Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 2: Thiền có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta

26/04/201311:49(Xem: 4068)
Chương 2: Thiền có ảnh hưởng đến đời sống chúng ta

Vô ngã, Vô ưu

Being Nobody, Going Nowhere

Ni sư Ayya Khema
Diệu Đạodịch Việt

Wisdom Publications, 1987

---o0o---

Chương 2

Thiền định ảnh hưởng
đến đời sống chúng ta

---o0o---

Trước hết ta phải tẩy uế, thanh lọc tâm. Nhưng không thể có tâm thanh tịnh, nếu như thân ô uế, vì thế, ta cũng cần tẩy rửa các thứ tạp uế đã chất chứa trên thân thể ta bấy lâu nay.

Hãy tưởng tượng một người đã sống trong một ngôi nhà đã hơn hai mươi, ba mươi năm không dọn dẹp. Bao nhiêu thức ăn thừa thãi, quần áo bẩn thỉu, rác rưởi đã chất đến trần nhà. Phải sống giữa đống rác đó thật hôi thối khó chịu. Nhưng người chủ sống ở đó thì chẳng hề bận tâm, cho đến một ngày có người bạn ghé qua và nói : "Sao bạn không dọn nhà mình cho sạch sẽ?" Rồi hai người bạn bắt tay vào dọn dẹp một góc nhà. Sau đó người chủ bắt đầu thấy sống ở góc phòng sạch sẽ đó dễ chịu hơn. Nên dọn dẹp cả căn nhà, người chủ bây giờ có thể ngắm quang cảnh bên ngoài, có đủ chỗ đi qua lại trong nhà. Khi chỗ ở đã trở nên thoải mái dễ chịu, người chủ mới có thể quay vào chú trọng đến nội tâm của mình.

Căn nhà đó là thân chúng ta. Bất kể chúng ta đi đâu : từ thành phố này đến xứ sở kia, từ chỗ trọ này đến nơi ở khác, không biết bao nhiêu lần. Ta cũng lôi kéo thân đi cùng khắp cho đến ngày nó rời rã, hư hoại, chỉ còn là một đống xương, một nhúm cát bụi. Nhưng còn chưa tới ngày ấy, ta còn phải mang thân này. Còn phải sống, ta còn cần phải dọn dẹp cho "căn nhà" này được thông thoáng sạch sẽ dễ chịu.

Các phản ứng tâm lý chất chứa bên trong lâu ngày đã che mắt tâm ta. Tâm đã dung chứa chúng thì chính tâm cũng phải tháo gỡ chúng. Trong Thiền, điều này đồng nghĩa với "nhận biết các cảm thọ, nhưng không phản ứng, rồi buông bỏ". Bản chất của Thiền là không phản ứng. Ðặc tính quan trọng đó giúp ta tìm được sự an lạc, quân bình trong tâm hồn, vì các phản ứng giống như sự chuyển động của các làn sóng phủ chụp ta, làm ta mờ mịt không thấy lối ra. Và chúng ta tiếp tục u mê. Chúng ta có thể nghe, chúng ta có thể cảm thấy, nhưng không thể nhìn thấy "nội tâm " của ta. Nội tâm đó đã bị che phủ bởi các hành động, những phản ứng tình cảm của chúng ta.

Khi các vọng tưởng khởi lên trong lúc tọa thiền, ta chỉ cần biết chúng dấy khởi, mà không cần có phản ứng. Và ta cũng chỉ cần làm có thế. Thái độ không phản ứng này cũng có thể được mang áp dụng vào đời sống hàng ngày của ta. Cảm thọ nào dấy khởi, ta chỉ cần nhận biết nó đó đến, rồi để nó đi. Nếu chúng ta có thể quán tưởng được như thế lúc ngồi thiền, là ta đã học được một trong những bài học quan trọng nhất trong việc tự giải thoát mình. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng vì chúng ta đang sống, tất nhiên ta phải biết nghệ thuật sống. Ðó là một nghịch lý khác của cuộc đời. Sống là một nghệ thuật. ai trong chúng ta chẳng từng vấp ngã một đôi lần trong đời. Ta gọi đó là thảm kịch, bất hạnh "của tôi". Thật ra đó chỉ là nghệ thuật sống chưa được hoàn hảo.

Ðặc tính thứ ba nhưng không kém phần quan trọng của việc tu thiền là ta có thể kinh nghiệm được tính cách vô thường của sự vật. Trừ khi tự chúng ta kinh ngiệm được điều đó, nếu không tính cách vô thường của sự vật cũng chỉ là những lời nói vô nghĩa. Và lời nói không giúp chúng ta giải thoát được. Phải tự chứng nghiệm. Con đường Ðức Phật chỉ cho chúng ta là con đường nhằm đưa đến giải thoát một sự tự do hoàn toàn, tuyệt đối, và điều đó mỗi người phải tự chứng nghiệm lấy. Khi tham thiền, hãy kinh nghiệm sự vô thường trực tiếp qua việc chú tâm vào hơi thở, ta biết rằng một hơi thở vừa vào, lại một hơi thở ra. Hơi thở trước không giống hơi thở sau. Cảm thọ này dấy lên, rồi qua đi. Tiếp theo một cảm thọ khác lại đến. Rồi nối nối các cảm thọ khác dấy lên, cuối cùng không còn gì nữa. Một cảm giác đau ở chân, ta trở mình, cảm giác đau biến mất. Cảm thọ đến, rồi cảm thọ đi.

Với chút kinh nghiệm tu tập thiền, ta có thể dễ dàng nhận ra được sự vô thường của cảm thọ, đồng thời ta cũng nhận ra được sự vô thường của bản thân. Ai cũng biết thế. Người có hiểu biết đều biết rằng thân của ta, của tất cả mọi người đều vô thường, hoại diệt. Nhưng tất cả chúng ta đều sống như thể ta sẽ không bao giờ mất, ta đau khổ, khóc than khi thân này bị hủy hoại theo luật tự nhiên, như thế đó là việc ta không bao giờ ngờ tới.

Ðó là một sự suy nghĩ sai lầm, vô lý lắm phải không? Ðó là vì chúng ta tự quay lưng lại với thực tại. Ta chỉ muốn chấp nhận cái tốt đẹp. Còn khi phải đối mặt với sự thật phũ phàng, ta tìm cách đổ lỗi cho kẻ khác. Có người còn đổ cho quỷ thần, trời đất. Không cần biết ta trách móc người chung quanh hay trách trời đất, sự thật cuộc đời là đầy những vô thường, chúng ta phải chấp nhận sự thật đó để sống cho đúng.

Khi chúng ta suy nghĩ thêm, ta sẽ thấy là mỗi giờ phút trôi qua, các tế bào trong cơ thể cũng thay đổi. Chúng ta ai không học điều này ở nhà trường.

Rõ ràng là chúng ta có thể kiểm nghiệm được điều này. Khi lắng sâu trong Thiền định, ta có thể cảm được từng cảm giác trên da thịt mình. Ta sẽ có cái nhìn khác về chính bản thân ta, cũng như về cuộc đời, vì giờ ta đã thấu hiểu bằng chính kinh nghiệm của mình rằng không có gì bền vững, tồn tại mãi, nhất là với thân này.

Khoa học đã chứng minh rằng không có gì trong vũ trụ là một khối. Tất cả vật chất là hiện hữu đều được tạo thành bởi những phân tử di chuyển với tốc độ nhanh đến cùng với nhau và rã tan cùng nhau, do đó chúng ta ảo tưởng cùng một khối vững chắc. Ðức Phật 2500 năm về trước đã nói như thế về các phân tử, không cần đến các phòng thí nghiệm để chứng minh điều đó. Ngài đã từng kinh nghiệm điều đó và đã Giác ngộ. Các nhà khoa học cũng biết tất cả những điều này, nhưng họ không phải là đấng giác ngộ, vì điều họ thiếu sót là kinh nghiệm bản thân, chính họ không tự chứng được những điều này.

Ta cũng tự biết với một chút phán đoán thông minh rằng không có gì là một khối cứng rắn. Nếu không sẽ không có cơ thể chúng ta, mà chỉ có những cái xác người. Nhưng đó là sự phán đoán của lý trí. Chưa đủ. Ta còn phải cảm nhận được điều ấy. Khi ta cảm nhận được như thế trong Thiền định, ta thật sự "biết". Không ai có thể bàn cãi gì được về những kinh nghiệm của chính bản thân ta. Ngay chính như nếu có ai đó nói với ta rằng :"Không. Không phải vậy. thân ta là một khối. Sao bạn không thử nắn thân thể mình thì biết. Nó là một khối cứng rắn phải không?" Ta cũng sẽ không muốn bàn cãi, không để bị thuyết phục. Nhưng khi có người tranh luận về những điều Ðức Phật dạy, Ngài đã không cãi lại. Ngài không phải bảo vệ cho giaó lý của mình. vì Ngài đang nói về các kinh nghiệm tự chứng.

Với sự chú tâm nhất quán, thậm sâu, ta có thể "thấy" được những thay đổi không ngừng trong ta. Chính tâm ta cảm nhận được điều đó, bên trong cơ thể ta, vậy thì tâm phải đứng ngoài mới nhìn thấy được, vậy làm sao nói được ta là một khối rắn chắc. Tâm có thể nói rằng :"Nếu luôn luôn có sự chuyển đổi bên trong ta, vầy thì cái "tôi" ở đâu?" Tất cả các cảm giác luôn thay đổi. Phút trước có, phút sau không. Cơ thể luôn biến đổi. Không có gì để "tôi" bám víu vào. Tư tưởng luôn thay đổi, vậy "tôi" ở đâu? Nhưng dĩ nhiên là con người chạy tìm một hình ảnh tưởng tượng để ẩn trú vào như là một con người siêu phàm (higher self) một tâm linh, một linh hồn v.v... Nhưng xét kỹ ra, tất cả đều là ảo tưởng. Chúng ta phải chấp nhận vô thường.

Một đặc tính nữa của việc tập Thiền, chính là phương pháp Thiền mà Ðức Phật đã nhắc đến trong lúc thuyết giảng về nền tảng của sự chú tâm, thiền quán về bốn yếu tố : đất, nước, gió, lửa. Cảm giác về sự cứng rắn trong cơ thể thuộc về đất. Chúng ta cũng cảm được thể rắn chắc trong chiếc bồ đoàn ta ngồi. Yếu tố rắn chắc (Ðất) có mặt ở khắp mọi nơi. Ngay cả trong nước cũng có, nếu không, ta không thể lội trong đó, hay đặt thuyền lên nước. Yếu tố đó có cả trong không khí, nếu không chim, máy bay không thể bay trong đó.

Yếu tố lửa- nhiệt độ - cũng ở khắp nơi. Nếu để ý, chúng ta có thể cảm thấy sức nóng trong thân mình. Thường ta chỉ để ý đến yếu tố này khi đang lạnh cóng, bị nóng quá hay lúc bị cảm sốt. Nhưng nhiệt độ luôn có mặt trong cơ thể ta. Cũng như trong tất cả mọi sinh vật.Yếu tố Nước ở trong máu, nước miếng, nước tiểu của chúng ta. Yếu tố nước cũng là sức kết, bện. Khi ta có bột, đổ nước vào, bột sẽ dính vào nhau. Nước là yếu tố kết, bền có mặt ở khắp mọi nơi. Không có nó, tất cả các tế bào di chuyển trong thân ta, sẽ tan rã. Chúng ta sẽ không thể ngồi đây nếu không có nó để giữ cơ thể chúng ta lại.

Tất cả những khám phá này thật lý thú phải không? Nhưng chúng cũng vô dụng nếu ta không kinh nghiệm chúng. Chúng sẽ vẫn chỉ là những kiến thức tiêu khiển trong lúc tán gẫu với bạn bè. Nhưng khi ta có thể tự kinh nghiệm được, chúng sẽ trở thành sự hiểu biết sâu sắc bên trong, về vật chất quanh ta. Trí tuệ, sự nhận biết được bản chất thật của sự vật là điều Ðức Phật thường hay nhắc tới.

Cuối cùng là yếu tố không gian (Gió). Có không gian - những chỗ mở - trong ta, như là lỗ mũi, bên trong miệng. Ngay trong nội tạng cũng có những chỗ mở. Vũ trụ là không gian. Nếu chúng ta nhận ra được những điều này, chúng ta sẽ thấy là tất cả đều cùng một thể, ta sẽ bớt được những suy nghĩ như "Ðây là tôi và tôi sẽ chỉ lo cho một mình tôi, không cần biết đến thế giới quanh tôi. Mong là họ cũng sống an lành, nhưng đừng có trông cậy vào tôi". Khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta có cũng chỉ là do các duyên hợp lại, rồi tan đi, chúng ta không là gì ngoài bốn thứ gió, lửa, đất và nước hợp lại, thì "tôi"là gì, đến nỗi lúc nào ta cũng chăm chăm bảo vệ nó bằng mọi cách. Và thế giới còn lại, người chung quanh ta là gì, để ta cảm thấy bị họ đe dọa?

Thiền là nhắm đạt được giác ngộ, và giác ngộ là mục đích của người Phật tử tu thiền. Các phương tiện là những dụng cụ. Ta phải biết sử dụng chúng cách nào cho hữu hiệu hơn cả. Mỗi người một cách khác nhau. Nhưng ta càng sử dụng chúng thuần thục, thì kết quả càng nhanh chóng, dễ dàng hơn. Nên nhớ là cần phải chú tâm vào cách áp dụng phương tiện, không vào kết quả. Chỉ có như thế thì sự dễ dàng, thuần thục mới đến với chúng ta.

---o0o---


Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này. 
( Trang nhà Quảng Đức, 05/2002)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/11/2021(Xem: 3769)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
18/06/2021(Xem: 9362)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
11/10/2020(Xem: 11612)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 11987)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.” Bồ đề là tâm, trần ai bắt nguồn từ cuộc sống, dùng trí tuệ của Thiền để quét sạch, vậy trời đất sẽ tự nhiên bình yên, thanh tịnh.
28/08/2020(Xem: 9629)
Thiền là một lối sống, một dòng suối thuần khiết trong trần thế đa tạp và là thứ ánh sáng kỳ diệu nơi thế tục. Hãy trải nghiệm cuộc đời bằng tâm Thiền, tìm ra những điều tốt đẹp chân chính trong cuộc sống với lòng Bồ Đề, trái tim Bát nhã và tâm Thiền của chúng ta. “Cuộc sống chính là Thiền”, chúng ta phải hiểu ra đạo Thiền trong cuộc sống. Xa rời thế tục để cầu Thiền bái Phật chẳng khác nào “bắt cá bằng cọc đa”, không thể nào chứng ngộ. Giống như tổ thứ 6 thiền sư Huệ Năng nói: “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính dịch phi đài. Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai.”
17/04/2020(Xem: 5167)
Cuộc họp ngắn của nhóm chuyên gia y tế vào ngày 27/3/2020, bắt đầu với một chiếc máy ảnh lung linh và thô sơ. Vào ngày 31/3/2020, Tiến sĩ bác sĩ Phật tử James Maskalyk mở đầu bằng một bản tóm tắt nhanh về tình hình hiện tại của Covid-19: đã lây lan ở khắp mọi nơi trên thế giới.
13/04/2020(Xem: 5311)
Quý bạn cảm thấy mình có lo lắng, thậm chí chán nản hay cô đơn trong mối quan hệ của mình phải không? Tất cả chúng ta đều trải qua những thử thách và xung đột trong cuộc hôn nhân của mình lúc này hay lúc khác. Như Giáo sư Tiến sĩ Phật tử John Gottman giải thích, việc liên tục xử lý các vấn đề đang diễn ra có thể dẫn đến “tình trạng bế tắc” (gridlock) không thoải mái và cảm giác rằng quý bạn đang quay cuồng như bánh xe và không tới đâu. Chìa khóa để cởi mở “tình trạng bế tắc” là hiểu hơn về những gì đối tác của quý bạn và cảm nhận – nhưng làm thế nào?
30/07/2019(Xem: 6771)
* “Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó SỰ GẶP GỠ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại MỘT NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991). -- * - “Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ. - Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này)”. (https://quangduc.com/a34369/thien-ngon).
03/06/2019(Xem: 6368)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệ và từ bi mà chúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi. Theo Pema Chodron cho biết Thiền giúp chúng ta tự biết mình: những phần thô và những phần tế của chúng ta, tham, sân, si và trí tuệ. Lý do mà con người làm hại người khác, lý do mà hành tinh này bị ô nhiễm và con người và thú vật không sống khỏe mạnh, là vì hiện nay các cá nhân không biết, không tin hay không yêu thương đủ.
17/12/2018(Xem: 6290)
Một bài nói chuyện của Lama Yeshe tại Bloomington, Indiana, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Được ấn tống trong Mandala magazine, tháng 9, năm 2002.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567