Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Các bậc giác ngộ và chúng sanh

11/03/201109:33(Xem: 6216)
3. Các bậc giác ngộ và chúng sanh

PHÁP GIÁO NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

VŨ TRỤ VỚI VẠN VẬT

III. Các bậc giác ngộ và chúng sanh

Trên đây là phân loại chúng sanh trong vòng luân hồi. Nếu xét theo trình tự giác ngộ xuống đến mê lầm, từ cao xuống thấp, chúng ta có thể kể theo trình tự như sau: 1. Phật, 2. Bồ tát, 3. Duyên giác, 4. La-hán, 5. Chư thiên, 6. Loài người, 7. A-tu-la, 8. Địa ngục, 9. Ngạ quỉ. 10. Súc sanh.

1. Phật

Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn, cao cả hơn hết, nên thường được tôn xưng là Phật Thế tôn, Phật Như lai. Phật có nghĩa là tỉnh giác, là sáng suốt hoàn toàn, trong hoàn vũ không còn địa vị nào cao hơn nữa. Trong khoảng thời gian cả triệu, ức năm, mới có một bực Đại hùng Đại lực thắng tất cả phiền não mà chứng đắc đến quả vị này. Cho nên trong kinh nói rất khó được gặp đức Phật Như Lai ra đời. Chỉ những ai có duyên lành lớn lắm mới được sanh ra cùng thời với Phật và được Phật giáo hóa. Mười danh hiệu tôn xưng dưới đây chứng tỏ rằng đức Phật là hoàn toàn, cao cả hơn hết:

1. Như Lai: Bậc an nhiên tự tại hoàn toàn, đắc quả chân như.

2. Ứng cúng: Bậc xứng đáng nhận sự cúng dường của chúng sanh, vì tự mình đã dứt hết phiền não.

3. Chánh biến tri: Bậc có chánh trí biết hết tất cả.

4. Minh hạnh túc: Bậc có đầy đủ trí huệ và đức hạnh.

5. Thiện thệ: Bậc đi đến nẻo lành, đã làm đủ các điều lành.

6. Thế gian giải: Bậc có thể giảng giải rõ, hiểu rõ cả thế gian.

7. Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu: Bậc cao quý hơn hết, có thể điều phục chính mình và hết thảy chúng sanh, khiến cho đi vào đường thiện.

8. Thiên nhân sư: Bậc xứng đáng làm thầy dạy của hàng trời, người.

9. Phật: Bậc tỉnh giác, giác ngộ hoàn toàn.

10. Thế Tôn: Bậc cao quý hơn hết trong thế giới, tất cả chúng sanh đều tôn trọng.

Khi một đức Phật thị hiện ra đời, ngài luôn luôn có đủ ba mươi hai tướng chánh và tám mươi vẻ đẹp, là biểu hiện cho bậc Toàn giác, đã hội đủ tất cả các pháp lành.

Ba mươi hai tướng chánh của đức Phật là: 1. Lòng bàn chân phẳng, 2. Có bánh xe pháp dưới lòng bàn chân 3. Ngón tay thon dài, 4. Bàn chân thon, 5. Ngón tay ngón chân cong lại, 6. Tay chân mềm mại, 7. Mu bàn chân cong lên, 8. Cặp chân dài thon như chân sơn dương, 9. Đứng thẳng tay dài quá đầu gối, 10. Nam căn ẩn kín, 11. Dang tay ra rộng dài bằng thân mình, 12. Lông đứng thẳng, 13. Mỗi lỗ chân lông có một cọng lông, 14. Thân vàng rực, 15. Thân phát hào quang, 16. Da mềm mại, 17. Tay, vai và đầu tròn tương xứng, 18. Hai nách đầy đặn, 19. Thân hình như sư tử, 20. Thân hình thẳng đứng, 21. Hai vai đầy đặn mạnh mẽ, 22. Hàm răng có bốn mươi cái, 23. Răng mọc đều nhau, 24. Răng trắng, 25. Hàm sư tử, 26. Nước miếng có mùi thơm, 27. Lưỡi dài rộng, 28. Tiếng nói tao nhã, 29. Mắt xanh trong, 30. Mắt to tròn như mắt bò, 31. Lông trắng giữa cặp chân mày, 32. Một khối u trên đỉnh đầu.

Tám mươi vẻ đẹp của đức Phật là: 1. Móng tay thon dài, mảnh và sáng bóng. 2. Ngón tay, ngón chân tròn, thon dài, mềm dịu. 3. Tay chân cân xứng, các ngón khi khép lại thì kín đầy. 4. Tay chân sáng bóng, tươi hồng. 5. Gân xương ẩn kín, không lộ ra. 6. Hai mắt cá chân ẩn kín. 7. Dáng di hướng thẳng phía trước, uy nghi khoan thai như rồng chúa, voi chúa. 8. Dáng đi oai vệ như sư tử chúa. 9. Dáng đi bình thản như trâu chúa. 10. Phong thái tiến, dừng thanh nhã, uyển chuyển như ngỗng chúa. 11. Quay nhìn đều theo bên phải như voi chúa nhấc mình để di chuyển. 12. Các khớp tay chân đều tròn và đẹp. 13. Các đốt xương liên kết nhau như rồng cuốn. 14. Đầu gối tròn đầy. 15. Chỗ ẩn vân tốt đẹp và thanh tịnh. 16. Thân và tay chân tươi nhuận, trơn láng, thanh tịnh. 17. Phong thái đôn hậu, vô úy. 18. Thân thể tráng kiện. 19. Thân thể khỏe mạnh, đầy đủ. 20. Thân tướng như tiên chúa, toàn thân đoan nghiêm sáng sạch. 21. Có hào quang thường chiếu sáng quanh thân. 22. Bụng vuông vức, trang nghiêm. 23. Lỗ rốn sâu, xoay về hướng phải. 24. Vành rốn dày, không lõm không lồi so với da bụng. 25. Da không ghẻ lác. 26. Bàn tay mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng. 27. Chỉ tay sâu, dày, rõ ràng. 28. Môi đỏ thắm, sáng và tươi nhuần. 29. Mặt không dài không ngắn, không lớn không nhỏ, vừa vặn, đoan nghiêm. 30. Lưỡi mềm, dài, rộng. 31. Tiếng nói oai hùng, vang xa, trong suốt. 32. Âm vận hay đẹp như tiếng vang nơi hang sâu. 33. Mũi cao và thẳng, lỗ mũi kín. 34. Răng đều đặn, trắng đẹp. 35. Răng trắng tròn, sáng sạch, bén nhọn. 36. Mắt trong, lòng đen lòng trắng phân minh. 37. Mắt dài rộng. 38. Lông mi đều và dày. 39. Lông mày dài và mịn. 40. Lông mày xanh biếc như lưu li. 41. Lông mày cách xa mắt và cong như trăng lưỡi liềm. 42. Vành tai rộng, đoá tai dài thòng xuống. 43. Hai vành tai bằng nhau, không có sai khuyết. 44. Phong cách uy nghi, khiến người thấy liền sinh kính mến. 45. Trán rộng, bằng phẳng. 46. Thân đầy đủ tướng oai nghiêm. 47. Tóc dài xanh biếc, dày mà không bạc. 48. Tóc mịn, toả hương thanh khiết. 49. Tóc ngay ngắn không rối. 50: Tóc không đứt rụng. 51. Tóc trơn bóng, bụi không dính. 52. Thân thể vững chắc đầy đặn. 53. Thân thể cao lớn đoan chính. 54. Các huyệt thanh tịnh tròn đẹp. 55: Sức mạnh thù thắng, không ai sánh bằng. 56. Thân tướng được mọi người ưa nhìn. 57. Khuôn mặt như trăng tròn mùa thu. 58. Vẻ mặt thư thái. 59. Gương mặt sáng bóng không vết nhăn. 60. Da sạch không cáu ghét, không có mùi hôi. 61. Các lỗ chân lông thường toả hương thơm. 62. Diện môn thường toả mùi hương thù thắng. 63. Tướng tròn đầy tốt đẹp. 64. Lông trên mình xanh biếc sạch sẽ. 65. Pháp âm tùy theo đại chúng mà ứng hiện, bình đẳng không sai biệt. 66. Tướng đỉnh đầu không ai thấy được. 67. Đường vân của ngón tay, ngón chân rõ ràng. 68. Khi đi, hai chân đều cách mặt đất. 69. Tự giữ gìn, không nhờ người khác hộ vệ. 70. Uy đức nhiếp phục hết thảy. 71. Thanh âm nói ra không thấp không cao, vừa sự tiếp thu của chúng sinh. 72. Tùy theo sự ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp. 73. Diễn thuyết chính pháp chỉ bằng một âm thanh, tùy các loài chúng sinh nghe đều được giải thoát. 74. Thuyết pháp theo thứ lớp, tùy nhân duyên. 75. Quán sát chúng sinh, khen thiện chê ác, nhưng không có tâm yêu ghét. 76. Trước quan sát kĩ các việc rồi sau mới làm, tuân thủ đúng qui tắc. 77. Tướng tốt đẹp, chúng sinh không thể nào thấy hết được. 78. Xương đầu cứng chắc, tròn đầy. 79. Dung nhan trẻ mãi không già. 80. Nơi chân tay và trước lồng ngực đều có tướng tốt chữ Vạn xoay vần.

Vì có đầy đủ các tướng quý của đấng Toàn giác, nên trong kinh nói rằng toàn thân đức Phật như một hòn núi châu báu lay động, ai được nhìn thấy Ngài đều tự nhiên sanh lòng vui vẻ, hoan lạc.

2. Bồ-tát

Bồ-tát là quả vị trải qua trước khi thành Phật. Bồ-tát cũng là danh xưng chỉ chung cho tất cả những ai đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, quyết chí tu hành cho đến khi chứng đắc quả vị Phật. Đức Thích-ca cũng đã trải qua rất nhiều đời làm Bồ-tát, cứu độ chúng sanh.

Vị Bồ-tát mới phát tâm gọi là Tân phát ý Bồ-tát. Khi tu chứng đến mức độ không còn gì có thể lay chuyển tâm ý của các ngài được nữa, chắc chắn sẽ thành Phật, gọi là Bất thối chuyển Bồ-tát. Khi ấy, các Ngài thường được các đức Phật nhận cho sự tu chứng ấy, và ban lời thọ ký về việc các ngài sẽ thành Phật trong đời vị lai. Như trước đây Phật Thích-ca có thọ ký cho Bồ-tát Di Lặc là sẽ thành Phật tiếp theo sau Ngài.

Bồ-tát tu trì đủ các đại hạnh, gọi là các phép Ba-la-mật. Đó là các hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Các ngài cũng thành tựu đủ ba mươi bảy pháp tu gọi là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chính là các phần họp lại để thành tựu quả Bồ-đề. Ba mươi bảy phẩm ấy là: Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi và Tám chánh đạo.

Lòng từ bi của các vị Bồ-tát thật là vô lượng, các ngài thương yêu hết thảy chúng sanh một cách bình đẳng như nhau. Và lòng thương yêu ấy không giống như sự ái luyến thông thường của thế tục, nên không ra tạo sự ràng buộc, mà trái lại càng tăng thêm sức mạnh cho các ngài.

Các vị Bồ-tát hầu hết đều có những nguyện lực lớn lao. Và thậm chí các ngài còn phát nguyện vì chúng sanh mà lưu lại chốn luân hồi, không nhập Niết-bàn để vào cảnh giới an lạc vĩnh viễn. Do nơi nguyện lực khi còn hành đạo Bồ-tát, đến khi các ngài thành Phật đều có những sự hóa hiện khác nhau. Như Phật Thích-ca hiện thân ngay giữa cõi Ta-bà đầy ô trược này để hóa độ chúng sanh, còn Phật A-di-đà hiện quốc độ Cực Lạc ở phương Tây mà tiếp độ tất cả những người chí thành niệm Phật. Thảy đều xuất phát từ nơi nguyện lực khi các ngài còn tu hạnh Bồ-tát.

3. Phật Duyên giác

Phật Duyên giác còn gọi là Phật Độc giác hay Phật Bích-chi. Quả vị này được chứng đắc nhờ tự thân quán sát lý nhân duyên mà tỏ ngộ lẽ vô thường, đoạn tuyệt được hết thảy các phiền não, nên không còn tạo tác các ngiệp thiện ác nữa, nhờ vậy mà chứng nhập Niết-bàn, thoát khỏi sanh tử.

Vì các ngài tu theo lý nhân duyên mà giác ngộ, nên gọi là Duyên giác. Vì tự mình quán sát, chiêm nghiệm mà hiểu đạo, chứng đắc, không nhờ người khác chỉ dạy, nên gọi là Độc giác.

Quả vị chứng đắc này thường là vào thời gian không có Phật ra đời. Những chúng sanh nhờ tu thiện nghiệp, có trí tuệ sáng suốt nên có thể tự mình tu tập mà giải thoát được. Nhưng vì định lực không đủ mạnh, nên chỉ có thể tự cứu lấy mình, không thể hoằng hóa độ sanh như chư Phật, Bồ-tát. Vì vậy, quả vị này được xem là thuộc về Tiểu thừa.



4. A-la-hán

A-la-hán là quả vị cao nhất trong bốn Thánh quả của người tu tập, quán chiếu theo pháp Tứ diệu đế. Trước khi chứng quả A-la-hán, thường là đã chứng đắc các quả thấp hơn như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Nhưng cũng có những trường hợp do sự tu tập tinh tấn, dũng mãnh, nên người tu chứng thẳng đến quả A-la-hán mà không qua các quả vị ấy. Trong những trường hợp thông thường, người tu tập chứng được một thánh quả cũng là thành tựu to lớn lắm rồi, và phải đợi đến thọ sanh lần sau nữa mới có thể tiếp tục chứng đắc lên quả vị cao hơn.

Các vị A-la-hán là những vị đã dứt hết phiền não, lậu hoặc, nên không còn phải tái sanh trong cõi luân hồi vì nghiệp lực. Các ngài cũng không có nguyện lực độ sanh như chư vị Bồ-tát, nên cũng không tùy nguyện mà thọ sanh. Vì vậy, sau khi chứng quả và xả bỏ thân cuối cùng, các ngài nhập vào Niết-bàn an lạc, thoát khỏi sanh tử. Vì không có nguyện lực độ sanh rộng lớn, nên quả vị này cũng được xem là thuộc về Tiểu thừa.

5. Chư thiên

Chư thiên là cảnh giới cao nhất trong lục đạo luân hồi. Những chúng sanh được sanh về cảnh giới này là nhờ đã tu tập trọn vẹn Mười thiện pháp. Cảnh giới của chư thiên chỉ có sự khoái lạc, vui thú, không có những đau khổ, ràng buộc như cõi người. Tuy nhiên, vì là do nghiệp lực mà đắc thọ, nên khi thiện nghiệp đã hết, chư thiên cũng phải chết đi và tái sanh vào cảnh giới khác. Nếu trong lúc hưởng phước mà biết tiếp tục tu tập thiện pháp, thì có thể tiếp tục được sanh ra ở cảnh giới chư thiên, bằng không thì tùy theo nghiệp lực mà phải thọ sanh vào các cảnh giới khác.

6. Loài người

Loài người tuy cũng thuộc trong lục đạo luân hồi, nhưng có thể xem là một cảnh giới đặc biệt nhất. Vì thế mà đức Phật đã hóa sanh trong loài người để tu hành chứng đắc quả Phật. Sở dĩ như vậy, là vì sanh vào loài người không sung sướng quá cũng không khổ sở quá. Hàng chư thiên vì tận hưởng khoái lạc mà rất khó nhận ra lẽ vô thường, khó phát tâm tu tập cầu giải thoát. Các chúng sanh đã sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì khổ sở đày đọa, nên cũng không thể dụng tâm tu tập được. Chỉ riêng loài người là không quá sướng cũng không quá khổ, nên có thể chuyên tâm lo việc tu tập cầu đạo giải thoát.

Trong loài người, tuy không có những cảnh giới khác nhau như chư thiên, nhưng tùy theo nghiệp lành hoặc nghiệp dữ đã tạo ra mà con người phải thọ nhận những quả báo khác biệt nhau. Có người được sống lâu, giàu có, quyền thế, lại có người phải nghèo khó, sống đời hạ tiện, hoặc phải chết yểu...

Việc thọ nhận quả báo trong loài người rất phức tạp. Người gieo nhân lành có thể được quả tốt, sống cuộc sống sung sướng no đủ, muốn gì được nấy, cũng có thể nói là cảnh tiên trong loài người. Ngược lại, có những kẻ tạo nghiệp dữ, phải chịu những sự đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần, thậm chí ai ai cũng khinh ghét, phải sống cô độc khổ sở, cũng có thể nói là cảnh địa ngục trong loài người. Nhưng nghiệp lành dữ của mỗi người lại cũng không phải bao giờ cũng đơn giản dễ hiểu như vậy. Có kẻ được hưởng vinh hoa phú quý, nhưng lại phải bệnh tật đeo đuổi suốt đời; hoặc được sống lâu khỏe mạnh nhưng lại cô độc lẻ loi. Ấy là do nghiệp báo có lành, có dữ, nên tùy theo nhân duyên mà thọ nhận, có sướng có khổ vậy.

Cho nên, đã được sanh làm thân người vốn là rất khó, nếu không sớm biết lo tu tập, gieo nhân tích đức, chỉ một lòng tham lam hung dữ hại người, khi quả báo đến thì chỉ có thể cam lòng gánh chịu không thể oán trách ai. Còn người biết lo tu tâm dưỡng tánh, thật chẳng đợi đến mai sau mà ngay trong đời này cũng đã được hưởng phần an nhàn, thanh thản; dù không được sang giàu quyền quý, nhưng trong lòng vẫn luôn thấy thảnh thơi, vui thỏa vậy.

7. A-tu-la

Chúng sanh thác sanh vào loài này phần lớn là do tâm sân hận. Loài này cũng được hưởng một số phước báu giống chư thiên, nhưng hình dung xấu xí và tâm địa hay nóng nảy, không hiền hòa. Các sách cũ dịch là loài Phi thiên (không phải chư thiên), hoặc Vô đoan (hình dung không được xinh đẹp). Từ điển Phật học của Đinh Phúc Bảo ghi rằng: “A-tu-la... trong kinh cũng gọi là Vô thiện thần...”, tức không phải thiện thần. Loài này do tâm sân hận nên hay gây chuyện đánh nhau với chư thiên cõi trời. Tuy có phước báu nhưng không có tâm thiện. Vì vậy, một số sách xếp loài này thuộc cảnh giới tốt hơn loài người là không hợp lý.

8. Súc sanh

Những chúng sanh nào không siêng tu thiện nghiệp, sống chìm đắm trong tham dục, khiến cho trí tuệ phải lu mờ, không cón sáng suốt, khi thác sanh sẽ phải đọa làm loài súc sanh. Lại tùy theo nghiệp quả khác nhau mà sanh trong các loài khác nhau, như chim, chuột, chó, mèo... cho đến trâu, ngựa, dê, bò... hoặc các loài thú dữ hại người, đều là do ác nghiệp chiêu cảm mà phải gánh chịu.

Sanh vào loài súc sanh, đã phải chịu những nổi khổ trong hiện thế, mà tương lai cũng u tối mờ mịt nữa. Bởi vì không có trí tuệ nên không thể hiểu đạo mà tu tập, bỏ ác làm lành, nên không thể có nhân lành để hưởng quả tốt về sau. Chính vì vậy mà trong kinh nói rằng “Thân người là rất quý giá, khó được. Một khi để mất đi thì muôn kiếp khó lòng được lại.”



9. Ngạ quỷ

Ngạ quỷ là những chúng sanh phải sanh vào cảnh loài quỷ đói, luôn bị sự đói khát bức não, dù đứng trước món ngon vật lạ cũng không cách gì ăn được.

Trong loài ngạ quỷ lại cũng có vô số những nghiệp báo khác nhau. Có những ngạ quỷ không ăn uống được vì miệng thì lớn mà cổ chỉ nhỏ bằng cây kim may. Lại có những loài khi đưa thức ăn lên miệng thì hóa thành lửa đỏ, không sao nuốt được. Lại có những loài chỉ thấy thèm khát những chất dơ nhớp, cặn bã, không thể nào ăn được những món thơm sạch, ngon ngọt. Lại có những ngạ quỷ bị cơn khát lúc nào cũng thiêu đốt đến rát bỏng trong cổ họng, nhưng đi đến đâu cũng thấy các nguồn nước đều khô kiệt...

Ấy là các tướng trạng khác nhau của loài ngạ quỷ, nhưng nói chung thì những chúng sanh nào chiêu cảm nghiệp khổ sanh vào loài này, đều do nơi tâm tham lam, keo kiệt trong đời trước. Nhất là những kẻ khi làm người chỉ biết bo bo giữ lấy của mình, không mảy may khởi tâm bố thí cho người khác, lại còn bày lắm mưu ma chước quỷ để giành lấy mối lợi về mình. Do tâm tham lam hiểm độc như vậy, nên một khi đã mất thân người, nhất định phải đọa sanh vào loài ngạ quỷ.

10. Địa ngục Địa ngục là cảnh giới của những chúng sanh tạo nghiệp ác phải sanh vào. Nếu như tâm tham lam khiến cho chúng sanh phải đọa làm ngạ quỷ, thì địa ngục là nơi đến của những chúng sanh sanh nào đã tạo các ác nghiệp gây tổn hại nặng nề cho các chúng sanh khác. Tùy theo tội lỗi nặng nhẹ khác nhau, cũng có những cảnh địa ngục khác nhau mà chúng sanh phải đọa vào.

a. Tám cảnh địa ngục lớn

1. Những chúng sanh nào vì tham lam, sân hận và si mê, bị ba thứ độc ấy sai khiến, nên phạm các tội giết hại, đánh đập và hãm hại chúng sanh khác, thì phải đọa vào địa ngục Đẳng hoạt. Ở đây, chúng sanh bị đánh đập, hành hạ mãi mãi, đau đớn quá phải chết đi, nhưng chết rồi liền phải sống lại mà tiếp tục thọ khổ giống như trước, nên gọi là đẳng hoạt (nhiều kiếp sống).

2. Những chúng sanh nào ăn ở ngỗ nghịch, trái đạo đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bầu bạn, nói lời độc ác cố ý hại người, nói láo xược, thì sa vào địa ngục Hắc thằng. Ở địa ngục này, chúng sanh bị trói chặt bằng dây sắt màu đen nên gọi là hắc thằng (dây đen). Trói như vậy rồi phải chịu những hình phạt như cưa, xẻ, chặt, đốn chẳng khác nào những thân cây.

3. Những chúng sanh nào giết hại sanh mạng rất nhiều, thậm chí các loài như heo, dê, gà, vịt, chim chóc, tôm cá... thì sẽ sa vào địa ngục Chúng hiệp. Ở đây chúng sanh bị giết chết một cách rất thảm khốc, bị núi đá ép chặt lại với nhau mà cùng chết nên gọi là chúng hiệp (hợp lại cùng nhau).

4. Những chúng sanh nào làm nhiều việc phá hại chúng sanh khác, gây nên sự đau khổ về vật chất hoặc về tinh thần cho họ, hoặc cư xử xảo trá, hung tợn thì sa vào địa ngục Hào khiếu. Ở đây, họ bị lửa dữ thiêu đốt, đau đớn kêu khóc thảm thiết nên gọi là hào khiếu (kêu khóc thảm thiết).

5. Những chúng sanh nào xâm phạm vào của Tam bảo, những tài vật nơi thờ cúng của nhân gian, hoặc ngỗ nghịc hại thầy, phản đạo, phải đọa vào địa ngục Đại khiếu. Ở đây sự thiêu đốt của lửa dữ dội hơn, đau đớn hơn, nên chúng sanh bị hành hạ cũng kêu la gào thét to tiếng hơn. Vì vậy mới gọi là đại khiếu (tiếng kêu gào lớn).

6. Những chúng sanh nào dùng lửa đốt rừng, đốt làng xóm, làm cho những chúng sanh khác phải chết thảm không đường thoát, thì sẽ bị đọa nơi địa ngục Viêm nhiệt. Trong cảnh địa ngục này bị nung đốt luôn luôn không lúc nào dừng, nên gọi là viêm nhiệt (lửa nóng).

7. Những chúng sanh nào không tin Phật, chẳng tin Pháp, thường hủy báng, bôi nhọ, lại dùng nhiều cách quấy nhiễu các chúng sanh khác chẳng cho tu tập, thì sẽ bị đọa vào địa ngục Đại nhiệt. Ở đây, chúng sanh bị một thứ lửa rất nóng thiêu đốt nóng nảy vô cùng, nên gọi là đại nhiệt (lửa dữ).

8. Những chúng sanh nào cư xử hiểm ác, làm tổn hại các bậc đạo cao đức trọng, giết hại hoặc đánh đập các vị tỳ-kheo, a-la-hán, hoặc làm hại cha mẹ, thầy dạy... sẽ bị đọa vào địa ngục Vô gián. Trong cảnh địa ngục này, chúng sanh bị hành hạ bởi nhiều hình phạt thảm khốc không sao nói hết. Vì sự hành hạ không có lúc nào gián đoạn nên gọi là vô gián (không gián đoạn).

b. Bốn cảnh địa ngục gần bênĐây là chốn dư báo của tám cảnh địa ngục lớn. Chúng sanh sau khi thọ khổ ở một trong tám địa ngục lớn rồi, ác nghiệp vẫn còn nặng nề lắm, nên chưa thể sanh ngay lên các cõi trời người. Vì vậy, phải tiếp tục chịu khổ báo trong các cõi địa ngục này.

1. Phấn niệu địa ngục, là một hầm phẩn rất lớn. Chúng sanh đọa vào đây thì bị loài giòi bọ đục khoét thân thể đau đớn ghê gớm.

2. Đường uy tề tất địa ngục, là một hầm tro nóng. Chúng sanh đọa vào đây thì bị tro nóng ngập lên đến tận đầu gối, khiến cho nóng nảy khó chịu khôn cùng.

3. Nhận diệp lâm địa ngục, là một cảnh đầy dẫy những rừng cây xanh tươi, nhưng khi đến gần thì hoa lá đều hóa thành đao kiếm sắc nhọn mà đâm, cắt vào thân thể, không chạy thoát đi đâu được.

4. Quảng đại hà địa ngục, là một con sông rộng lớn, nhưng nước sông sôi sục toàn là nước đồng nấu chảy. Chúng sanh đọa vào đó chịu sự nung nóng không lúc nào ngưng nghỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1693)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3655)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 5571)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 8494)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 7773)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 16663)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5273)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 7036)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3922)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 5499)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567