Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lợi ích của Thiền

22/04/201319:58(Xem: 5470)
Lợi ích của Thiền
meditaion_monk1Lợi ích của thiền
Giáo sư Minh Chi
Học viện Phật giáo VIệt Nam

Hành thiền đúng phép có thể đem lại cho người hành thiền những lợi ích như sau:

  1. Các căn được an an tịnh, và một cách tự nhiên, hành giả thấy thích thú với thói quen hành thiền hàng ngày.
  2. Lòng từ xâm chiếm tâm hành giả. Với lòng từ, hành giả xa lìa mọi tội lỗi và xem tất cả chúng sanh như là anh chị em.
  3. Những dục vọng làm mệt mỏi và đầu độc thân tâm như là giận dữ, keo kiệt, kiêu ngạo… dần dần xa lìa tâm của hành giả.
  4. Nhờ hộ trì chặt chẽ các căn, cho nên những niệm ác, xấu không len vào tâm hành giả được.
  5. Với tâm trong sáng và tư thái bình thản, hành giả không còn thèm muốn gì đối với những dục vọng thấp hèn.
  6. Tâm thức của hành giả tập trung vào những ý niệm cao cả, mọi tư tưởng vị kỷ, ham muốn quay cuồng theo dục vọng đều xa lìa.
  7. Hành giả không lạc vào chủ nghĩa hư vô, mặc dù thấy rõ mọi sự vật đều không rỗng bèo bọt.
  8. Tuy vẫn còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng hành giả đã nhận thức rõ con đường giải thoát.
  9. Nhờ đi sâu vào giáo pháp mầu nhiệm, hành giả nương tựa vào trí tuệ của đức Phật.
  10. Vì không còn gì hấp dẫn và làm cho hành giả ham muốn, hành giả cảm thấy như con Phượng Hoàng đã thoát khỏi lưới và đang bay lượn tự do trên bầu trời.

(Theo kinh Chandrad���font> pa Samadhi S‰ tra, tức kinh Nguyệt Đăng Tam Muội trong Hán tạng, được dẫn chứng trong cuốn "các bài giảng của một tu sĩ" (Sermons of a Buddhist Abbot), tác giả: Hoà Thượng Nhật Soyen Shaku". Xem cuốn "The Essense of Buddhism" của Lakshmi Narasu, trang178)

Trong kinh Thân Hành Niệm, phép tu thiền niệm thân, Phật nói tới mười công đức của phép tu thiền niệm thân như sau:

  1. Đối trị tham và sân.
  2. Loại bỏ sợ hãi.
  3. Có thể chịu đựng nóng lạnh, đói khát, côn trùng quấy nhiễu.
  4. Dễ dàng chứng bốn cấp thiền.
  5. Có thể biến hoá thần thông theo ý muốn.
  6. Có thêm nhĩ thông, tức là có khả năng nghe những âm thanh mà tai người bình thường không nghe được.
  7. Biết được ý nghĩ của người khác.
  8. Biết dược các kiếp sống quá khứ của người khác.
  9. Có thiên nhãn thông, tức là con mắt có thể nhìn thấy các chúng sanh trôi nổi theo nghiệp từ đời này qua đời khác.
  10. Ngay trong đời hiện tại đạt được tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

(Xem kinh Thân Hành Niệm, Trung Bộ III, trang 280-81-82)

Như vậy là chỉ tu tập phép niệm thân này thôi (không phải niệm cả bốn xứ là: thân, thọ, tâm và pháp), hành giả nếu kiên trì, siêng năng cũng đạt được mười thành quả đáng khích lệ nói trên. Phật dạy:"Này các Tỳ-kheo, thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười?…" (Xem trong 280, kinh đã dẫn).

Nội dung của phép niệm thân như đã sơ trình bày trên đây cũng không có gì là quá phức tạp.

  • Niệm hơi thở.
  • Niệm mọi cử động của thân.
  • Quán các bộ phận của thân như là một tổng hợp của lục phủ ngũ tạng v.v… chứ không phải là một cái gì đơn nhất, lại gồm những vật bất tịnh, chứ không phải đẹp đẽ gì mà sanh lòng ham muốn. (Đối với thân mình cũng như thân người khác).
  • Quán thân chỉ là do bốn đại tạo thành: đất, nước, gió, lửa (địa, thuỷ, hoả, phong). Khi thân hoại thì bốn yếu tố đó trở về với thiên nhiên.
  • Quán xác chết trong quá trình thối rửa của nó. Cách quán này, sách Trung Quốc gọi là "bạch cốt quán". Bạch cốt là xương trắng. Hiện nay chúng ta chỉ cỏ thể quán xương trắng trong tưởng tượng. Trái lại, ở Ấn Độ cổ đại, có những nơi có tập quán để cho xác chết những người nghèo hay xác tội phạm bị tử hình phơi ngoài đồng mặc cho dã thú và chim muông rỉa thịt. Do đó, cơ hội để trực tiếp quán xác chết có nhiều hơn so với hiện nay.

Trong cuốn "Hành Thiền", Hoà Thượng Thích Minh Châu cũng đề cập tới bốn lợi ích của thiền như sau:

  1. Thiền có khả năng đoạn trừ các dục,
  2. Thiền có khả năng đoạn trừ lòng sợ hãi.
  3. Thiền đem lại niềm vui, gọi là thiền lạc.

4. Thiền đưa đến thành tựu trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, niết-bàn.

(Xem "Hành Thiền-Một Nếp Sống Lành Mạnh Trong Sáng, Một Phương Pháp Giáo Dục Hướng Thượng, Thích Minh Châu, Trang 23).

Hoà Thượng Thánh Nghiêm, một thiền sư Trung Hoa từng diễn giảng nhiều năm về thiền học tại nước Mỹ, mới đây trong quyển "Thiền và Ngộ", ngay ở bài đầu "Thiền Ngộ và Tĩnh Toạ" đã nói vắn tắt về lợi ích của ngồi thiền như sau:

"Ngồi thiền đối với thân tâm chúng ta đều có lợi ích. Nó giúp cho thân thể mạnh khoẻ, và tâm được hài hoà quân bình. Nó giúp cho chúng ta bớt vướng mắt, chấp trước, khiến cho đầu óc chúng ta bớt nóng nảy, mà được mát lạnh sáng suốt. Nó giúp chúng ta mở mang trí huệ, khai phát tinh thần…"

(Thiền và Ngộ, trang 1, nxb. Sở tại Đài Bắc 1980)

Nói tóm lại, lợi ích của thiền rất là nhiều, lớn, cụ thể. Nhưng phải hành thiền thì mới thể nghiệm được, chứ không thể nào thể nghiệm được lợi ích của thiền qua sách vở, dù là sách vở viết rất hay. Vì vậy, tôi khuyên: hỡi các bạn hãy tập thiền hàng ngày, phải thường xuyên ngay trong cuộc sông bình nhật của mình.

---o0o---

Chân thành cảm ơn Giáo sư Minh Chi đã gởi tặng bài viết này
( Trang nhà Quảng Đức )


---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3892)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8477)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11703)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12731)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12750)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4704)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4828)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5032)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7307)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567