Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vấn Đề Hai Chân Lý Trong Đạo Phật

12/10/201009:45(Xem: 8855)
Vấn Đề Hai Chân Lý Trong Đạo Phật
Vấn Đề Hai Chân Lý Trong Đạo Phật
Thích Minh Trí dịch

Buddha_113Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).

Thực sự, có hai loại Chân lý trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) không? Hai Chân lý này khác nhau về đẳng cấp không? Dù thế nào đi chăng nữa thì Chân lý Tuyệt đối vẫn cao siêu hơn so với Chân lý có tính Quy ước? Vài Phật tử mắc phải sai lầm là Chân lý Tuyệt đối cao siêu hơn so với Chân lý có tính Quy ước, và vài Phật tử đi đến chỗ huyền đàm rằng, Niết-bàn là Chân lý Tuyệt đối.

Trên cơ sở của tiền đề này, họ đã đi đến một sự giải thích mới về Niết-bàn mà có thể là sai lạc.

Sự thật, chỉ có một Chân lý trong đạo Phật, nhưng có hai cách trình bày về nó. Dưới đây là sự giải thích ngắn ngọn.

Đức Phật cũng như các luận sư A-tỳ-đạt-ma, - những người đã dựa vào biện luận của họ về sự thuyết pháp của đức Phật, - đã tuyên bố dứt khoát rằng, Chân lý Tuyệt đối không cao siêu hơn so với Chân lý có tính Quy ước, và không có sự sai biệt về đẳng cấp giữa hai Chân lý. Quan trọng hơn nữa là, Chân lý nào trong hai Chân lý này cũng có thể được sử dụng để đạt đến nội quán và để bước đi trên con đường Giác ngộ. Tùy theo khả năng lĩnh hội của thính chúng, mà đức Phật đã sử dụng cả hai Chân lý này trong sự thuyết pháp của Ngài

Như vậy, lý do để đồng nhất hai Chân lý này là gì? Trong sự thuyết giáo của Phật giáo nguyên thủy, tất cả hiện tượng hiện hữu của con người, - gồm cả vật lý và tâm lý, - được phân tích thành 5 phương pháp.

· 1/ Phân tích thành 2 yếu tố: 1/ Tâm (nama) và 2/ sắc hay vật chất (rupa).

· 2/ Phân tích thành 5 thủ uẩn: 1/ Sắc hay vật chất (rupa), 2/ thọ (vedana), 3/ tưởng (sanna), 4/ hành (sankara) và 5/ thức (vinnana).

· 3/ Phân tích thành 6 yếu tố (hay lục đại): 1/ đất, 2/ nước, 3/ hơi nóng, 4/ không khí, 5/ không gian, và 6/ thức.

· 4/ Phân tích thành 12 xứ (gồm 6 giác quan và 6 đối tượng của giác quan): 1/ mắt, và 2/ sắc hay vật chất (đối tượng của mắt), 3/ tai, và 4/ âm thanh (đối tượng của tai), 5/ mũi, và 6/ mùi (đối tượng của mũi), 7/ lưỡi, và 8/ vị (đối tượng của lưỡi), 9/ thân, và 10/ xúc chạm (đối tượng của thân), 11/ ý hay tầm, và 12/ tâm pháp (đối tượng của ý).

· 5/ Phân tích thành 18 giới: 12 xứ + 6 thức (sự nhận thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý).

Những dẫn chứng nêu trên được xem như là các yếu tố của tất cả hiện tượng hiện hữu của con người. Khi một hiện tượng riêng biệt được giải thích dưới dạng những yếu tố này thì sự giải thích đó được gọi là Chân lý Tuyệt đối. Khi hiện tượng tương tự được giải thích dưới dạng quy ước chung thì sự giải thích này được gọi là Chân lý có tính Quy ước.

Các luận sư A-tỳ-đạt-ma sau này đã công nhận sự cần thiết phân tích xa hơn nữa các yếu tố trên đây, và họ đã đi đến các nhân tố cuối cùng không thể chẻ nhỏ hơn được nữa, được gọi là các Pháp (Dhammas), - một danh mục xuất hiện bàng bạc trong Luận tạng A-tỳ-đàm.

Người ta nói rằng, những Pháp này tham gia vào tiến trình đồng nguyên tương thuộc (dependent co-origination). Mặc dù, các Pháp ấy được công nhận như là những yếu tố tối hậu dành cho mục đích liễu tri, nhưng chúng không tồn tại độc lập riêng lẻ, mà mỗi Pháp xuất hiện cùng với một vài Pháp khác. Sự xuất hiện của chúng tùy thuộc vào các điều kiện/duyên, và một khi đã sinh ra, các Pháp này cũng có thể hoạt động như là những điều kiện/duyên cho sự xuất hiện của các Pháp khác.

Tất cả mọi kinh nghiệm tâm linh và mọi hiện tượng vật lý đều xuất hiện theo cách thức này. Sự giải thích một hiện tượng, - tâm hay vật, - dưới dạng những Pháp này, được gọi là Chân lý Tuyệt đối. Khi một hiện tượng tương tự được giải thích dưới dạng quy ước chung, được gọi là Chân lý có tính Quy ước. Ví dụ, một chúng sinh được giải thích dưới dạng 5 thủ uẩn (skandhas), thì sự giải thích này được xem như là Chân lý Tuyệt đối. Mặc khác, nếu một chúng sinh được giải thích như là một con người ngang qua đời sống và đau khổ, và cuối cùng chết trong tiến trình của vòng luân hồi vô tận, thì sự giải thích này sẽ là Chân lý có tính Quy ước.

Tuy nhiên, những thích nghĩa trên không có nghĩa là có hai loại Chân lý trong Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), mà đúng hơn là có hai cách trình bày Chân lý.

Trong hai cách trình bày Chân lý trên đây, hoặc cách này có thể được sử dụng sớm hơn cách kia, và ngược lại; nhưng cả hai cách trình bày ấy đều đi đến con đường Giác ngộ. Như vậy, chỉ có một Chân lý duy nhất trong Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).

Thích Minh Trídịch
Giáo sư N. A. de S. Amaratunga (Theo buddhistchannel.tv)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2014(Xem: 8248)
Pháp là Pháp môn, Chánh pháp của Phật. Bảo nói sơ lược có sáu nghĩa: Hiếm có, Thanh tịnh, Quý giá, Đẹp đẽ rực rỡ, Rất tốt, Thường chẳng đổi. Đàn trong chữ Tất Đàn nghĩa là bố thí rộng khắp. Pháp Bảo Đàn Kinh là đem kinh pháp hiếm có, quý báu, thanh tịnh, thường hằng chẳng biến đổi mà bố thí rộng khắp thế gian, giống như cơn mưa đúng lúc đúng thời thấm nhuần lợi ích khắp muôn loài, không đâu chẳng được mưa pháp rưới mát.
10/02/2014(Xem: 11939)
Cảnh sát thường phục bao phủ chung quanh khách sạn sang trọng ở Delhi, điện thoại di động kêu răng rắc trong tay. Sau việc kiểm soát an ninh thường lệ, chúng tôi được dẫn vào trong một phòng ngoài và được lịch sự yêu cầu chờ đợi
08/02/2014(Xem: 9904)
Một số bài gần đây, tôi đã trình bày sự hiệu dụng của Thiền trong việc chuyển hóa xã hội, chuyển hóa trường học, sắc đẹp và bệnh viện. Nay chúng ta thử tìm hiểu ích lợi của Thiền trong quân ngũ. Phải chăng Thiền có thể giúp ích cho những người lính trước lúc ra trận và sau những ngày hậu chiến?
21/01/2014(Xem: 8254)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật. Để giúp cho những người muốn tìm hiểu Thiền tông so với kinh điển có gì khác biệt nên cần đem so sánh pháp tu của Thiền tông với các lời Phật dạy ghi trong kinh điển, để thấy rõ các tổ đã y cứ vào kinh điển để thấu nghĩa lời Phật dạy mà thấy rõ con đường tu hành để đạt được mục đích tối cao của đạo Phật là đến chỗ giác ngộ.
12/01/2014(Xem: 18734)
Ngày nay từ Á sang Âu, từ Đông sang Tây, từ châu Mỹ La tinh đến Phi châu…, có vô số trường đã và đang dạy thiền cho học sinh từ các lớp Mầm non. Nhiều thí nghiệm của các chuyên gia, của các trường và kết quả như thế nào về việc đem thiền vào trường học, mời quý độc giả tìm hiểu qua bài viết nầy.
20/12/2013(Xem: 37071)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
18/12/2013(Xem: 13917)
Dân giàu nước mạnh xã hội văn minh phú cường khó có được, nếu người dân có nhiều bệnh tật, ngân sách chi tiêu y tế quá cao, đội ngũ sản xuất ốm yếu, học sinh sinh viên gầy, trí thông minh chưa đạt, đạo đức xã hội xuống cấp. Mà thiền, theo sự nghiên cứu của các khoa học gia và y giới quốc tế trong đó có người Việt chúng ta đều xác nhận, thiền có khả năng giúp cải tiến phần lớn các bất cập nêu trên. Đó là trọng tâm của bài viết gần đây “Thiền và canh tân đất nước”.
18/12/2013(Xem: 22007)
Nhân loại càng văn minh, thì con người càng bị cuốn hút vào các guồng máy do chính mình tạo ra. Từ đó, những khủng hoảng nầy chồng chất lên những khủng hoảng khác, tạo đủ thứ bệnh, và nhiều trường hợp, số phận, đành giao cho tử thần quyết định.
17/12/2013(Xem: 14935)
Hãy nhớ rằng không phải chúng ta đang cố gắng Ðể Trở Thành một ông thánh hay một cao nhân nào cả. Chúng ta cũng không nổ lực Ðể Tống Khứ một ác pháp nào hết. Hãy sống hồn nhiên và thoải mái. Cảnh giới nội tâm của chúng ta Là Như Vậy. Nó có thể là bất tịnh hay trong sáng và đó là một cặp hành trạng đối đãi nhau của ý thức. Thấy rõ Chúng như là Chúng, thấy rõ Chúng luôn vô thường, vô ngã thì đó chính là trí tuệ vậy. Trong khi đó, bằng một ý thức ngã chấp, chúng ta cố gắng mong mỏi "Tôi sẽ phát triển những gì thanh tịnh, tống khứ những gì không thanh tịnh " thì lập tức cái không thanh tịnh sẽ xuất hiện và kềm hãm chúng ta. Chúng ta lại vấp vào khối đá thất vọng trên đường đi của mình, thế là tiếp tục đau khổ. Hãy cẩn trọng với hai tháng cấm túc này. Vô minh luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta tự chuốc lấy những khổ lụy.
11/12/2013(Xem: 8372)
Bà cụ già đau yếu than thở với bà bạn thân nhất của mình, “Tôi ghét cái tuổi già. Tôi ghét vì phải ở đây trong cái nhà dưỡng lão này.” Bà bạn lên tiếng, “Chúng mình phải lạc quan.” “Lạc quan về cái quái gì chứ? Trời đất ạ!” “Vậy thì, bà đang đau nhức hay sao?”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]