Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

A. Chỉ Thẳng Pháp Môn Đệ Nhất Nghĩa Rộng Lớn Vi Diệu Lìa Nói Bặt Chứng

24/10/201016:02(Xem: 6408)
A. Chỉ Thẳng Pháp Môn Đệ Nhất Nghĩa Rộng Lớn Vi Diệu Lìa Nói Bặt Chứng

KINH LĂNG GIÀTÂM ẤN
Thiền Sư Hàm Thị Sớ Giải
Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt Dịch
Thiền Viện Thường Chiếu

II - PHẦN CHÁNH TÔNG.

A- Chỉ pháp môn đệ nhất nghĩa rộng lớnvi diệu lìa nói bặt chứng


-Hỏi một trăm lẻ tám câu.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ nói kệ tán Phật rồi, tự trình danh tánh, con tên là ĐạiHuệ thông đạt được đại thừa, nay đem một trăm lẻ tám câu thưa hỏi bậc Tôn tốithượng (Phật). Bồ-tát tự nói thông đạt đại thừa, vì muốn người đương thời và kẻhậu thế biết nghĩa hỏi ở đây đều là chỗ thiết yếu của nhất thừa, chẳng phảinghĩa sai biệt của các thừa.
Bậc Thế gian giải (Phật) nghe kệ kia rồi, quán sát tất cả chúng, bảo cácphật tử rằng: “Phật tử các ông! Nay cho mặc tình hỏi, ta sẽ vì các ông nói cảnhgiới tự giác”.
Cảnh giới tự giác là chỗ chứng của chư Phật trong mười phương và ba đời.Trong bốn quyển lặp đi lặp lại xét rõ trọn không ngoài ý này, nên trước vì nêubày ra.
Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Huệ nhân lời Phật đã nói, đảnh lễ dưới chân Phật,chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng:
Thế nào tịnh niệm kia?
Thế nào niệm tăngtrưởng?
Thế nào thấy si hoặc,
Thế nào hoặc tăngtrưởng?
Thế nào hóa tướng cõi
Và các chúng ngoại đạo?
Cớ sao không thọ thứ,
Vì sao gọi vô thọ?
Niệm là vọng giác. Si hoặc là bất giác. Chân như không tánh bất giác vọngđộng, kiến hoặc vừa sanh liền có vọng giác. Muốn sạch vọng giác thì phải tìmtột chỗ khởi vọng giác. Muốn ngộ bất giác thì cần xét cùng chỗ sanh bất giác.Chừng ấy mới biết chân như không tánh là mật chỉ của chư Phật, nên phải hỏitrước. Cõi tức là cõi nước. Hóa tướng là tất cả tướng biến hóa trong lục đạo.Trước nói ngoại đạo, sau đề ra Vô thọ, đó là muốn biện sự sai biệt của tàchánh. Vô thọ là Mâu-ni tịch tĩnh, chẳng thọ một pháp, lìa các tướng trạng. Thứlà thứ lớp các địa. Kinh Kim Cang nói “do pháp vô vi mà có sai biệt”.
Cớ sao gọi phật tử?
Giải thoát đến chỗ nào,
Ai phược ai giảithoát?
Những gì cảnh giớithiền?
Tại sao có bathừa?
Cúi mong vì giảinói.
Duyên khởi chỗ nàosanh?
Thế nào tác, sở tác?
Thế nào đồng dịthuyết?
Thế nào là tăng trưởng?
Thế nào vô sắcđịnh
Và cùng diệt chánh thọ
Thế nào là tưởngdiệt?
Vì sao từ định giác,
Thế nào tạo tácsanh,
Tiến đi và giữ thân?
Thế nào hiện phânbiệt?
Thế nào sanh các địa?
Câu “giải thoát đến chỗ nào” là muốn hiển bày Mâu-ni tịch tĩnh, không cóphược và thoát; nên nói tiếp “ai phược ai giải”. Nói không có giải có phược là,bởi mê ngộ vọng thấy mà thôi. Cảnh giới thiền là chỉ các thiền định của phàmthánh. Duyên khởi là pháp do nhân duyên sanh ra. Tác, sở tác là nghiệp quả năngtác và sở tác. Đồng dị thuyết là chỉ ngoại đạo tà thuyết. Tăng trưởng là nhângì tăng trưởng nhân quả trong tam giới? Vô sắc định là tứ không. Diệt chánh thọlà diệt tận định. Tưởng diệt là vô tưởng định. Từ định giác là hỏi Như Lai vìsao từ định mà giác (ra) khởi các tác dụng, thị hiện thân có đi có đứng. Hiệnphân biệt là, hiện nói các thứ pháp sai biệt. Sanh các địa là, kiến lập hànhtướng các địa.
Ai người phá ba cõi
Ở đâu, thân thế nào,
Vãng sanh đến chỗnào?
Thế nào Tối thắng tử?
Nhân gì được thầnthông
Và tự tại tam-muội?
Thế nào tâmtam-muội?
Tối thắng vì connói.
Phá ba cõi là, chỉ chung cho hàng Tam thừa ra khỏi tam giới. Đã ra khỏitam giới, trụ ở chỗ nào, thọ những thân gì, vãng sanh đến chỗ nào. Nói thánhnhân tam thừa đồng ra khỏi tam giới, song thân và cõi chẳng đồng, ứng và hóamỗi vị có khác. Tối thắng tử là chỉ chư Bồ-tát. Thần thông là sáu pháp thầnthông. Tam-muội dịch là chánh thọ (chánh định). Tâm tam-muội là tâm trụ trongchánh định, cùng với pháp chánh định đồng hay khác.
Thế nào gọi làtàng
Thế nào ý và thức?
Thế nào sanh cùngdiệt
Thế nào thấy rồi hoàn?
Thế nào là chủngtánh
Phi chủng và tâm lượng?
Thế nào kiến lậptướng
Và cùng nghĩa phi ngã,
Thế nào không chúngsanh
Thế nào thế tụcthuyết?
Tàng là tàng thức. Ý là thức thứ bảy. Thức là thức thứ sáu và năm thứctrước. Sanh diệt là các căn thức hiện ra sanh diệt. Thấy là thấy được cái sanhdiệt. Hoàn là trở lại cái không thấy. Đồng một tâm này mà có riêng biệt làtàng, ý và thức. Rồi có khác là thấy sanh diệt và thấy chẳng sanh diệt. Cái mêngộ hư vọng này thảy đều không thể có. Chủng tánh là tam thừa chủng tánh. Phichủng là không có chủng tánh, chỉ cho ngoại đạo và chúng xiển-đề. Tâm lượng làđồng một tâm mà mỗi cái có chừng lượng vậy. Kiến lập tướng là tướng ngã. Nghĩaphi ngã là tướng vô ngã. Chúng sanh là nói khác của tướng ngã. Tức là đối vớingã và pháp vốn không có chúng sanh, mà đối với thế tục nói có đó là sao?
Thế nào là đoạnkiến
Và thường kiến chẳngsanh?
Tại sao Phật, ngoạiđạo
Tướng đó chẳng tráinhau?
Thế nào đời saunày
Có các thứ bộ khác?
Thế nào không, tại sao?
Thế nào hoại sát-na?
Đoạn và thường đều là tà kiến của ngoại đạo. Kiến chẳng sanh là chẳngsanh hai kiến chấp này, tức là chánh pháp Như Lai. Phật cùng ngoại đạo tướngchẳng trái nhau là, gồm vào một tâm bình đẳng mà nói vậy. Bộ khác là, sau khiPhật diệt độ đệ tử kiết tập kinh bộ mỗi phần có khác. Nói một tâm bình đẳng,Phật cùng ngoại đạo không khác, mà đệ tử trong pháp của Phật trở lại thấy cókhác, là sao? Không là các pháp tánh không. Hiện thấy các pháp mà nói không đólà sao? Sát-na là niệm rất vi tế. Niệm niệm chẳng dừng, sát-na chẳng trụ, khôngphải chỗ biết của người vô trí.
Thế nào thai tàngsanh?
Thế nào thế bất động?
Nhân gì như huyễnmộng
Và thành càn-thát-bà
Thế gian thấy sóngnắng
Cùng bóng trăng đáynước?
Bởi đâu nói giácchi
Và cùng bồ-đề phần?
Thế nào quốc độloạn?
Thế nào khởi thấy có?
Thai tàng sanh là thân phần đoạn sanh tử của chúng sanh. Thế bất động làcõi nước hằng dời đổi mà chân tánh vẫn thường trụ. Huyễn, mộng, thànhcàn-thát-bà, sóng nắng, trăng đáy nước, thảy đều dụ cho chúng sanh cùng thếgiới không thật. Nhân gì như, ấy là chúng sanh sanh tử thế giới đổi dời, rõràng hiện tiền, mà nói như mộng huyễn… ai sẽ giác biết? Giác chi, bồ-đề đều chỉcho chánh trí, tức là giác ngộ thế gian mộng huyễn. Quốc độ loạn là quốc độ dờiđổi. Khởi thấy có là, quốc độ dời đổi mà chúng sanh vô trí vọng thấy thật có.Sao mà giác mê xa nhau lắm vậy?
Thế nào chẳng sanh diệt
Thế như hoa trong không?
Thế nào giác thếgian?
Thế nào nói lìa tự (văntự)?
Lìa vọng tưởng làai?
Thế nào ví hư không?
Có mấy thứ như thật?
Mấy tâm ba-la-mật?
Nhân đâu qua cácđịa?
Ai đến không chỗ thọ?
Chẳng sanh diệt, hoa trong không, đều chỉ thế gian mà nói. Thế gian vốnchẳng sanh diệt mà dối thấy sanh diệt. Vốn như hoa trong không mà dối thấy thậtcó. Thế là phải đợi đến khi giác ngộ mới thấy. Giác thế gian là giác thế giannày chẳng sanh diệt như hoa trong không. Đã giác thế gian liền rõ như huyễn,chẳng rơi vào có không, không phải nói năng có thể đến, nên nói lìa văn tự. Nóinăng đã lìa thì phân biệt liền dứt. Tất cả pháp ví như hư không, thấy cội gốcthật tướng được đến bờ kia. Trải khắp các địa đến nơi vô thọ. Đây có thể thứlớp chứng biết, mà vì muốn Thế Tôn hiển bày rành rẽ. Có mấy thứ như thật là,chứng được chân như hàng tam thừa có mấy hạng sai biệt. Mấy tâm ba-la-mật là,được qua sanh tử cũng phân có tam thừa.
Những gì hai vôngã?
Thế nào tịnh sở tri?
Các trí có mấythứ?
Mấy thứ giới chúng sanh?
Ai sanh các tánhbáu,
Chân châu ma-ni thảy?
Ai sanh các ngữngôn?
Chúng sanh các thứ tánh?
Trong hai thứ vô ngã, pháp vô ngã rất vi tế, nên lặp lại nói sở tri. Sởtri là sở tri chướng, thuộc về pháp chấp. Trí có căn bản trí, sai biệt trí.Giới có giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát. Ma-ni là tánh báu thuộc khí thế gian (thếgiới). Ngữ ngôn là chủng tánh thuộc về chúng sanh thế gian (chúng sanh). Tronglời hỏi, hoặc hỏi khí thế gian, hoặc hỏi chúng sanh thế gian, hoặc hỏi xuất thếgian, hoặc Phật, hoặc đệ tử Phật, hoặc ngu, hoặc ngoại đạo, trước sau khôngnhất định, một lúc lẫn lộn chẳng cần chia loại, chỉ tùy lời nói nhận được nghĩathôi. Cần biết thảy từ một chân pháp giới, vọng thấy có sai biệt, như huyễnkhông thể nghĩ bàn.
Minh xứ và kỹthuật.
Người nào đã hiển bày?
Già-đà có mấythứ,
Trường tụng và đoản cú?
Có mấy thứ lýluận,
Thế nào gọi là luận?
Tại sao sanh ăn uống?
Và sanh các ái dục?
Thế nào gọi làvua
Chuyển luân và tiểuvương?
Thế nào thủ hộquốc
Chưthiên có mấy thứ?
Thế nào gọi đạiđịa
Tinh tú và nhật nguyệt?
Người tu hành giảithoát
Mỗi bậc có mấy thứ?
Đệ tử có mấythứ?
Sao là A-xà-lê?
Phật lại có mấybậc,
Lại có mấy bản sanh?
Minh xứ là ngũ minh: 1) Thanh Minh, 2) Công xảo minh, 3) Y phương minh,4) Nhân minh là khảo đính tà chánh, 5) Nội minh nói rành rẽ về năm thừa. Baminh trước là ngoại luận. Hai minh sau thuộc nội luận (nội điển). Già-đà dịchlà kệ. Trường tụng đoản cú đều là kinh nói. Lý là lý nói ra. Luận là riêng giảithích nội điển và ngoại điển. Đây là hỏi nói pháp phải có bao nhiêu thứ. Ănuống, ái dục, vua, chư thiên, đại địa, tinh tú, nhật, nguyệt, tổng hỏi về danhtướng hai thứ thế gian chúng sanh và thế giới. Tu hành, đệ tử, Xà-lê, Phật, bảnsanh là danh tướng sai biệt của xuất thế gian. Tu hành là thông tam thừa. Đệ tửlà gồm Bồ-tát và Thanh văn. Xà-lê dịch là quỹ phạm (mẫu mực). Có năm thứ quỹphạm. Bản sanh là Như Lai nhiều đời tu hành cho đếân thành Phật, những việchiện sanh.
Ma và các ngoạiđạo
Kia mỗi loại mấy thứ?
Tự tánh và cùngtâm
Mỗi cái bao nhiêu thứ?
Thế nào thi thiếtlượng?
Cúi mong Tối thắng nói
Thế nào không, gió,mây?
Thế nào niệm thông minh?
Thế nào là rừngcây,
Thế nào là cỏ rậm?
Thế nào voi, ngựa,nai,
Thế nào là bắt lấy?
Thế nào là thấphèn,
Nhân gì mà thấp hèn,
Thế nào nhiếp lụctiết?
Thế nào nhất-xiển-đề?
Nam nữ và hoàngmôn
Đây đều nhân đâu sanh?
Tánh cùng tâm đều chỉ cho căn dục của chúng sanh. Thi thiết lượng là tâmtánh chừøng lượng giả vì thi thiết. Niệm thông minh là thế trí biện thông.Nhiếp lục tiết là ở Tây vức cho hai tháng làm một tiết, một năm phân làm sáutiết. Nhất-xiển dịch là tín. Đề dịch là bất cụ. Nghĩa là lòng tin chẳng đủ. Đâycũng là hỏi danh tướng sai biệt của chúng sanh và khí thế gian.
Thế nào tu hànhthối?
Thế nào tu hành sanh?
Thiền sư dùng phápgì,
Kiến lập những ngườinào?
Chúng sanh sanh cáccõi
Tướng gì và loại gì?
Tu hành có tiến có thối. Sanh tức là tiến. Pháp của thiền có đốn tiệmchẳng đồng. Bởi căn cơ người lớn nhỏ chẳng phải một. Đây là sự sai biệt củaxuất thế gian. Các cõi là sáu đạo và bốn sanh. Tướng loại là tướng loại của cáccõi. Chúng sanh thế gian huyễn vọng tự chia nhiều lối.
Thế nào là tàiphú,
Nhân gì được tài phú?
Thế nào là Thíchchủng,
Nhân gì có Thích chủng,
Thế nào dòng CamGiá?
Vô thượng tôn xin nói.
Thế nào trường khổtiên,
Kia dạy bảo nhữnggì?
Như Lai tại vìsao,
Hiện tất cả thời, cõi,
Các thứ loại danhsắc,
Tối thắng tử vây quanh?
Tại sao chẳng ănthịt,
Tại sao cấm ăn thịt,
Ăn thịt bao chủngloại,
Nhân gì nên ăn thịt?
Đây vẫn hỏi sự sai biệt của thế và xuất thế gian. Thích chủng, dòng CamGiá, bởi quá khứ rất xa, khi ấy có một Bồ-tát làm thái tử trong nước, nhườngngôi cho em đi tu, theo học với Cù-đàm Bà-la-môn liền đổi họ làm Cù-đàm. Sautrở về ngoài thành ở tinh xá tại vườn Cam Giá, bị nạn giặc bắt làm thương tổn,máu chảy đầy đất. Đại Cù-đàm dùng thiên nhãn xem thấy, dùng thần túc đến vườnCam Giá, lấy máu đựng trong hai cái bình để bên phải bên trái. Chúc rằng: Đạosĩ này nếu tâm chí thành sẽ khiến máu biến thành người. Mười tháng sau, hai cáibình đựng máu một biến thành người nam, một biến thành nữ, bèn thành dòng CamGiá. Về sau thứ phi vua Ý Ma sanh bốn con được chánh hậu khen ngợi. Vua đuổibốn con ra khỏi nước ở trên núi Tuyết trong rừng Trực thọ. Mẹ bốn vị ấy tìmđến, vì mỗi người lập gia đình cho đều được xong xuôi. Vua nghe tin này rất vuivẻ, nói rằng: Đây thật là Thích tử, khéo tự lập tự tồn, nhân đó gọi là Thích.Thích dịch là năng, nghĩa là có tài năng. Người con thứ tư tên TrangNghiêm tức là tổ tiên vua Bạch Tịnh. Tất cả thời cõi là tất cả thời, tất cảcõi, tùy loại khắp hiện.
Thế nào hình nhậtnguyệt,
Tu-di và Liên Hoa,
Cõi Sư tử thắng tướng,
Thế giới nghiêng, đứng,úp,
Như lưới trời ĐếThích,
Hoặc thảy đều trân bảo,
Như đàn, trống lưngeo,
Dáng tợ các loại hoa,
Hoặc lìa sáng nhậtnguyệt.
Như thế thảy vô lượng?
Tu-di là núi Diệu cao, trùm bốn thiên hạ làm một thế giới. Liên hoa làthế giới Liên hoa tạng. Sư tử là thế giới đẹp nhất trong các thế giới. Thế giớicó cái nghiêng, có cái úp, gồm các thế giới đẹp và xấu như lưới trời ĐếThích. Vì lưới trời Đế Thích có một ngàn hạt châu, mỗi hạt châu chiếu sáng xennhau, ý nói vô tận. Nhật nguyệt, cây đàn, trống lưng eo, hoa trái đều là diễntả hình tướng của thế giới. Trân bảo là có thế giới do trân bảo làm thành. Lìasáng nhật nguyệt là thế giới Vô Cấu Quang Minh, chẳng nhờ ánh sáng nhật,nguyệt.
Thế nào là hóaPhật?
Thế nào báo sanh Phật?
Thế nào như nhưPhật?
Thế nào trí tuệ Phật?
Tại sao ở Dục giới,
Chẳng thành ĐẳngChánh Giác?
Vì sao Sắc cứukính,
Lìa dục được bồ-đề?
Thiện thệ vàoNiết-bàn
Ai người giữ chánh pháp?
Thầy trời trụ baolâu?
Chánh pháp trụ chừngnào?
Tất-đàn cùng vớikiến
Mỗi loại bao nhiêu thứ?
Phần Tỳ-niTỳ-kheo
Thế nào nhân duyên gì?
Các Tối thắng tửkia
Duyên Giác và Thanh văn
Nhân gì trăm biếndịch?
Thế nào trăm vô thọ?
Hoá Phật là hóa thân trăm ngàn muôn ức, đây là tùy loại hóa hiện. Đại hóalà thân ngàn trượng Lô-xá-na vì hàng Bồ-tát thập địa mà hiện, cũng gọi là thabáo thân. Như như, trí tuệ đều chỉ cho pháp thân. Như như là bản giác, trí tuệlà thủy giác. Đây là tự báo,vì thủy giác bản giác hiệp một, lý và trí cả haiđều dung thông. Lô-xá-na trên cõi trời Sắc cứu kính được đạo bồ-đề, chớ không ởDục giới. Đó là vì thị hiện lìa dục được thanh tịnh. Ai người giữ chánh pháp lànhững căn dục nào mới kham truyền giữ chánh pháp. Chư Phật ở đời, chánh pháp ởđời mỗi phần đều có nhân duyên gần xa và tự tha. Tất là khắp. Đàn là thí. Kiếnlà chỉ căn cơ bị giáo hóa. Nghĩa là Như Lai đem giáo pháp khắp thí cho các căncơ chúng sanh kia, cộng lại có bốn thứ:
Thế giới tất-đàn là đượclợi ích hoan hỷ.
Đối trị tất-đàn là đượclợi ích diệt ác.
3- Vị nhân tất-đàn làđược lợi ích sanh các pháp lành.
4- Đệ nhất nghĩatất-đàn là được lợi ích ngộ lý.
Tỳ-ni dịch là luật, Tỳ-kheo là người trì luật. Nhân duyên là nhân duyênkiết giới. Trăm biến dịch, trăm vô thọ, đây là nói sự sai biệt của Bồ-tát,Duyên giác và Thanh văn. Biến dịch là biến dịch sanh tử, vì chưa đến quả vịPhật vẫn còn ở phương tiện đổi thân thô thành thân diệu. Vô thọ là Vô dưNiết-bàn, người hàng Tam thừa đều chứng.
Thế nào là thế tụcthông?
Thế nào xuất thế gian?
Thế nào là thấtđịa?
Cúi mong vì diễn nói.
Tăng già có mấyloại?
Thế nào là hoại tăng?
Thế nào luận yphương,
Ấy lại nhân duyêngì?
Bậc Bồ-tát Ngũ địa vào thế tục lợi sanh gọi là thế gian thông. Đến hàngThất địa nhân sanh đều hết mới gọi là xuất thế. Tăng có Đại thừa và Nhị thừa.Hoại tăng là phá luật phá kiến vậy. Phật dụ lương y, để nói Như Lai tùy duyênhóa hiện, hợp bệnh cho thuốc, như lương y thế gian.
Cớ gì đạiMâu-ni
Nói lên như thế này:
Ca-diếp,Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta?
Cớ sao nói đoạnthường
Và cùng ngã vô ngã?
Sao không tất cảthời
Diễn nói nghĩa chân thật
Mà lại vì chúngsanh
Phân biệt nói tâm lượng?
Nhân đâu rừng namnữ
Ha-lê, A-ma-lặc,
Kê-la và ThiếtVi,
Kim Cang thảy các núi
Vô lượng bảo trangnghiêm
Tiên Đạt-bà đầy dẫy?
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta, nghĩa là xưa nay tự tha không cótướng một hai, đó là lời nói chân thật. Mà lại nói thường nói đoạn, nói ngã nóivô ngã, rộng vì chúng sanh phân biệt nói tâm lượng, đều vì căn có đại tiểu,pháp có tà chánh. Đoạn, thường, ngã đều chỉ cho ngoại đạo. Vô ngã chỉ cho Nhịthừa. Rừng nam nữ tức là rừng Thi-đà, rừng này cây sanh trái dáng giống như namnữ. Ha-lê, A-ma-lặc là tên hai thứ trái cây. Đây tức là cây trái hiện tiền. Suyra đến các núi Kê-la, Thiết Vi, Kim Cang có vô lượng trang nghiêm, tất cả tiênthần đều đầy dẫy trong ấy. Tột trong chỗ thấy nghe và ngoài chỗ thấy nghe donhân gì mà có, trọn gọi là gì? Chỗ này không thể dùng tâm ý mà hiểu được. Mớibiết một trăm lẻ tám câu cùng tột thế gian và xuất thế. Song chẳng ngoài nămpháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã. Bỗng nhiên gõ thẳng cửa chân. Bấtchợt chỉ điểm tục đế dường như không thứ lớp, đều tự tâm hiện ra. Cảnh giới nhưhuyễn bất tư nghì không có cạn sâu thì đâu phân khó dễ, chỉ chứng mới biết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567