Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Duy thức trong Thắng Pháp

02/02/201111:04(Xem: 10043)
10. Duy thức trong Thắng Pháp

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Duythức trong Thắng Pháp

BìnhAnson

1.VềThắng Pháp (Abhidhamma)

Tạngthứ ba của Tam Tạng Kinh Ðiển (Tipitaka)AbhidhammaPitaka. Tạng nầy thường được gọi là Luận Tạng vìtheo hệ thống kinh điển Ðại thừa, đây là tập hợp cácbộ luận giải của các vị cao tăng Ðại thừa. Tuy nhiên,trong hệ Nguyên thủy và để sát nghĩa, Abhidhammalàtập hợp các bài giảng sâu xa của Ðức Phật về thể tínhcủa vạn pháp, và thường được sách Tàu phiên âm là A-tỳ-đàm.Dịch đúng nghĩa là Vi Diệu Pháp hay Thắng Pháp. Cũng có sáchdịch là Ðối Pháp, Vô Tỷ Pháp, hay Ðại Pháp.

Theotruyền thống, Thắng Pháp được nhiều Phật tử Nam tôngkính mộ và tin tưởng rằng đó là các bài giảng mỗi đêmcủa Ðức Phật cho chư Thiên và hoàng hậu Ma-Da trong ba thángcủa mùa hạ thứ bảy tại cung trời Ðao Lợi. Vào ban ngày,Ngài tóm tắt lại cho Ðại đức Xá-lợi-phất, và sau đóĐại đức Xá-lợi-phất khai triển rộng ra thành bộ ThắngPháp.

Tuynhiên, theo các nhà nghiên cứu kinh sử Phật giáo, tạng ThắngPháp nầy được khai triển về sau, trong các thế kỷ hoằnghóa đạo Phật trong thời kỳ phân chia bộ phái, và đượcđúc kết lại tại Ðại hội Kết tập Kinh điển lần thứ4 ở Tích Lan vào năm 20 trước Tây lịch. Ðây là kết quảcủa nền văn học A-tỳ-đàm, căn bản chung cho mọi tông phái,kể cả Bắc tông Ðại thừa. Dù rằng về sau nầy, các diễndịch chi tiết của Duy-thức tông Ðại thừa có nhiều khácbiệt, có thể nói là các ý tưởng chính yếu và khái niệmvề duy thức đó đều cùng có chung một nguồn gốc.

Nhìnchung, Thắng Pháp là một cố gắng nhằm tổng hợp các bàigiảng trong Kinh tạng qua một cấu trúc bao quát và liên kết.Thắng Pháp là một hệ thống tâm lý học phức tạp và tinhvi. Ngoài ra, Thắng Pháp cũng nhắm đến các vấn đề vềsiêu hình, thể tính, luận lý, giải thoát nằm ngoài phạmvi của tâm lý học Tây phương hiện thời.

Ðểthông hiểu Thắng Pháp, ngoài việc tra cứu kinh sách, hànhgiả cần phải thực chứng quán niệm nội tâm, trong đó phươngcách hữu hiệu nhất là hành trì các pháp thiền minh sát -chẳng hạn như các phương pháp trong quyển Thanh Tịnh Ðạo(Visudhimagga)của ngài Phật Âm (Buddhaghosa)mà hiện nay vẫn còn đượcáp dụng tại nhiều thiền viện ở Miến Ðiện, Thái Lan vàTích Lan.

ThắngPháp liệt kê rất chi tiết về các phần tử của tâm thứcvà mô tả sự vận hành rất vi tế của tâm thức. Ðể thểnghiệm, hành giả cần phải quán sát nội tâm một cách tinhtường từng thời khắc một, và từ đó sẽ hiểu ThắngPháp rốt ráo hơn. Trong ý nghĩa đó, Thắng Pháp có thể xemnhư là một môn tâm lý học thực nghiệm tinh vi và bao quát.

2.Các nguyên tắc cơ bản

Mộtcách tóm tắt, Thắng Pháp được dựa chặt chẽ theo Ba ÐặcTính - Tam Pháp Ấn - của mọi hiện tượng hữu vi: Khổ(dukkha), Vô thường (anicca), Vô ngã (anatta).Thêm vào đó, Thắng Pháp cũng dựa theo luật Duyên khởi, nhưlà một nguyên tắc tổng quát và một sự vận hành có điềukiện tính. Tất cả mọi sự cố trên đời đều vận hànhtheo luật nhân quả, không có gì ngẫu nhiên hoặc áp đặtbởi một vị thần tạo hóa. Ðiều kiện tính là sự diễntả của một chuỗi nhân-và-quả, nhất là 12 nhân duyên thườngđược thấy trong nhiều bài kinh, bắt đầu bằng: "do vôminh duyên sinh các nghiệp hành, do hành duyên sinh thức, v.v.",và đưa đến các hoạn khổ. Từ đó, Thắng Pháp đưa ra cáctiên đề sau:

-Không có gì sinh ra mà không có nguyên nhân.
-Không có gì sinh ra mà chỉ do một nguyên nhân.
-Không có gì sinh ra mà không có tác động.
-Không có gì tồn tại hơn một thời khắc.
3.Bốn phân hạng chính

ThắngPhápđề cập đến hai loại sự thật: sự thật thông thường(tụcđế, sammutisacca), và sự thật tuyệt đối (chân đế,paramatthasacca). Theo chân đế, tất cả mọi sự vật trênđời, mọi pháp (dhamma), có thể được xếp theo bốnphân hạng chính: Sắc (Rupa), Tâm hay Tâm vương (Citta),Sởhữu tâm hay Tâm sở (Cetasika), và Niết Bàn (Nibbana).

Ðểđối chiếu với Kinh tạng, trong cặp Danh-Sắc thì ở đây,Thắng pháp chia Danh (nama)làm 2 loại: Tâm và Tâm sở.Trong khái niệm về ngũ uẩn - sắc, thọ, tưởng, hành, thức- thì thức (vinnana)được Thắng Pháp xem như là Tâm(hay tâm vương), còn thọ, tưởng, hành thì được xem là Tâmsở (riêng Hành thì được chia chẻ ra làm nhiều phần tửkhác).

4.Sắc Pháp

Sắclà thể chất vô tri giác hằng biến hoại đổi thay. Có tấtcả 28 sắc pháp, phân thành 2 nhóm: (1) Nhóm Tứ đại (Ðạichủng), gồm đất, nước, lửa, gió; và (2) Nhóm Y đại sinh(Tứ đại sở tạo), gồm 24 sắc pháp.

Trongnhóm tứ đại, Ðất là đặc tính cứng mềm, choán khônggian; Nước là đặc tính dẻo nhờn, quến tụ; Lửa là đặctính nóng lạnh, năng lượng; và Gió là đặc tính di động,đàn hồi.

NhómY đại sinh là do bốn Ðại chủng sắc kết hợp tác thành,gồm có 24 sắc pháp: 5 Tịnh sắc, 4 Hành cảnh sắc, 2 Bảntánh sắc, 1 Sắc ý vật, 1 Mạng sắc, 1 Thực sắc, 1 Hạngiới sắc, 2 Biểu sắc, 3 Biến hóa sắc, và 4 Tướng sắc.

5.Tâm Pháp (Tâm Vương Pháp)

Tâm,theo Thắng Pháp, là sự nhận thức sự hiện hữu của đốitượng, sự biết, sinh khởi trong một thời khắc khi có trầncảnh. Có nhiều cách phân chia Tâm. Thông thường là phân chialàm 6 tâm (thức), theo sáu cửa tiếp xúc: mắt, tai, mũi, lưỡi,thân, và ý.

Theocách phân giải chi tiết của Thắng Pháp thì tâm tổng thểđược chia làm 89 tâm vương. Có nhiều cách kết nhóm cáctâm vương nầy, trong đó có thể kết nhóm theo cõi giới:

1)Dục giới có 54 tâm: 23 dị thục tâm, 11 duy tác tâm, 12 bấtthiện tâm, và 8 thiện tâm.

2)Sắc giới có 15 tâm: 5 thiện tâm, 5 dị thục tâm, và 5 duytác tâm, tùy theo các cấp độ thiền-na hữu sắc (rupajhana).

3)Vô sắc giới có 12 tâm: 4 thiện tâm, 4 dị thục tâm, và 4duy tác tâm, tùy theo các cấp độ thiền-na vô sắc (arupajhana).

4)Siêu thế giới (lokuttaram)có 8 tâm siêu thế: tâm đạovà tâm quả của mỗi quả vị thánh (Dự lưu, Nhất lai, Bấtlai, A-la-hán).

Cũngcó khi tâm được chia làm 121 tâm vương. Sự khác biệt làdo cách phân chia của tâm siêu thế: thay vì chia làm 8 loạitâm siêu thế thì tâm tại 5 tầng thiền-na (jhana)củamỗi đạo quả được đưa vào, tạo thành 40 tâm siêu thế(8 x 5).

Mộtcách kết hợp khác là kết theo 4 nhóm: 12 bất thiện tâm,21 thiện tâm, 36 dị thục tâm và 20 duy tác tâm. Bất thiệntâm là tâm phát sinh từ tham, sân, si; còn Thiện tâm là tâmphát sinh từ vô tham, vô sân, vô si. Các tâm nầy đều tạonghiệp (kamma)mà kết quả là các tâm Dị thục. TâmDuy tác là tâm tuy có hành động nhưng không tạo nghiệp, khôngcó kết quả dị thục.

6.Tâm sở (Sở hữu tâm)

Tâmsở là các phần cấu thành Tâm vương, là phần sở hữu củaÝ hoặc Thức, phụ trợ cho sự biết cảnh. Có tất cả 52tâm sở: Thọ, Tưởng, và 50 tâm sở trong nhóm Hành. Bốn đặctính quan trọng của tâm sở là:

-đồng sinh với Tâm,
-đồng diệt với Tâm,
-đồng nương một vật với Tâm, và
-đồng biết một cảnh với Tâm.
Chúngta cần biết rõ các đặc tính quan trọng nầy, bởi vì khiphân tích từng thành phần, có khi ta lầm tưởng rằng cómột sự tách biệt giữa tâm và tâm sở.

Mỗikhimột loại tâm sinh ra thì kèm theo với một tập hợp cáctâm sở tương ứng. Mỗi loại tâm có một nhóm tâm sở riêngbiệt theo các qui luật nhất định. Tuy nhiên có nhóm tâmsở biến hành (sabbacittasadharana)kết hợp trong mọi loạitâm, trong đó có 7 tâm sở: xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm(định), mạng quyền, và tác ý.

Nhómtâmsở biệt cảnh (pakinnaka)là các tâm sở có thể thiện,có thể bất thiện, tùy theo đối tượng tâm, gồm có 6 tâmsở: tầm, tứ, thắng giải (quyết định), tinh tấn (cần),hỷ, và dục.

Nhómtâmsở bất thiện (akusala)gồm có 14 tâm sở: si, vô tàm (khônghổ thẹn), vô quý (không sợ tội lỗi), trạo cử, tham, tàkiến, mạn, sân, tật (ganh ghét), lận (bỏn xẻn), hối quá(hối hận), hôn trầm, thụy miên, và hoài nghi.

Nhómtâm sở tịnh quang (sobhana)là các tâm sở tốt đẹp, trongsạch, thanh tịnh, và gồm có 25 tâm sở, được chia làm 4loại:

1)19 tâm sở tịnh quang biến hành: tín, niệm, tàm, quý, vô tham,vô sân, hành xả, tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm,nhu thân, nhu tâm, thích thân, thích tâm, thuần thân, thuầntâm, chánh thân, và chánh tâm.
2)3tâm sở tiết chế: chánh ngữ, chánh nghiệp, và chánh mạng.
3)2tâm sở vô lượng: bi và tùy hỷ.
4)1tâm sở tuệ quyền (pannindriya): hiểu biết sự vậtđúng như thật, qua 3 đặc tướng khổ, vô thường, và vôngã.
7.Lộ trình tâm (Tâm lộ)

Mộttrongnhững ý niệm chính yếu trong Thắng Pháp là sự vậnhành của tâm, gọi là Tâm Lộ hay Lộ trình Tâm (cittavithi).Một tâm khởi sinh, trụ và diệt trong một thời gian rấtngắn, thường gọi là một sát-na tâm (cittakkhana). Mỗikhi tiếp xúc với đối tượng, các loại tâm xảy ra theo mộtlộ trình rất phức tạp, tùy theo các hoàn cảnh riêng biệt.Thông thường, các vị giảng sư dùng một thí dụ đơn giảnkhi mắt thấy một đối tượng để diễn tả một lộ trìnhtiêu biểu gồm 17 sát-na như sau:

1)Hộ kiếp (bhavanga, hữu phần)vừa qua
2)Hộkiếp rúng động
3)Hộkiếp dứt dòng
4)Ngũmôn hướng tâm (ở đây là nhãn môn)
5)Nhãnthức
6)Tiếpthu
7)Xácđịnh
8)Phánđoán
9- 15) Bảy sát-na tâm tốc hành (javana)
16-17) Hai sát-na tâm đồng sở duyên (thập di)
Sát-natâmđầu tiên gọi là "hộ kiếp vừa qua" vì lúc đó, cảnhchưa có tác động qua mắt, và luồng hộ kiếp còn liên hệvới cảnh quá khứ. Hai sát-na kế tiếp là khi hộ kiếp rúngđộng và tan vỡ, và tâm trở về thực tại, và hướng vềđối tượng qua con mắt (nhãn môn hướng tâm), và nhãn thứcsinh khởi. Ba sát-na kế tiếp là tâm bắt đầu tiếp nhậnvà suy xét, phán đoán. Bảy sát-na tâm tốc hành là quan trọngnhất vì đây là lúc tâm có thể tạo nghiệp hành mới. Nghiệpnầy có thể tạo quả tức thời trong lộ trình kế tiếp,hay sẽ tạo quả trong một tương lai về sau hoặc kiếp sau.Hai sát-na cuối cùng là tâm ghi nhận, tùy theo bản chất củađối tượng mà cường độ ghi nhận có thể thay đổi. Cuốicùng, tâm lại rơi vào luồng hộ kiếp (bhavanga), vàtiến vào lộ trình kế tiếp. Trên một bình diện nào đó,nhiều học giả cho rằng quan niệm về luồng bhavangalà căn bản cho việc khai triển các quan niệm về Tàng thức(A-lại-dathức)của Duy thức tông về sau nầy.

Cầnnênbiết rằng toàn thể một lộ trình như thế xảy ra rấtnhanh, và có hàng vạn lộ trình xảy ra chỉ trong một chớpmắt. Ngoài ra còn có các tâm lộ khác, tùy theo hoàn cảnh,chủ thể và đối tượng. Thắng Pháp còn đề cập các tâmlộ đặc biệt như lúc cận tử, lúc nhập thai, khi hành giảđắc các tầng thiền-na, và khi đạt các đạo quả thánh.

8.Niết Bàn

Phânhạng cuối cùng là Niết Bàn. Ðây là pháp duy nhất khôngcó đặc tướng vô thường và phiền khổ. Ðây là pháp duynhất không có điều kiện tính (pháp vô vi) hoặc phụ thuộcvào các pháp khác. Về tự tánh (sabhavato)thì Niết Bànlà an tịnh, vắng lặng (santi)và chỉ có một. Theo sựviệc thì Niết Bàn có hai: hữu dư y Niết Bàn và vô dư yNiết Bàn. Thật ra, chúng ta không thể nào diễn tả hoặcphân tích Niết Bàn bằng ngôn từ đối đãi của hiệp thế.

(Viếttheo bài "Some Introductory Notes on Abhidhamma"
củaTỳ khưu Punnadhammo, Canada)

Tháng5-2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2016(Xem: 11219)
Thiền định dựa vào hơi thở là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền phát huy một sự chú tâm cao độ mang lại sự tĩnh lặng và thăng bằng cho tâm thức giúp mình trở về với chính mình hầu tìm hiểu tâm thức và con người của chính mình. Kỹ thuật đặc biệt này được áp dụng trong phép thiền định thật căn bản của Phật giáo Theravada là Vipassana.
08/12/2015(Xem: 39735)
Bạn đang cầm trong tay một cuốn cẩm nang hướng dẫn hành Thiền thật hữu ích và tinh tế, do một vị sư đầy kinh nghiệm tu tập uyên thâm trình bày. Ajahn Brahm là một trong những vị sư thuộc thế hệ mới của những tăng sĩ Tây phương đã tu học, thực hành và nắm vững giáo lý quan trọng của Đức Phật, và nay Sư cống hiến kinh nghiệm ấy cho các hành giả thành tâm trên khắp thế giới hiện đại.
31/10/2015(Xem: 12114)
rang mạng Buddhaline.net, một trang mạng Phật giáo rất uy tín vừa phổ biến lá thư số 139 (tháng 10/2015) với chủ đề "Thiền Định", nhằm đánh dấu 15 năm thành lập trang mạng này, và đồng thời kêu gọi những người Phật tử khắp nơi hãy hưởng ứng chương trình "24 giờ thiền định cho Địa cầu" ("24 heures de méditation pour la Terre") sắp được tổ chức trên toàn thế giới.
02/12/2014(Xem: 24320)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam, và được nhà xuất bản Thanh Văn ấn hành lần đầu tiên vào năm 1991 tại California, Hoa kỳ đã được nhiều độc giả tiếng Việt hâm mộ. Chúng tôi chân thành cảm ơn tất cả quí độc giả và hành giả tu tập thiền nhiệt tình, và nhà xuất bản Thanh Văn.
03/10/2013(Xem: 12210)
Qua đề tài: “Sự tương quan giữa các pháp môn hành trì Thiền – Tịnh – Luật của người tu tập” mà chiều hôm nay sau hai tiếng đồng hồ với 11 ý kiến phát biểu, chia sẻ và cùng nhau thảo luận, chúng tôi hết sức hoan hỷ và trân trọng tinh thần tham gia đóng góp ý kiến của Đại chúng. Qua đó chúng tôi xin rút gọn lại và có mấy ý kiến đóng góp them để cùng nhau chia sẻ với Đại chúng như sau:
11/05/2013(Xem: 9552)
“Zen” là lối phát âm của Nhật Bản của danh từ Ch’an của Trung Hoa, mà từ này lại là lối phát âm theo từ Dhyana của Phạn ngữ có nghĩa là “thiền.” Điểm đặc biệt của công phu tu tập đạt đến giác ngộ của Đức Phật là quán chiếu nội tậm. Vì lý do nầy mà nhiều người tin rằng rằng họ thiền quán để thành Phật. Vâng, họ đúng. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ người con Phật nào cũng là thành Phật; tuy nhiên, thiền tự nó không làm cho bất cứ chúng sanh nào thành Phật.
23/04/2013(Xem: 13128)
Trong thời đại của chúng ta hôm nay, thiền không phải chỉ là pháp môn tu tập để kiến tánh thành Phật, vốn được xem như là sắc thái đặc thù của chốn sơn môn, mà đã và đang trở thành những phương thức trị liệu đầy kiến hiệu trong các ngành tâm lý và xã hội. Ở cả Đông và Tây phương, con người càng ngày càng trực nhận ra được khả tính ưu việt và độc đáo của thiền trong việc giải thoát những khổ luỵ, những ưu phiền của đời sống cá nhân và xã hội.
23/04/2013(Xem: 4818)
Sách này được thực hiện để trước là báo tứ trọng ân, sau là giúp người sơ học. Bên cạnh các sách Thiền bằng Việt ngữ do các thiền phái sọan, dịch và xuất bản ở VN tương đối đã nhiều và đầy đủ, tuyển tập này hy vọng sẽ trình bày thêm một số thông tin khác, được nhìn từ nhiều hứơng khác nhau. Ba truyền thống chính trình bày trong sách này chỉ là vì tiện lợi. Mỗi bài đều tự hòan tất, và độc giả có thể đọc thẳng từ bất kỳ bài nào, không cần thứ tự.
23/04/2013(Xem: 8855)
Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào.
23/04/2013(Xem: 7717)
Ðây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc đời qua con đường tâm linh. Con đường đạo của Ðức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người. Bất cứ ai với lòng quyết tâm và thiện ý đều có thể đi trên con đường này để đạt được tự do, giải thoát cho thân tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567