Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống với sơ tâm: Như thị

23/08/202407:17(Xem: 965)
Sống với sơ tâm: Như thị



phat thanh dao-10

Sống với sơ tâm: Như thị

Nguyên Giác

 

Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác. Ngắn gọn, tận cùng của người sống với “sơ tâm” là sống với “tâm không biết,” bởi vì, hễ “có biết” là có quá khứ, có mài giũa, có lộ trình nhân quả, không còn là tâm nguyên sơ, tâm bản nhiên. Cốt tủy Thiền Tông là sống với sơ tâm.

Thiền sư Shunryu Suzuki, trong tác phẩm “Zen Mind, Beginner’s Mind” (Tâm Thiền, Tâm của Người Mới Bắt Đầu) ấn bản 1970 đã viết rằng: “Trong tâm của người mới bắt đầu thì sẽ có nhiều khả thể, nhưng trong tâm của người chuyên gia thì lại ít.”

Nơi trang 22 của sách trên, Thiền sư Suzuki viết: “Trong tâm của người mới bắt đầu thì không có ý nghĩ, ‘Tôi đã đạt được điều gì đó.’ Mọi ý nghĩ quy về tự ngã đều giới hạn tâm trí rộng lớn của chúng ta. Khi chúng ta không có ý nghĩ gì về thành tựu, không có ý nghĩ về tự ngã, chúng ta là những người mới bắt đầu thực sự. Khi đó, chúng ta mới thực sự có thể học được điều gì đó.

Chỗ này đơn giản lắm: trong tâm của người mới bắt đầu, còn gọi là sơ tâm, hay tâm ban đầu, luôn luôn là cái tươi mới, luôn luôn là cái xa lìa vô lượng tâm quá khứ, và do vậy luôn luôn xa lìa vô lượng các tâm dự phóng có thể mơ mộng về tương lai, và do vậy sơ tâm cũng không phải là tâm hiện tại vì sơ tâm luôn luôn là tâm tự làm mới chính nó. Ngay nơi sơ tâm, chính là tâm xa lìa cả ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.

Đó là lý do, trong Thiền Tông nói rằng ngồi Thiền không thể thành Phật, cũng tương tự như mài gạch không thể làm thành gương soi mặt được.

Trong cái sơ tâm đó, vì luôn luôn là sơ tâm, cho nên không hề có bóng dáng chút nào về “cái tôi” và “cái của tôi” vì bất kỳ cái tôi nào cũng là sản phẩm của quá khứ, của vun bồi, của mài giũa. Trong cái sơ tâm đó, cũng không hề có cái gì gọi là “tôi đã học xong cái này” hay “tôi đã thành tựu công đức này, tôi đã chứng đắc được quả kia…” Bởi vì tâm của người sơ học lúc nào cũng trắng tinh như trang giấy chưa viết chữ.

Hay là, nói cách khác, đó là tâm của Vô Niệm, bởi vì bất kỳ tâm nào hay bất kỳ niệm nào của hồi nãy, của hôm qua, của hôm kia, của tuần trước, của năm trước, hễ còn quyến luyến trong tâm thì tâm đó không còn là “sơ tâm” nữa, và tâm đó, lúc đó là một tâm đã cũ, mất hẳn cái tươi mới khi thấy, khi nghe trong cái dòng sống liên tục chảy xuyên suốt thân tâm mình. Cho nên, còn gọi là tâm Vô Niệm. Không có nghĩa là, không có niệm, nhưng chỉ có nghĩa là các niệm không còn chỗ trụ nào trong tâm mình nữa.

Trong nhóm Kinh Tập của Tạng Pali, nơi Kinh Sn 4.5 (còn có ký số cách khác, là Snp 4.5), tức là Kinh - Paramaṭṭhaka Sutta (còn tên là: Kinh Về Tối Thượng), có hai bài kệ, do Nguyên Giác dịch như sau, nói về tâm của một người không giữ bất kỳ một kiến nào trong tâm (mà chúng ta còn gọi là sơ tâm, tâm bản nhiên, tâm nguyên sơ, tâm hài nhi), trích lời Đức Phật dạy:

“802. Trong những cái được thấy, được nghe, được nhận biết, chớ để một niệm vi tế nào khởi lên trong tâm. Với người không nắm giữ một kiến nào như thế, làm sao có ai trong thế giới này xếp loại được vị đó.

803. Vị đó không dựng lập, không thiên về, không nắm giữ giáo thuyết nào, không bị dẫn dắt bởi giới luật nào hay nghi lễ tôn giáo nào. Sống với Như Thị, vị đó qua bờ, không lùi lại.(1)

 

 

Trong sách Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông, nơi phần Niêm Tụng Kệ, chúng ta sẽ thấy rằng trong hai công án đầu tiên, là chỉ về sơ tâm, là tâm chưa hiển lộ, là tâm chưa ra thai mẹ nhưng đã độ người, là đứa bé không hình dạng chưa từng rời quê nhưng lại có khả năng đưa người qua bến mê mà không cần thuyền gỗ hay phao bè. Nơi công án thứ nhì, sơ tâm này là chỉ cho Thế Tôn khi mới ra đời, đã đưa một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói “Trên trời, dưới đất, chỉ mình ta là tôn quí.” Chính cái “ta” đó là cái sơ tâm, là cái vô ngã, là cái không hình dạng, là cái tâm nguyên sơ luôn tươi mới, luôn luôn có công năng đưa người qua bờ giải thoát. Nơi đây, xin trích bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ

1.- Cử: Thế Tôn chưa rời Đâu-suất đã giáng vương cung, chưa ra thai mẹ độ người đã xong.

Niêm: Gươm báu chưa vung, tướng quân đã lộ.

Tụng: Đứa bé không hình chửa rời quê,

Sớm tối đưa người qua bến mê.

Cất bước ngao du không xen cách,

Chẳng cần thuyền gỗ với phao bè.

2.- Cử: Thế Tôn mới sanh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất nói: Trên trời dưới đất chỉ ta tôn quí.

Niêm: Một áng mây trắng che cửa động,

Đàn chim về tổ thảy quên đường.

Tụng: Đạt-đa mới giáng Tịnh Vương cung,

Muốn hóa quần sanh tự hiển tung.

Bảy bước đi quanh chỉ trời đất,

Bao người con Phật mất gia phong.” (2)

Ngài Bồ Đề Đạt Ma có chữ để gọi “cái sơ tâm không hình, không tướng mạo” này là “tánh” và nói rằng hễ thấy Tánh là thành Phật.

Bài kệ của ngài là:

Bất lập văn tự;

Giáo ngoại biệt truyền;

Trực chỉ nhơn tâm;

Kiến tánh thành Phật.

Dịch: Không dựa vào chữ nghĩa, văn tự, lời nói; Pháp này nằm ngoài Kinh điển, chỉ truyền riêng [cho người thích hợp thôi]. Chỉ thẳng vào tâm người, hễ thấy Tánh là thành Phật.

Nói không dựa vào văn tự, chữ nghĩa, vì chỉ vào sơ tâm, chỉ vào tâm vô niệm, tâm bản nhiên, nên không có lời nói hay chữ nghĩa (sản phẩm của quá khứ) nào có thể nói được. Pháp này nằm ngoài Kinh điển, nhưng thực tế vẫn có trong một số Kinh trong Tạng Pali. Thấy Tánh, tức là thấy cái sơ tâm, hay là cái tâm chưa sinh này.

Khi đọc Kinh Ud 1.10 (Bahiya Sutta) trong Tiểu Bộ, Tạng Pali, chúng ta sẽ thấy Đức Phật chỉ cho ngài Bahiya cách tiếp cận sơ tâm, và ngài Bahiya trở thành A La Hán trong thời gian rất ngắn sau đó, kể như là chớp nhoáng, hốt nhiên giải thoát. Nghĩa là, sơ tâm, hay tâm chưa sinh, không phải tâm ở đây hay ở kia, không phải tâm có nắm giữ nào, và là không tâm, và đó là giải thoát.

Kinh ghi lời Đức Phật dạy ngài Bahiya, nơi đây, chúng ta dịch lại, như sau:

"Khi nào, này Bahiya, đối với ngươi, trong cái thấy chỉ là cái được thấy; trong cái nghe chỉ là cái được nghe; trong cái cảm thọ chỉ là cái được cảm thọ; trong cái nhận biết chỉ là cái được nhận biết, thì, này Bahiya, ngươi sẽ không 'ở với cái đó'. Khi nào, này Bahiya, ngươi không 'ở với cái đó', thì, này Bahiya, ngươi sẽ không 'ở trong cái đó'. Khi nào, này Bahiya, ngươi không 'ở trong cái đó', thì, này Bahiya, ngươi sẽ không ở đây, cũng không ở phía bên kia, cũng không ở chặng giữa hai nơi đó. Chỉ như vậy là chấm dứt khổ đau." (3)

Cuối bài Kinh Bahiya, Đức Phật đọc bài kệ sau khi chứng nhận rằng Bahiya đã trở thành một vị A La Hán. Nơi giải thoát đó, chính là nơi là xa lìa đất nước gió lửa, không mặt trời, không mặt trăng, nơi chỉ có ánh sáng trí tuệ. Nơi đây, chúng ta dịch bài kệ như sau.

Nơi mà không có nước, không có đất, không có lửa hay không khí, nơi đó không có sao sáng, không có mặt trời chiếu sáng, không có mặt trăng chiếu sáng, nhưng nơi đó không có bóng tối ngự trị.

Khi một vị thánh, một Bà la môn, đã tự mình biết điều này thông qua trí tuệ của chính mình, thì người đó được giải thoát khỏi cõi sắc và cõi vô sắc, giải thoát khỏi cả niềm vui và đau khổ.” (3)

Khi cái thấy chỉ là cái được thấy, và cái nghe chỉ là cái được nghe. Nơi đó, thực sự là không cón tứ đại (đất, nước, gió, lửa) vì nơi đó đã xa lìa (tự thân đã xa lìa) các cõi sắc và vô sắc. Khi tâm thường trực là sơ tâm như thế, chỉ còn là một cái biết lặng lẽ, không gì vương vào. Kinh Viên Giác gọi đó là “tri huyễn tức ly.”

Đó là cái tâm thấy huyễn. Tại sao tâm thấy huyễn chính là sơ tâm, vì trong sơ tâm luôn luôn là tâm “tự làm cho không biết,” cũng tức là tâm luôn luôn nhìn thấy các pháp hiển lộ trong huyễn tướng, do vậy, tâm thấy huyễn này không hề trụ vào đâu, không hề dính tới bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào. Cũng tương tự, người nghe tiếng đàn, thường trực nhận ra tiếng đàn là huyễn, luôn luôn hiển lộ trong huyễn tướng, thì ngay khoảnh khắc biết chính là khoảnh khắc xa lìa tham sân si.

Kinh Viên Giác, bản dịch Thầy Thanh Từ, nơi Chương Phổ Hiền, trích: “- Này Thiện nam, biết pháp huyễn hóa tức lìa, chẳng khởi phương tiện, lìa pháp huyễn hóa liền giác, cũng không có thứ lớp. Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau y đây tu hành. Như thế mới hằng lìa các huyễn.” (4)

Ngay khi biết, là giải thoát, không cần mài giũa, vì hễ mài giũa lại rơi vào quá khứ của cái đã biết. Và khoảnh khắc đó, còn gọi là “tâm không biết” vì không có gì để níu giữ trong cái biết liên tục tươi mới này. Hãy thường trực như thế, còn gọi là sống với Như Thị, vì không có gì để nắm giữ hay xô đẩy. Đó chính là sống với sơ tâm.


GHI CHÚ:

(1) Kinh Sn 4.5, bản Việt: https://thuvienhoasen.org/a30598/sn-4-5-parama-haka-sutta-kinh-ve-toi-thuong

Bản Anh của ngài Sujato: https://suttacentral.net/snp4.5/en/sujato

(2) Khóa Hư Lục: https://thuvienhoasen.org/p27a6711/19-niem-tung-ke

(3) Kinh Bahiya, bản Anandajoti: https://suttacentral.net/ud1.10/en/anandajoti

Bản Sujato: https://suttacentral.net/ud1.10/en/sujato

(4) Kinh Viên Giác, bản dịch Thầy Thanh Từ: http://thuongchieu.net/index.php/chuyende/kinhvg/3490-botatphohien

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2019(Xem: 4895)
Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.
13/05/2019(Xem: 5354)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ. Trong Kinh nói Đức Phật lúc nào cũng ở trong đại định, như vậy thì lúc đi bộ Đức Phật cũng thiền. Cho nên, ngày nay khi chúng ta nói đến thiền đi bộ thì không là vấn đề mới mẻ gì cả. Nhưng đôi khi chúng ta lại ít để tâm thực tập đúng theo phương thức để mang lại sự an tịnh cho thân tâm trong cuộc sống hàng ngày. Hai tác giả Arinna Weisman và Jean Smith sẽ làm sáng tỏ cách thực tập thiền đi bộ rất phổ thông này, qua sự hướng dẫn chi tiết dưới đây. Việc đi bộ có thể là cơ hội kỳ diệu khác để thực hành chánh niệm. Từng giây phút có thể tăng cường sự tỉnh thức và đôi khi là đối tượng dễ tiếp cận thiền hơn hít thở.
14/04/2019(Xem: 4695)
Nguyên lý của cuộc sống luôn luôn là bến bờ của hạnh phúc mà trong đó mọi sinh vật đều hướng đến bình yên theo từng nhịp thở. Nếu bạn không thở đúng nhịp đập của nội tại, thì bạn đánh mất chính mình và giá trị tồn tại của thực hữu. Thực hữu, dôi lúc, người ta hiểu mơ hồ về nó.
09/04/2019(Xem: 4917)
Huệ Khả Cầu Pháp: Đọc Từ Tạng Pali Nguyên Giác Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao? Bản thân người viết trước giờ chỉ quen dựa cột để nghe pháp, nơi đây không dám có ý kiến riêng, chỉ muốn tìm một số Kinh liên hệ để ghi chú. Câu chuyện này được ngài Trần Thái Tông (1218-1277) đưa vào nhóm 43 công án trong Niêm Tụng Kệ, một trong các sách giáo khoa của Thiền phái Trúc Lâm để khảo sát, nghiên cứu. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, người có công hồi phục Thiền phái Trúc Lâm, đã dịch toàn bộ các tác phẩm của Trần Thái Tông, trong đó câu chuyện ngài Huệ Khả tức khắc đốn ngộ, viết như sau: “8.- Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi. Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy, Ông già tám chục mặc áo cầu. Tụng: Tâm đã không tâm nói với ai, Người câm thức mộng mắt tròn xoe. Lão
06/01/2019(Xem: 7787)
Chúng ta thường nghe các nhà khoa học đề cập đến những hành động ý thức và vô ý thức khi họ nói về não bộ của con người. Do đó chúng ta biết được hoạt động của con người không phải lúc nào cũng hợp lý như chúng ta tưởng.
27/11/2018(Xem: 4378)
"Chân Lý" nghĩa là sự thật, cũng gọi là "Đế" như trong "Tứ Diệu Đế" của Đạo Phật. Có hai loại chân lý: Tương đối và Tuyệt đối:
24/10/2018(Xem: 4085)
Đông và Tây có lẽ gặp nhau nhiều nhất trong việc chọn lựa tên cho con cái, nhất là đứa trẻ được chào đời ấy sẽ là trai hay gái, nếu là trai thì chọn những đức tính tốt hoặc lương thiện: Dũng, Đức, Nhân, Hùng, Ái , Nghĩa, Toàn ...riêng với bé gái tượng trưng cho sự mảnh mai, yếu ớt thì lại chọn tên các loài hoa như: Lan, Huệ, Mai, Cúc, Hồng v.v...và vì thế tôi cũng được nằm trong số những bé gái mang tên một loài hoa ...
18/10/2018(Xem: 5891)
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái tôn giáo mang đặc trưng riêng có của con người Việt Nam. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của người dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều đại Nhà Trần, Trần Nhân Tông
05/10/2018(Xem: 5346)
Trong Kinh Kim Cang, có một đoạn vấn hỏi và đối đáp giữa Đức Phật và Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt trần không? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt trần.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Trời không? ? Bạch Đức Thế Tôn, thật vậy, Như Lai có mắt Trời.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt huệ không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt huệ.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt pháp không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt pháp.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Phật không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt Phật.”
01/10/2018(Xem: 5824)
Ngày nay chủ đề Thiền không còn xa lạ đối với những ai muốn tìm hiểu và muốn định nghĩa một cách minh bạch, nhưng mấy ai hiểu và cảm nhận một cách chính xác và minh bạch về những hoạt dụng của Thiền.Tùy mỗi trường phái, mỗi góc độ để nhìn và hiểu về Thiền khác nhau, từ đó, việc hành hoạt cũng khác biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]