúc, chú tâm vào giây phút hiện tại, ta sẽ tìm thấy được sự quân bình cũng như năng lực để hoàn tất con đường giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2018(Xem: 6749)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
22/10/2016(Xem: 14127)
Thiền định dựa vào hơi thở là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền phát huy một sự chú tâm cao độ mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức giúp mình trở về với chính mình hầu tìm hiểu tâm thức và con người của chính mình. Kỹ thuật đặc biệt này được áp dụng trong phép thiền định thật căn bản của Phật giáo Theravada là Vipassana.
08/12/2015(Xem: 41914)
Bạn đang cầm trong tay một cuốn cẩm nang hướng dẫn hành Thiền thật hữu ích và tinh tế, do một vị sư đầy kinh nghiệm tu tập uyên thâm trình bày. Ajahn Brahm là một trong những vị sư thuộc thế hệ mới của những tăng sĩ Tây phương đã tu học, thực hành và nắm vững giáo lý quan trọng của Đức Phật, và nay Sư cống hiến kinh nghiệm ấy cho các hành giả thành tâm trên khắp thế giới hiện đại.
31/10/2015(Xem: 14178)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
02/12/2014(Xem: 25726)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
03/10/2013(Xem: 12807)
Qua đề tài: “Sự tương quan giữa các pháp môn hành trì Thiền – Tịnh – Luật của người tu tập” mà chiều hôm nay sau hai tiếng đồng hồ với 11 ý kiến phát biểu, chia sẻ và cùng nhau thảo luận, chúng tôi hết sức hoan hỷ và trân trọng tinh thần tham gia đóng góp ý kiến của Đại chúng. Qua đó chúng tôi xin rút gọn lại và có mấy ý kiến đóng góp them để cùng nhau chia sẻ với Đại chúng như sau:
11/05/2013(Xem: 10054)
“Zen” là lối phát âm của Nhật Bản của danh từ Ch’an của Trung Hoa, mà từ này lại là lối phát âm theo từ Dhyana của Phạn ngữ có nghĩa là “thiền.” Điểm đặc biệt của công phu tu tập đạt đến giác ngộ của Đức Phật là quán chiếu nội tậm. Vì lý do nầy mà nhiều người tin rằng rằng họ thiền quán để thành Phật. Vâng, họ đúng. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ người con Phật nào cũng là thành Phật; tuy nhiên, thiền tự nó không làm cho bất cứ chúng sanh nào thành Phật.
23/04/2013(Xem: 13936)
Trong thời đại của chúng ta hôm nay, thiền không phải chỉ là pháp môn tu tập để kiến tánh thành Phật, vốn được xem như là sắc thái đặc thù của chốn sơn môn, mà đã và đang trở thành những phương thức trị liệu đầy kiến hiệu trong các ngành tâm lý và xã hội. Ở cả Đông và Tây phương, con người càng ngày càng trực nhận ra được khả tính ưu việt và độc đáo của thiền trong việc giải thoát những khổ luỵ, những ưu phiền của đời sống cá nhân và xã hội.
23/04/2013(Xem: 5439)
Sách này được thực hiện để trước là báo tứ trọng ân, sau là giúp người sơ học. Bên cạnh các sách Thiền bằng Việt ngữ do các thiền phái sọan, dịch và xuất bản ở VN tương đối đã nhiều và đầy đủ, tuyển tập này hy vọng sẽ trình bày thêm một số thông tin khác, được nhìn từ nhiều hứơng khác nhau. Ba truyền thống chính trình bày trong sách này chỉ là vì tiện lợi. Mỗi bài đều tự hòan tất, và độc giả có thể đọc thẳng từ bất kỳ bài nào, không cần thứ tự.
23/04/2013(Xem: 9608)
Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]