Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn chân lý cao cả

19/01/201105:47(Xem: 9241)
Bốn chân lý cao cả

TRÍHUỆVÀ ĐẠI BI

TenzinGyatso Dalai Lama thứ 14
Nguyêntác:Kindness, Clarity and Insight, Snow Lion Publications Ithaca NewYork USA 1990
BảndịchViệt: Thiện Tri Thức 2000 PL. 2543

BỐNCHÂN LÝ CAO CẢ*

Trongtổngthể, mọi tôn giáo có một động cơ tương tự, chúngđược phấn kích bởi tình thương và bi mẫn, và nếu quanđiểm triết lý của chúng bao gồm những khác biệt rộnglớn, chúng có ít ra là một mục tiêu chung : làm cho con ngườitiến bộ. Tuy nhiên, mỗi tôn giáo có những phương pháp riêngđể đạt được điều đó. Thế kỷ chúng ta đã làm mộtbước nhảy khổng lồ trong sự truyền thông, và vì thế,hành tinh chúng ta trở nên càng ngày càng nhỏ hơn, nhưng chínhđó là một dịp quý giá để chúng ta đến gần nhau, khámphá lẫn nhau trong những khác biệt văn hóa của chúng ta, traođổi những quan điểm của chúng ta. Chúng ta có biết bao điềuđể học hỏi lẫn nhau, để rút tỉa ra từ đó.

Chẳnghạn những người Thiên Chúa giáo đã biết đem những phươngtiện hoàn toàn hiệu quả để phụng sự nhân loại mà nhữngngười Phật giáo có thể mô phỏng, đặc biệt là trong nhữnglãnh vực giáo dục và sức khỏe. Đồng thời, người ta tìmthấy trong Phật giáo những phương pháp tinh vi về thiền địnhsâu xa và một biện chứng pháp chặt chẽ có thể có lợicho những người Thiên Chúa giáo. Chính như thế mà ở Ấnđộ cổ thời, những người Ấn giáo và Phật giáo đã làmphong phú lẫn nhau nhiều.

Chúngta không có nguy cơ gì khi trao đổi những hiểu biết củachúng ta, điều ấy chỉ có thể giúp chúng ta phát triển mộtsự kính trọng lẫn nhau, bao giờ mà phía này và phía kia,chúng ta chỉ mong muốn điều tốt đẹp cho nhân loại. Chínhtrong tinh thần này mà bây giờ tôi sắp trình bày một vàinét của tư tưởng Phật giáo.

Giáolý của Phật hoàn toàn được xây dựng trên bốn Chân LýCao Cả : những chân lý về những sự khổ, về những nguồngốc, về những sự dừng dứt và về những con đường. BốnChân lý Cao cả tạo thành hai nhóm quả và nhân :

–¬Những khổ đau và những nguyên nhân của chúng.

–Những sự dừng dứt khổ và những con đường để thựchiện sự dừng dứt chúng.

Khổthìgiống như một cơn bệnh : những điều kiện bên ngoàivà bên trong chịu trách nhiệm về cơn bệnh đó là nhữngnguồn gốc, sự dừng dứt khổ cùng những nguyên nhân củakhổ là sự lành bệnh. Những con đường đích thực là nhữngphương thuốc.

Thứtự những hậu quả (khổ và diệt khổ) đứng trước nhữngnguyên nhân (nguồn gốc của khổ và những con đường) cólý do của nó. Trước hết cần biết rằng người ta đã mắcmột cơn đau bệnh, nghĩa là tin vào sự có mặt của khổ(Chân lý cao cả thứ nhất). Nhưng điều đó chưa đủ ; cònphải biết rõ những nguyên nhân gây bệnh để tìm ra thuốcchữa. Những nguyên nhân ấy sáng tỏ khi nghiên cứu cái thứhai của bốn Chân lý, Chân lý về những nguyên nhân. Nếuđiều quan trọng là tìm ra gốc gác của căn bệnh, thì cũngchính yếu không kém khi biết có thể chữa lành được không.Sự tin tưởng có phương thuốc liên hệ đến mức độ thứba trong đó sự có thật của sự diệt dứt và những nguyênnhân kèm theo được bày tỏ.

Mộtkhi chúng ta đã nhận ra bệnh, hiểu rõ những nguyên nhân củanó, có được sự xác tín rằng có thể chữa lành, chúngta chỉ còn phải dùng những phương thuốc và theo cách sửdụng để chấm dứt nó. Phải tin tưởng vào thứ tự nàyđể mượn những con đường trên đó người ta gặp đượctrạng thái thoát khỏi mọi khổ đau.

Bướcđầu tiên không thể sai chạy cốt ở nhận ra sự khổ. Nóbiểu lộ một cách tổng quát dưới ba hình thức chính : khổcủa khổ (khổ khổ), khổ của sự biến dịch (hoại khổ),khổ nội tại và cấu tạo nên thân phận con người (hànhkhổ).

Ởmức độ đầu tiên, có sự khổ mà chúng ta thường gọilà đau đớn thể xác hay tinh thần, ví dụ đau đầu. Ướcmong thoát khỏi nó không riêng với con người ; con vật cũngmuốn thế. Có những phương tiện để ngăn trừ nó, như dùngmột thứ thuốc, mặc ấm hơn hay tránh xa nguồn gốc củanó.

Mứcdộ thứ hai, khổ của sự biến hoại, gồm những hình thứcbề ngoài của lạc thú mà khi phân tích kỹ càng, chúng phátlộ bản chất khổ của chúng. Đây là một ví dụ : thườngthường, mua một chiếc xe hơi mới được xem như một biếncố dễ chịu, và ban đầu các bạn tìm thấy một lạc thúbao la khi lái nó. Nhưng càng dùng nó bao nhiêu, nó càng đặtra cho các bạn những vấn đề. Nếu vật là một nguồn thỏamãn tự thân, hiệu quả lạc thú phải tăng lên tỷ lệ vớisự dùng nó. Vậy mà điều ngược lại đã xảy ra. Càng dùngnó bao nhiêu, chiếc xe của bạn càng gây cho bạn nhiều mốiphiền não. Sự biến hoại ở đây phát lộ bản chất khổsở của nó, do đó mà có tên khổ của sự biến hoại.

Phươngdiện thứ ba của khổ là cái căn cứ từ đó phát xuất rahai cái kia, và những hợp thể (các uẩn) nhiễm ô của thânvà tâm là đại diện cho cái khổ này. Người ta gọi nó làsự khổ nội tại và cấu tạo nên tình trạng hiện hữu.Bởi vì mọi chúng sanh đang lưu chuyển đều thấm nhuần cáikhổ này, người ta gọi nó là “nội tại”. “Cấu tạo”chỉ ra rằng nó không chỉ nằm ở nền tảng của khổ đauhiện tại, mà còn khởi dẫn cái khổ sắp đến. Nó là khônglối thoát, trừ khi người ta chấm dứt dòng tái sanh.

Bắtđầu, nên nhận biết ba hình thức khổ não này, biết rằngdanh từ khổ này không độc nhất để chỉ cảm xúc khổ,mà còn chỉ những tiến trình bên ngoài và bên trong chúngxác định cái khổ và cả những trạng thái tâm thức vànhững yếu tố tâm thức đi theo. Đó là tất cả những gìcái khổ bao trùm.

Đâulà những nguyên nhân của nó ? Nó nảy sanh thế nào ? Nó phátxuất từ hai nguồn : nghiệp – hành động – và những phiềnnão. Đó là điều chúng ta học được từ Chân lý cao cảthứ hai về những nguyên nhân thực sự của nó. Nghiệp trảlại những hành động nhiễm ô của thân, ngữ, ý ; nó cóloại tốt, loại không tốt và loại trung tính. Loại tốtkéo theo những kết quả vui hay tích cực ; loại xấu, nhữngkết quả khổ hay tiêu cực.

Baphiền não chính là biết lầm, tham lam và sân hận, từ đóghen ghét, ác cảm và nhiều cái khác phát sanh thêm. Để chấmdứt những hành động làm phát khởi khổ đau, phải làm khôcạn những yếu tố rối loạn là những nguồn sanh sống vàlà những nguyên nhân chính của chúng. Ở giai đoạn này, ngườita tự hỏi : có thể chấm dứt nó không ? Với câu hỏi này,người ta lập tức đi vào trung tâm của Chân lý cao cả thứba, sự thực của sự diệt dứt.

Nếunhững phiền não là nội tại, sẵn có nơi bản tánh củatâm thức, thì chữa lành là vô phương, bởi vì, trong mộtgiả thiết như vậy, sân giận chẳng hạn, sẽ thường hằnghiện hữu nơi chúng ta. Nó chỉ tắt mất với tâm thức chúngta, và cũng thế đối với tham. Rõ ràng không phải như vậy.Điều đó chứng minh rằng bản tánh của tâm thức không bịô nhiễm bởi các khuyết điểm ; vậy thì không có gì ngăncản chúng ta nhổ tuyệt chúng bởi vì chúng thì tách biệtvới tâm thức bổn nguyên.

Hiểnnhiên, những vận động tích cực và những vận động tiêucực không tương hợp với nhau : tình thương và giận dữkhông thể hiện hữu cùng một lúc. Ngay lúc các bạn giậndữ với ai, bạn không cảm thấy tình thương dành cho nó vàngược lại. Đó là dấu hiệu hai trạng thái này của tâmthức ngược lại với nhau, khai trừ lẫn nhau. Khi người tachọn một loại tâm thái nào, những cái khác yếu đi mộtcách hoàn toàn tự nhiên. Thế nên khi người ta gắn bó vớitình thương và lòng tốt, người ta phát triển mặt tích cựccủa tư tưởng, và cái đối ngịch với nó dần biến mất.Đó là những chứng cớ chứng tỏ rằng những nguồn mạchcủa khổ có thể dần dần khô cạn. Sau khi tắt hết mọinguyên nhân của khổ, đó là sự diệt độ thực sự, sựgiải thoát tối hậu, sự thanh bình đích thực miên viễn,sự cứu độ : đó là cái thứ ba của Bốn Chân lý Cao cả.

Đâulà con đường người ta cần mượn, người ta thực hành thếnào để đạt đến đó ? Những bất toàn chủ yếu đếntừ tâm thức chúng ta, cũng chính từ tâm thức mà cái nghịchlại sẽ đến. Vậy thì, nếu quan trọng là khám phá cáchthế hiện hữu rốt ráo của tất cả hiện tượng, thì cáchthế nền tảng tối hậu của tâm thức sẽ là sự quan tâmhàng đầu của chúng ta.

Cầnphải tìm hiểu nó một cách mới mẻ, trực tiếp, hoàn toànvượt khỏi nhị nguyên, giải mã bản tánh rốt ráo của nó,thực sự nó là gì ; đó là điều người ta gọi là Con đườngcủa Cái Thấy (Kiến Đạo vị). Giai đoạn sau, người ta làmquen với cách thức tri giác này, và đó là Con đường củaThiền Định (Tu Tập vị).

Nhưngtrong một thời gian đầu, người ta phải đạt đến chỗlàm an định tâm thức trong một trạng thái định gồm hai,bằng cách kết hợp định tâm và cái thấy xuyên thấu. Trênnguyên tắc, để có được một năng lực mạnh mẽ để thấuhiểu cái thật, cần thiết phải phát triển trước sự anđịnh tâm thức này mà người ta gọi là “định”.

Đâylà những giai đoạn của con đường (Chân Lý Cao Cả thứtư), cho phép thành tựu, hiện thực hóa sự diệt dứt (ChânLý Cao Cả thứ ba) và chấm dứt cho khổ đau và cho nhữngnguồn gốc của chúng (Chân Lý Cao Cả thứ nhất và thứ nhì).Bốn chân lý này cấu thành toàn bộ tư tưởng và thực hànhcủa đạo Phật.

Câuhỏi : Thoạt nhìn, hình như khó hòa giải nguyên lý Phật giáovề sự diệt dứt của ham muốn với tham vọng, được Tâyphương xem như một phẩm tính đi đôi với ham muốn.

Trảlời : Có hai loại ham muốn, một thứ thì phi lý và đầynhững kích thích bi thảm, trong khi nhờ vào cái kia mà cácbạn nhận ra cái gì tốt như là tốt và các bạn cố gắngđạt đến nó. Cái sau thì đáng giá, vả lại chính nhờ nómà người ta đi tìm chân lý dấn thân vào thực hành. Cũngthế, sự tìm kiếm tiến bộ vật chất cho điều tốt đẹpcủa nhân loại là đúng đắn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2021(Xem: 3777)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
18/06/2021(Xem: 9386)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
11/10/2020(Xem: 11635)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 12002)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 9638)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.”
17/04/2020(Xem: 5185)
Cuộc họp ngắn của nhóm chuyên gia y tế vào ngày 27/3/2020, bắt đầu với một chiếc máy ảnh lung linh và thô sơ. Vào ngày 31/3/2020, Tiến sĩ bác sĩ Phật tử James Maskalyk mở đầu bằng một bản tóm tắt nhanh về tình hình hiện tại của Covid-19: đã lây lan ở khắp mọi nơi trên thế giới.
13/04/2020(Xem: 5321)
Quý bạn cảm thấy mình có lo lắng, thậm chí chán nản hay cô đơn trong mối quan hệ của mình phải không? Tất cả chúng ta đều trải qua những thử thách và xung đột trong cuộc hôn nhân của mình lúc này hay lúc khác. Như Giáo sư Tiến sĩ Phật tử John Gottman giải thích, việc liên tục xử lý các vấn đề đang diễn ra có thể dẫn đến “tình trạng bế tắc” (gridlock) không thoải mái và cảm giác rằng quý bạn đang quay cuồng như bánh xe và không tới đâu. Chìa khóa để cởi mở “tình trạng bế tắc” là hiểu hơn về những gì đối tác của quý bạn và cảm nhận – nhưng làm thế nào?
30/07/2019(Xem: 6782)
* “Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó SỰ GẶP GỠ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại MỘT NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991). -- * - “Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ. - Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này)”. (https://quangduc.com/a34369/thien-ngon).
03/06/2019(Xem: 6374)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
17/12/2018(Xem: 6292)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567