Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm hơi thở vào, hơi thở ra

21/09/201020:00(Xem: 7180)
Niệm hơi thở vào, hơi thở ra

ducphatthichca
NIỆM HƠI THỞ VÀO - HƠI THỞ RA
Tỳ kheo Indacanda 2010


Li Dn Nhp:

Đây là bản dịch mới của bài KinhĀnāpānasatisuttamthuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theovăn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với cácbản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú. Hyvọng sẽ đóng góp được phần nào lợi ích về tri kiến cho người đọc cũng như sự tutập của các hành giả. Văn bản song ngữ Pali - Việt được ghi lại ở dạng Pdf vàcó thể hạ tải ở đường dẫn sau: http://www.paliviet.info/VHoc/VHoc_PhDich.htm

Colombo,ngày 19 tháng 09 năm 2010

Tỳkhưu Indacanda.

*****

KINH GIẢNG VỀ

NIỆM HƠI THỞ VÀO HƠI THỞ RA

(Phần Giới Thiệu)[1]

Tôi đã được nghe như vầy: Một thờiđức Thế Tôn ngụ tại Sāvatthi, ở khu vườn phía Đông, nơi lâu đài của Migāramātu,cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởng lão rất được biết tiếng như là đại đứcSāriputta, đại đức Mahāmoggallāna, đại đức Mahākassapa, đại đức Mahākaccāyana,đại đức Mahākotthita, đại đức Mahākappina, đại đức Mahācunda, đại đứcAnuruddha, đại đức Revata, đại đức Ānanda, cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởnglão rất được biết tiếng khác nữa.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưutrưởng lão giáo huấn, chỉ dạy các vị tân tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạyhai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu.Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khiđược giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưuấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha,là ngày rằm, ngày lễ Pavāranā, vào đêm trăng tròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoàitrời, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sát hộichúng tỳ khưu đang im lặng, đã bảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, Ta đượchài lòng với lối thực hành này. Này các tỳ khưu, Ta có tâm hài lòng đối với lốithực hành này. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, các ngươi hãy ra sức tinh tấnhơn nữa nhằm đạt được pháp chưa đạt được, nhằm chứng đắc pháp chưa được chứngđắc, nhằm chứng ngộ pháp chưa được chứng ngộ. Ta sẽ chờ đợi ở chính nơi đây,tại Sāvatthi, cho đến ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).”

Các tỳ khưu trong xứ sở đã ngherằng: “Nghe nói đức Thế Tôn sẽ chờ đợi ở chính nơi đó, tại Sāvatthi, cho đếnngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).” Và các tỳ khưu trong xứ sởấy quy tụ về Sāvatthi để chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Và các vị tỳ khưu trưởng lãocòn giáo huấn, chỉ dạy các tân tỳ khưu nhiều hơn nữa. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạyhai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu.Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khiđược giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưuấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha,là ngày rằm, ngày lễ Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa), vào đêm trăngtròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khiấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sát hội chúng tỳ khưu đang hoàn toàn im lặng, đãbảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, tập thể này không có việc nói chuyệnnhảm. Này các tỳ khưu, tập thể này không còn việc nói chuyện nhảm, được thanhtịnh, đã vững vàng ở cốt lõi. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là nhưthế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này đáng đượctiến cúng, đáng được hiến dâng, đáng được cúng dường, đáng được lễ bái, là nơiđể gieo trồng phước báu của thế gian không gì hơn được. Này các tỳ khưu, hộichúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Ở tậpthể như thế này, vật được bố thí ít trở thành nhiều, được bố thí nhiều thì trởthành nhiều hơn nữa. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này cáctỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này là khó gặp ở thế gian. Nàycác tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này lànhư thế. Tập thể như thế này là xứng đáng đi nhiều do-tuần để yết kiến dầu vớivật thực đi đường ở vai.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưunày, có mặt những tỳ khưu là bậc A-la-hán, có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã đượchoàn mãn, có các việc cần làm đã làm, có các gánh nặng đã được đặt xuống, cómục đích của bản thân đã được đạt đến, có các sự trói buộc ở hữu đã được tiêudiệt, có trí hiểu biết chân chánh, đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, nhữngtỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳkhưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận năm hạ phần kiết sử, là hạng hóasanh, có sự viên tịch Niết Bàn tại nơi ấy, từ thế giới ấy không có việc quaytrở lui. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tậnba loại kiết sử, có sự giảm thiểu của luyến ái-sân hận-si mê, là bậc Nhất Lai,sẽ đi đến thế gian này chỉ một lần rồi sẽ chấm dứt khổ đau. Này các tỳ khưu, nhữngtỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳkhưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận ba loại kiết sử, là bậc Nhập Lưu,có pháp không bị thối đọa, có sự tiến đến giác ngộ đã được chắc chắn. Này cáctỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưunày, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốn sựthiết lập niệm. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳkhưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sốnggắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốn chánh tinh tấn. Này các tỳ khưu,những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, những tỳkhưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳkhưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốnnền tảng của thần thông. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hộichúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳkhưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về năm quyền. Này các tỳ khưu,những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hộichúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tutập về năm lực. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳkhưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sốnggắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bảy chi phần đưa đến giác ngộ. Này cáctỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu,ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện vàtu tập về Thánh Đạo tám chi phần. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặtở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưunày, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về từ. Nàycác tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳkhưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rènluyện và tu tập về bi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hộichúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳkhưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về hỷ. Này các tỳ khưu, những tỳkhưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳkhưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về xả.Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này cáctỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rènluyện và tu tập về tử thi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hộichúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳkhưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về tưởng vô thường. Này các tỳkhưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưunày, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về niệm hơithở vào hơi thở ra.[2] Này cáctỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập, được thực hành thường xuyênlà có quả báu lớn, có lợi ích lớn. Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở rađược tu tập, được thực hành thường xuyên khiến cho bốn sự thiết lập niệm[3] được hoànbị. Bốn sự thiết lập niệm được tu tập, được thực hành thường xuyên khiến chobảy chi phần đưa đến giác ngộ[4] được hoànbị. Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được tu tập, được thực hành thường xuyênkhiến cho minh và giải thoát được hoàn bị.

(Tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra)

Và này các tỳ khưu, niệm hơi thở vàohơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào làcó quả báu lớn, có lợi ích lớn? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khurừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thếkiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm vị ấy thởra, có niệm vị ấy thở vào.

Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết:[5] ‘Tôi thở ra dài.’[6]
Hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
Hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn.’
Hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn.’
Vị ấy tập luyện:[7] ‘Có cảm giác toàn thân,[8] tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào;’[9]
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào.’[10]
Vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở vào.’
Vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát[11] về vô thường, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở vào.’

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vàohơi thở ra được tu tập như vầy, được thực hành thường xuyên như vầy là có quảbáu lớn, có lợi ích lớn.

(Bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vàohơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nàokhiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO[12] vị tỳkhưu trong khi thở ra dài nhận biết: ‘Tôi thở ra dài;’ hoặc trong khi thở vàodài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài;’ hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhậnbiết: ‘Tôi thở ra ngắn;’ hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thởvào ngắn;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tậpluyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làman tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm antịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳkhưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõrệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.[13] Này cáctỳ khưu, ta nói như vậy về một thân khác nữa trong số các thân, tức là sự thởra sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống cósự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm,thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳkhưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấytập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc,tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tậpluyện: ‘Có cảm giác sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Cócảm giác sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làman tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm antịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳkhưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõrệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu,ta nói như vậy về một thọ khác nữa trong số các thọ, tức là sự chú tâm tốt đẹpđối với sự thở ra sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳkhưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõrệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳkhưu tập luyện: ‘Có cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giáctâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽthở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’ vịấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tậpluyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện:‘Trong khi làm cho tâm được giải thoát, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trongkhi làm cho tâm được giải thoát, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤYvị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõrệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu,đối với kẻ có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ rệt, ta không nói vềsự tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra.[14] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sốngcó sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm,thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳkhưu tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện:‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sátvề lìa ái dục, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về lìa ái dục,tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở ra;’vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập. ‘Cósự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từbỏ, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sátpháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thểchế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Vị ấy sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ tham vàưu phiền bằng tuệ là người có trạng thái xả tốt đẹp.[15] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sốngcó sự quan sát pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, cóniệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, niệm hơithở vào hơi thở ra được tu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thếkhiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị.

(Bảy chi phần đưa đến giác ngộ đượchoàn bị)

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lậpniệm được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào khiến chobảy chi phần đưa đến giác ngộ được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳkhưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõrệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian, VÀO LÚC ẤY niệmcủa vị ấy được thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệmcủa vị tỳ khưu được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤY niệm giác chiđược khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi.VÀO LÚC ẤY, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế,vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ.Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suyxét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤYtrạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tutập trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đếnsự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét,khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấnđược khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳkhưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấybằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤY tinh tấngiác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tinhtấn giác chi. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bịcủa việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã đượckhởi sự, hỷ không liên hệ vật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷkhông liên hệ vật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởisự, VÀO LÚC ẤY hỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳkhưu tu tập hỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoànbị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũngan tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu cótâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi đượckhởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tịnh giác chi. VÀOLÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, cósự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưucó thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chiđược khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập định giác chi.VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnhnhư thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp.[16] Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu là người có trạngthái xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế, VÀO LÚC ẤY, xả giác chiđược khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập xả giác chi. VÀOLÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳkhưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ —(như trên)— tâm ở trên tâm —(nhưtrên)— pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thìcó thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian, VÀO LÚC ẤY niệm của vị này là đãđược thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệm của vị tỳkhưu là đã được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤY niệm giác chi đượckhởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi. VÀO LÚCẤY, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế,vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ.Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suyxét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤYtrạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tutập trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đếnsự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét,khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấnđược khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳkhưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấybằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤY tinh tấngiác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tinhtấn giác chi. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bịcủa việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã đượckhởi sự, hỷ không liên hệ vật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷkhông liên hệ vật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởisự, VÀO LÚC ẤY hỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳkhưu tu tập hỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoànbị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũngan tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu cótâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi đượckhởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tịnh giác chi. VÀOLÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, cósự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưucó thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chiđược khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập định giác chi.VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnhnhư thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳkhưu là người có trạng thái xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế,VÀO LÚC ẤY, xả giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưutu tập xả giác chi. VÀO LÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bịcủa việc tu tập.

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lậpniệm được tu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thế khiến cho bảy chiphần đưa đến giác ngộ được hoàn bị.

(Minh và giải thoát được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, bảy chi phần đưađến giác ngộ được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nàokhiến cho minh và giải thoát được hoàn bị? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu tutập niệm giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựaở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ;[17] tu tập trạch pháp giác chi nương tựa ở sự tách ly, nươngtựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tutập tinh tấn giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nươngtựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập hỷ giác chi nương tựa ởsự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến làsự buông bỏ; tu tập tịnh giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa áidục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập định giác chinương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, cóđích đến là sự buông bỏ; tu tập xả giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ởsự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ.

Bảy chi phần đưa đến giác ngộ đượctu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thế khiến cho minh và giảithoát được hoàn bị.

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Đượchoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn.


[1] Phầntrong ngoặc đơn () không có ở Chánh Kinh, được thêm vào để tiện việc theo dõi(ND).

[2]ānāpānasati = āna+apāna+sati, āna là hơi thở vào, apāna là hơi thở ra, sati làniệm, sự ghi nhớ.

[3] Từ thôngdụng là ‘tứ niệm xứ.’

[4] Từ thôngdụng là ‘bảy giác chi.’

[5] Chú ý đếntừ “hoặc” (từ Pali là ‘vā’) ở đầu câu và động từ “nhận biết” (pajānāti) trongnhóm 4 câu này. Có thể hiều là ở pháp thiền này, hành giả không điều khiển hơithở theo ý mình mà để hơi thở tự nhiên rồi chú tâm nhận biết sự diễn biến củahơi thở khi dài khi ngắn khác nhau.

[6] assasantovà assasāmi là các biến thể của động từ assasati. Đa số các từ điển và các bảndịch tiếng Anh đều ghi nghĩa cho động từ này là “thở vào,” nên ở từng đôi nhưvậy trình bày “thở vào” trước rồi “thở ra” sau. Còn ở bản dịch này, chúng tôighi nhận nghĩa của động từ assasati là “thở ra” nên trình bày “thở ra” trướcrồi “thở vào” sau. Sự chọn lựa này được căn cứ vào 2 chứng cớ:

- Ở Chú Giải Tạng Luật, ngàiBuddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti antopavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bêntrong” (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 408, theo bản in của Pali Text Society -PTS).

- Tự Điển Pali - English Dictionarycủa PTS cũng ghi assasati là thở ra (trang 90), passasati là thở vào (trang447).

Nếu là như vậy, phải chăng phươngpháp Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được trình bày và tu tập theo thứ tựhơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào? Việc thử nghiệm xin dành cho các hànhgiả, ở đây chúng tôi chỉ trình bày theo sự nghiên cứu về văn tự.

[7] - Trongbốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (nhận biết) và có liên từ“vā” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ làsikkhati (thực tập, thực hành, học tập). Theo thiển ý của cá nhân thì đến giaiđoạn này, hành giả đã có sự tiến triển trong sự tu tập hơi thở và các chi thiềnbắt đầu sanh khởi.

[8] - NgàiBuddhaghosa giải thích là sabbakāya (toàn thân) nên được hiểu là phần đầu, phầngiữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc của toàn bộ hơithở vào mỗi khi thở vào (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 411, theo bản in củaPTS).

- Ngài Mahābhidhāna, ở tập Chú GiảiSaddhammappakāsinī, ghi rằng: ‘Trong khi làm cho được biết rõ, trong khi làmcho rõ rệt phần đầu-giữa-cuối của toàn bộ hơi thở vào, tôi sẽ thở vào’ vị ấytập (Patisambhidāmagga-atthakathā tập 2, trang 491, theo bản in của PTS).

[9] Ở nhóm 2câu này, cụm từ sabbakāyapatisamvedī (có cảm giác toàn thân) nên được hiểu là‘danh tính từ’ bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu, còn động từ chính (finiteverb) vẫn là thở ra và thở vào.

[10] Tương tợnhư trên, ở nhóm 2 câu này, từ passambhayam (trong khi làm an tịnh) nên đượchiểu là ‘phân từ hiện tại, thể liên tiến (progressive)’ bổ nghĩa cho chủ từ làvị tỳ khưu, còn động từ chính (finite verb) vẫn là thở ra và thở vào. Cách giảithích này được áp dụng tương tợ cho các nhóm 2 câu ở bên dưới.

[11]anupassati (anu + passati): passati có nghĩa là ‘nhìn, xem, coi,’ còn anu là‘dõi theo, lần theo’ nên từ anupassati được ghi nghĩa là ‘quan sát’ thay vì‘quán’ hay ‘tùy quán,’ để dễ hiểu.

[12] Các mệnhđề điều kiện về thời gian “VÀO LÚC NÀO” và “VÀO LÚC ẤY” được viết dưới dạng inhoa để tiện phân biệt.

[13] Trongcâu: “vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhậnbiết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian” thì haiđộng từ “sống” (viharati) và “có thể chế ngự” (vineyya) động từ chính (finiteverb), còn các cụm từ còn lại bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu.

[14] Các hànhgiả tu tập về hơi thở nên chú ý điều kiện này.

[15]ajjhupekkhitā (người có trạng thái xả) là trường hợp tương tợ như các từ gantu,sotu, netu, vattu, jetu, v.v...

[16] Trongtrường hợp này “tâm đã được định tĩnh” là túc từ, là đối tượng của danh động từajjhupekkhitā (người có trạng thái xả), nghĩa là hành giả có trạng thái xả đốivới cái “tâm đã được định tĩnh.” Cấu trúc Pali ở câu này tương đối phức tạp vềmặt văn phạm.

[17] bhāveticó nghĩa là “làm cho hiện hữu, tu tập, phát triển” là động từ chính (finiteverb), túc từ là “niệm giác chi” và niệm giác chi này được đặt nền tảng ở sựtách ly, ở sự lìa ái dục, ở sự tịch diệt, và có đích đến là sự buông bỏ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2018(Xem: 4332)
Bầu trời trên cao xa, có đêm thì trăng sáng rực trần gian, chị hằng như đang mĩm cười nhìn xuống trần gian, còn chú cuội bên cây đa đang thiêm thiếp ngủ, có bữa thì tối thui như đêm ba mươi, ngữa bàn tay không thấy. Lúc thì trời quang mây tạnh, mưa thuận gió hòa, khi thì phong ba bão táp, tàn hại thiên nhiên, phá bỏ biết bao công trình vĩ đại mà con người đã bỏ thật nhiều sức lực tiền của để xây dựng qua nhiều thế kỷ, nhiều triều đại.
15/09/2018(Xem: 8380)
Thông Báo về Khóa Thiền Tập & Lớp Học Yoga tại Tu viện Quảng Đức, Khóa Thiền Tập & Lớp học Yoga tại Tu viện Quảng Đức 105 Lynch Rd, Fawkner, Victoria, 3060 (Email: quangduc@quangduc.com; Website: www.quangduc.com) Bắt đầu khai giảng lúc 10:00 sáng Thứ Bảy, ngày 6 tháng 10 năm 2018 Sau đó, mỗi Thứ Bảy từ 10:00 sáng đến 11:30 sáng Tại sao chúng ta cần thiền tập ? Đời sống tất bật hiện nay khiến cho con người căng thẳng, lo âu và mỏi mệt. Thiền định là phương cách giúp ta giải tỏa stress về tâm lý, cải thiện tốt về sức khỏe (chấm dứt trầm cảm, mất ngủ…), giúp thư giãn, đưa hành giả đến hạnh phúc và bình an nội tâm.
06/07/2018(Xem: 4712)
"Bạch cốt": xương trắng "Quán": dùng tâm mà xem xét Trong Phật giáo, một trong những phép quán mà chư tăng ni thường hành là phép Tử Quán (quán về sự chết) nhằm diệt trừ dâm dục. Sáng và chiều, họ phải thường tự răn nhắc mình về sự bấp bênh của mạng sống, cái chết có thể đến đối với họ bất cứ lúc nào. Lại phải nghĩ tới tình trạng ô nhiễm của bản tâm còn chưa được giải quyết có thể dẫn tới sự tái sanh bất hạnh nếu tử thần đến bất chợt. Như vậy, họ phải dùng tất cả sự quyết định, năng lực, cố gắng, nhẫn nại, không lay chuyển, sự chú tâm với tâm thức trong sáng của mình để diêt trừ các tình trạng xấu ác của bản tâm - chớ không thể chần chờ hay lơ đãng.
27/06/2018(Xem: 6593)
Tại sao chúng ta không dạy bạn Chánh niệm? AnneMarie Rossi - Sáng lập viên & CEO của BeMindful Translated by Bạch X. Phẻ Tâm Thường Định Thay lời giới thiệu: Chánh niệm cho chúng ta không gian giữa những cảm xúc và phản ứng của mình. Chánh niệm có nghĩa là phải giành sự chú ý, với lòng tử tế và kiên nhẫn, với những gì đang xảy ra bên trong và bên ngoài của bạn ngay bây giờ. Thuật ngữ "tâm khỉ" có nghĩa là cảm thấy bồn chồn, điên cuồng và phân tâm. Mục tiêu của sự thực hành ý thức là làm dịu sự nhạo báng của cái “tâm khỉ” này. Harvard (trường đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ) đã tiến hành một nghiên cứu, và họ xem xét hơn 1000 người từ khi sinh ra cho đến tuổi 32, để tìm hiểu những tính cách và nhân tố đã giúp họ thành công. Tính cách hay những điểm chung nào đã tìm thấy ở một cá nhân thành công?
17/03/2018(Xem: 11775)
Phiên bản tiếng Anh của quyển sách này được xuất bản tại Mỹ vào tháng 4 năm 2016, tựa là The Heart of Meditation, Discovering Innermost Awareness/Tâm điểm của Thiền định, Khám phá thể dạng tỉnh thức sâu xa nhất, do Jeffrey Hopkins dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh. Tháng 6 năm sau thì bản dịch tiếng Pháp của quyển sách này cũng đã được xuất bản tại Pháp, tựa là Le Coeur de la Méditation, Decouvrir l'esprit le plus secret/Tâm điểm của Thiền định, Khám phá tâm thức thần bí nhất, dịch giả là bà Sofia Stril-Rever.
15/03/2018(Xem: 14930)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
08/03/2018(Xem: 5346)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn. Những chỗ cần tham khảo, xin dò theo ký số kinh bản, hay dò theo các liên kết cuối bài. Một số câu sẽ được ghi kèm tiếng Anh để độc giả thấy ngay trước mắt không phải tạm ngưng để dò bản tiếng Anh trên mạng.Bài này sẽ tập trung vào khía cạnh thực dụng lời Đức Phật dạy, và sẽ viết rất mực đơn giản ở mức có thể có. Trong phần Ghi Chú cuối bài, độc giả sẽ thấy các ký số không bình thường, vì bài này được viết đi, viết lại nhiều lần, và khi cần ghi chú thêm giữa bài, đành chọn cách ghi số xen vào. Bài viết này có vài chỗ sẽ gây suy nghĩ phức tạp, nhưng người viết hoàn toàn không có ý muốn tranh luận, vì tự biết mình tu học chưa tới đâu, và cũng vì chỉ muốn giải thích Phật pháp qua những khía cạnh có thể thực tập tức khắc, để độc giả có thể kinh nghiệm ngay trên thân và tâm trong thời gian nhanh nhất.Mọi sai sót xin được sám hối và chỉ dạy.
27/01/2018(Xem: 4294)
Là người Phật tử, dù tu tập theo pháp môn nào chúng ta cũng thường được nghe chư tôn đức dặn dò: "Tu tập phải luôn quay vào bên trong, quay về chính mình, không nhìn ngó ra ngoài". Không nhìn ngó ra ngoài, không có nghĩa là chúng ta lúc nào cũng nhắm mắt không nhìn ngoại cảnh. Chúng sanh có mắt để nhìn. Có tai để nghe. Có mũi để ngửi. Có lưỡi để nếm. Có thân để biết lạnh nóng. Có tâm để biết suy nghĩ, phán xét... Đó là phước báu của một con người sinh ra đời được lành lặn, thì tại sao không xử dụng những căn này để học hỏi, để thưởng thức một cuộc sống lành mạnh. Nhưng nếu là người muốn thoát khổ, muốn có cuộc sống an bình ở đời này, hay cao thượng hơn là muốn giác ngộ giải thoát trong tương lai, thì hiện tại người đó cần tu tập làm chủ tâm ngôn, ý ngôn, đồng thời làm chủ ba nghiệp của mình. Đó là Ý nghiệp, Thân nghiệp và Khẩu nghiệp.
26/01/2018(Xem: 5873)
Tu thiền chỉ xuay quanh một điểm tâm mà chỉ có những bật tu hành một thời gian dài, và đạt được giác ngộ mới vào được tâm điểm. Tôi xin lưu ý, vì những câu chuyện về tâm của Phật Giáo Đại Thừa dưới này quá phổ thông nhiều người thuật lại, thêm mắm thêm muối, tam sao thất bổn, đem râu ông ni cắm càm bà nớ nên tôi không biết chắc là Phật copied Tổ, Tàu đã đạo văn Nhật (Dr. Suzuki), Tàu đã ăn trộm của Tàu, Việt chơm chỉa từ Tàu, Ấn Độ, Nhật, Tây rồi thì mạnh ai nấy vãi tùm lum trên internet làm cho tam thế Phật oan? Tương tự, 2 câu nổ như sấm trong bài kệ 4 câu của Thiền tông dưới đây mà mọi người đổ oan cho Đạt Ma Lão Tổ “noái,” “Chỉ thẳng thật tâm, thấy tánh thành Phật!”
13/11/2017(Xem: 14368)
Chánh Pháp Nhãn Tạng _Nguyên tác Shōbō Genzō_ Tác giả Đạo Nguyên Hy Huyền_ Anh dịch Kazuaki Tanahashi, et al_ Việt dịch Đỗ Đình Đồng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567