KINH NGHIỆM NIỆM PHẬT
VÀ NHỮNG CHUYỆN LUÂN HỒI
Biên Soạn:Cư Sĩ Diệu Âm
Chứng Minh:H.T. THÍCH GIÁC HẠNH
---o0o----
3
Kính thưa quý bạn, đây là những điều quan trọng và cấm kỵ, mà chúng ta luôn luôn ghi nhớ, để cứu thần thức của người thân trong giờ phút cuối. Chúng ta luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì mạng sống của chúng ta rất là ngắn ngủi, không ai có thể biết trước ngày mai chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu chúng ta chuẩn bị trước, khi có tang sự, chúng ta đỡ bị bối rối. (Chuẩn bị trước không có nghĩa là tiêu cực, mà là chúng ta có trí tuệ và can đảm, dám đối diện với cái chết và hiểu thấu đời là vô thường, vì ai cũng phải chết. Chết không có nghĩa là hết, mà là bắt đầu cho cuộc sống mới. Vậy tại sao chúng ta không dùng cuộc sống giả tạm, đau khổ, ngắn ngủi này, chuẩn bị cho mình một đời sống mới trường thọ vĩnh cửu)
I. Những đìều quan trọng khi có người thân đang bị hấp hối:
. Đặt người thân nằm một chỗ thoải mái với một tư thế thoải mái.
. Mở máy chíp niệm Phật (là cái máy nhỏ niệm Phật, không cần thay băng, quý bạn nên tới chùa để thỉnh) ngày đêm bên cạnh người bệnh, cho tới khi chôn hoặc hỏa thiêu. (Chỉ dùng máy những lúc không có người trợ niệm)
. Lấy hình Phật để trước mặt để họ yên lòng và tưởng đến Phật.
. Khuyên thân nhân trong nhà không được khóc. Điều quan trọng không phải là giữlại thân xác của người thân, mà là lúc rất quan trọng để cứu thần thức của người thân.
. Khuyên mọi người trong nhà cùng nhau ngồi hoặc đứng chung quanh người hấp hối, niệm Phật trợ niệm.
. Tiếng niệm vừa đủ nghe, không được lớn quá hay nhỏ quá; nhanh quá hay chậm quá. Tóm lại, chúng ta trợ niệm làm sao khiến cho người sắp chết cảm thấy an lạc và thanh thản.
. Trong nhà cần có một người hiểu biết một chút về Phật pháp, luôn luôn kề tai người hấp hối, khuyên họ hãy buông bỏ hết trần duyên, tình cảm, bản thân...vì tất cả đều là giả không thật. Khuyên họ hãy mau mau niệm Phật để Phật đến tiếp dẫn về Cõi Phật. Khuyên họ biết, nếu họ không chịu buông bỏ, cứ nuối tiếc, họ sẽ bị làm ma khổ sở và bị đọa luân hồi. Khuyên họ hãy niệm Phật vì gia đình ai cũng thương họ lắm, muốn họ được đi theo Phật. Nếu họ không niệm Phật, lỡ làm ma thì gia đình sẽ buồn lắm... Tóm lại, dùng lời khuyên để trấn an, dẫn dắt thần thức của người sắp chết được yên tâm mà giữ chánh niệm. Vì trong lúc này, người sắp chết đang hốt hoảng, giằng co với tử thần, tứ đại đang bị tan rã, thật là khủng khiếp, sợ hãi vô cùng. Khi chúng ta trợ niệm chung quanh, khuyến tấn họ, họ sẽ cảm thấy yên ổn, an lòng mà ra đi tự tại.
II. Những điều cấm kỵ:
. Nếu người thân chết trước khi chúng ta phát hiện, không nên đụng hay di chuyển thân xác của họ.
. Không nên la khóc um sùm, sẽ làm trở ngại và hại thần thức của người sắp chết. Chúng ta khóc là hại người thân của chúng ta không được siêu thoát.
. Không lôi kéo, hoặc đụng đến thân thể của người chết, hay tắm rửa thay quần áo, phải đợi đến 12 tiếng đồng hồ sau. Tuy là người chết đã tắc thở, thể xác đã lạnh nhưng thần thức của người chết vẫn còn trong thân ngủ ấm trong vòng 8 tiếng. Chúng ta trợ niệm càng lâu càng tốt. Nếu chúng ta không hiểu, đụng vào thân thể của họ, vô tình làm cho thần thức của họ đầu thai vào đường xấu, thì đây là một điều tai hại. (Sau 8 tiếng, nếu thân thể hoặc tay chân của người chết không được thẳng, chúng ta dùng khăn thấm nước nóng đắp chung quanh khớp xương, vài phút sau chúng ta có thể làm thân thể của người chết thẳng lại).
Vì khi người chết đi về đâu, chúng ta có thể biết được, nên sau 8 tiếng đồng hồ, chúng ta dùng tay dò hơi ấm của người chết. Nếu trên đỉnh đầu nóng là được vãng sanh; ngực nóng là sanh về cõi lành; lỗ rún, chỗ kín, đầu gối và dưới lòng bàn chân là bị đọa vào ba đường ác (nghĩa là súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục). Cộng vào cách chết của họ, nếu hình tướng của họ được thanh thản nhẹ nhàng thì biết họ đã lên cõi lành. Nếu hình tướng cau có khổ sở, co quắp thì họ bị đọa vào ba đường ác, hoặc làm ma vất vưởng. Sau khi dò hơi nóng xong, biết người thân bị đọa vào đường xấu, chúng ta không nên nản lòng; mà hãy buông xả hết mọi chuyện làm ăn, ngày đêm tinh tấn niệm Phật. Tại sao? Vì trong bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, chúng ta còn có cơ hội cứu vong linh của người thân.
Vì người chết trong vòng 49 ngày, họ không biết là họ đã bị chết. Vong hồn của họ còn ở trong nhà chung quanh người thân, chúng ta không thấy họ, nhưng họ thấy chúng ta. Trong vòng 49 ngày này, vong hồn của họ rất khổ sở, hoảng hốt, lo sợ, lạnh lẽo, đang bị chúng ma níu kéo. Họ kêu tên và đụng người thân nhưng người thân không ai thấy họ. Họ rất tức giận và sợ hãi (không phải người nào cũng tới 49 ngày mới đi, mà có người đi đầu thai sớm hơn hoặc trễ hơn, tùy theo thần thức, nghiệp lực của mỗi người mà dẫn dắt. Nhưng chúng ta cố gắng trợ niệm cho tới 49 ngày thì mới được vẹn toàn)
Trong vòng 49 ngày này, người thân không nên khóc. Máy chíp niệm Phật mở ngày đêm, người thân thay phiên trợ niệm. Bàn thờ, đèn nhang đầy đủ để người chết cảm thấy ấm cúng. Người thân trong gia đình luôn luôn kêu tên người chết, khuyên họ, nói cho họ biết là họ đã chết rồi. khuyên họ hãy mau niệm Phật để Phật đến tiếp dẫn. Nói cho họ biết, nếu họ không tin họ đã chết thì họ đi kiếm tấm gương rồi soi vào (người chết khi soi gương không thấy bóng họ trong gương).Sau khi họ biết rõ họ đã chết, họ sẽ nghe lời người thân dẫn dắt.
Duy chỉ có 2 loại người không có bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, đó là người niệm Phật vãng sanh thành Phật. Người niệm Phật ra đi lúc còn sống, được Chư Phật đến tiếp dẫn đưa thẳng về Cõi Phật, không phải chết rồi mới đi, nên thân thể của họ rất mềm như còn sống. Còn loại người thứ hai là làm toàn chuyện ác, chưa kịp nhắm mắt đã bị quỉ sai tới kéo thẳng vào địa ngục.
Còn phần này rất là quan trọng, nếu chúng ta biết rõ người thân sẽ bị chết, chúng ta không nên gọi cấp cứu, vì chỉ làm đau đớn thể xác và trở ngại người thân không được vãng sanh. Nếu người thân bị chết trong nhà thương, chúng ta nên xin nhà thương để cho người thân chúng ta nằm yên đến 12 tiếng (trong 12 tiếng này, chúng ta bên cạnh trợ niệm). Sau đó mới chuyển thân sác đi chỗ khác. Nói cho họ biết đây là luật lệ tôn giáo, nếu họ nói nhà thương không cho phép làm như vậy, chúng ta phải tranh luận tới cùng, phân giải cho họ hiểu rõ thiệt hơn, thì họ sẽ chấp nhận không làm khó chúng ta. Còn nếu chúng ta biết rõ người thân sẽ bị chết trong thời gian ngắn, thì tốt nhất chúng ta nên đưa người thân về nhà, như vậy tốt cho cả mọi mặt và an toàn cho người thân của chúng ta.
III. Phần lưu ý:
Trong nhà luôn luôn trữ sẵn vài cái máy chíp niệm Phật khác nhau. Sau đó, dò hỏi người trong gia đình (nhất là những cháu nhỏ) coi chúng thích loại nhạc niệm nào vì điều này rất là quan trọng. Đến phút lâm chung, nếu chúng ta sơ ý để loại nhạc là chúng không thích hay khác với cách chúng niệm hằng ngày, vô tình sẽ làm chúng bị phân tâm và nổi giận. Vì mỗi người thích niệm khác nhau: có người thích niệm sáu chữ, có người thích niệm bốn chữ. Chúng ta nên chiều theo ý của người hấp hối (chỉ dành riêng cho những người chưa niệm được thuần thục, nếu đã thần thục thì không còn phân biệt)
Trong lúc trợ niệm, nếu có đông hơn 10 người, chúng ta nên chia ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm trợ niệm một tiếng đừng vây quanh người hấp hối quá đông, sẽ làm cho họ bị ngộp thở và khó chịu. Chúng ta nên âm thầm thay phiên nhau niệm, nhưng tránh đừng để tiếng niệm Phật bị ngưng nửa chừng. Tóm lại, chúng ta phải cố gắng tùy theo hoàn cảnh mà uyển chuyển. (Dù ở nhà thương hay ở nhà xác, lúc nào cũng để máy chíp niệm Phật bên cạnh của người thân)
IV. Không nể tình:
Kính thưa quý bạn, phần này rất là quan trọng. Trong lúc người thân đang hấp hối, hay là mới mất, thân nhân, con cháu, bạn bè không biết tới nơi than khóc hay thương tiếc. Chúng ta nên mời họ ra ngoài ngay và nói cho họ biết “Nếu anh chị thương người nhà tôi, xin anh chị niệm Phật cầu siêu. Còn nếu anh chị thương khóc, vô tình sẽ hại thần thức của người nhà tôi không được siêu thoát”. Nếu họ giận, bỏ về cũng không sao, điều quan trọng là cứu thần thức của người sắp chết, không phải là lúc sợ người thân hay bạn bè giận ghét.
Muốn bảo vệ người thân đang bị hấp hối, chúng ta không nên báo tin cho thân nhân hay bạn bè biết nhiều, vô tình chỉ làm rối loạn thần thức của người hấp hối mà thôi. Chúng ta chỉ cho những người hiểu đạo hay bạn đồng tu biết, để họ đến giúp đỡ trợ niệm là tốt nhất. Còn người thân hay bạn bè, chúng ta cho biết sau cũng chưa có muộn.
Kính thưa quý bạn, chúng ta là người, không phải là gỗ đá. Khi người thân mất, dĩ nhiên chúng ta đau buồn thương khóc, đây là chuyện tự nhiên của con người. Nếu chúng ta khóc để vơi đi nỗi đau thương ở trong lòng, thì chúng ta cứ khóc (sau đám ma). Còn nếu chúng ta khóc, mà trong tâm thương tiếc, muốn người đó đừng bỏ mình thì không nên, vì vô tình sẽ hại thần thức của người chết không được siêu thoát. Tại sao? Vì tâm thức của những người thân rất mạnh, có thể kéo thần thức của người chết ở lại. Huống chi một thần thức của người chết làm sao có thể cưỡng lại sức kéo vô hình của nhiều tâm thức của người thân.
Tôi xin đưa ra một ví dụ:
Mẹ của chúng ta muốn đi chơi xa vài ngày để được thoải mái tinh thần sau những năm làm việc cực nhọc. Chúng ta không hiểu , ngăn cản, năn nỉ “Mẹ ơi, mẹ đừng đi chơi xa, tụi con sẽ nhớ mẹ lắm, Mẹ đừng đi nha mẹ”. Vậy người làm mẹ làm sao đi được? Mà dù có đi, thì trong tâm nặng trĩu và cảm thấy có lỗi với các con. Vô tình, chúng ta làm con bất hiếu, không hiểu được nỗi cực nhọc của mẹ mình (vì mẹ mình là người, không phải là cái máy). Nếu chúng ta có hiếu, không nên ngăn cản mà còn khuyên mẹ mình “Mẹ ơi! mẹ cứ đi chơi cho vui đi, mẹ đừng lo cho tụi con và gia đình, mọi chuyện chúng con sẽ tự biết lo”. Người làm mẹ, khi nghe các con nói như vậy, mới yên lòng mà đi chơi một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Khi cha mẹ chúng ta chết cũng vậy, chúng ta không nên thương khóc, mà chỉ niệm Phật và khuyên cha mẹ hãy mau niệm Phật, để Phật đến tiếp dẫn, như vậy chúng ta mới là con có hiếu.
Kính thưa quý bạn, chúng ta có cả đời làm để kiếm tiền, nhưng vong linh của người thân rất cần chúng ta trong 49 ngày này. “Cứu một mạng người còn hơn xây bảy tháp phù đồ” không lẽ người thân của chúng ta mà chúng ta không cứu được sao? Vậy thử hỏi lương tâm của chúng ta để đâu? Huống chi, trong 49 ngày niệm Phật sẽ có lợi cho bản thân chúng ta rất nhiều.
Riêng chúng ta hãy tranh thủ ngày đêm niệm Phật, đừng bao giờ lệ thuộc vào người thân giúp đỡ, vì không ai cứu ta bằng chính ta cứu ta. Dù phút cuối không có người thân bên cạnh giúp đỡ trợ niệm, chúng ta cũng giữ được chánh niệm. Vì khi chúng ta niệm Phật đã ăn sâu vào tâm thức, phút lâm chung, chúng ta sẽ giữ được chánh niệm mà vãng sanh tự tại.
V. Cầu siêu:
Kính thưa quý bạn, khi chúng ta niệm Phật, không những cứu được bản thân, gia đình thân nhân và bạn bè mà còn có thể cứu được vô số chúng sanh trong 3 đường ác và những vong hồn vất vưởng đó đây.
Đây là cách cầu siêu rất là đơn giản nhưng có hiệu quả vô cùng. Cũng là một thời gian niệm Phật, nhưng chúng ta có thể cứu được bản thân, gia đình, chúng sanh trong 3 đường ác và những hồn ma vất vưởng đó đây.
Mỗi tối hoặc mỗi sáng trước khi niệm Phật, chúng ta khấn nguyện con tên A. hôm nay con cầu xin 10 phương Chư Phật và Chư Bồ Tát gia hộ cho tất cả chúng sanh trong 3 đường ác và những vong hồn vất vưởng đó đây được tin Phật, niệm Phật. Sau đó chúng ta nói ra tiếng kêu gọi “Hỡi những chúng sanh trong 3 đường ác và những vong hồn vất vưởng đó đây, xin các bạn hãy niệm Phật theo tôi. Chỉ cần các bạn niệm A Di Đà Phật thì Chư Phật sẽ đến nơi tiếp dẫn, các bạn sẽ không còn chịu khổ nữa”. Sau đó chúng ta tịnh tâm niệm Phật (niệm ra tiếng). Sau khi niệm Phật xong, chúng ta hồi hướng hết công đức niệm Phật tới những chúng sanh trong 3 đường ác và các hồn ma vất vưởng đó đây được tỉnh hồi đấu tin Phật niệm Phật.
Tại sao chúng ta phải niệm ra tiếng? Vì chúng ta đang dẫn dắt họ niệm theo, nếu chúng ta không niệm ra tiếng thì làm sao họ biết mà niệm theo? Huống chi chúng ta niệm lớn tiếng là để gieo chủng tử câu A Di Đà vào tâm của họ (người sống lẫn người chết). Trong thời gian niệm Phật, chúng ta nên kêu và khuyên họ nhiều lần.
Thật ra những vong hồn khuất mặt lúc nào họ cũng ở chung quanh chúng ta, họ cũng có cuộc sống của họ. Chẳng qua chúng ta không thấy họ, nhưng họ thấy chúng ta. Chúng ta nói gì họ cũng nghe được (đây là sự thật, vì thời gian có hạn và sách cần ấn tống gấp, nên tôi không kể cho quý bạn nghe được những chuyện mà có thật ở trong gia đình tôi, xin hẹn lại cuốn sách thứ hai). Tôi biết quý bạn sẽ nghĩ: vậy địa ngục và ngã quỷ ở xa làm sao mà họ nghe được tiếng niệm Phật của chúng ta? Kính thưa quý bạn, thần lực của câu A Di Đà bao phủ tới 6 ngã 10 phương vô cùng tận. Nếu không phải vậy, làm sao người niệm Phật khi được nhất tâm thì nghe cả trời niệm Phật.
Kính thưa quý bạn đồng tu, khi chúng ta bước vào đường tu bất cứ là tu về môn, tông, phái nào, chúng ta không nên tham thích thần thông, hay mong cầu thấy được Phật, vì đây là điều cấm kị cho người tu. Qua quá trình tu tập, bản thân tôi đã bị vướng phải mấy lần, nhưng nhờ tôi đã kịp thời thức tỉnh, nếu không tôi cũng bị chúng ma mê hoặc.
Phật dạy chúng ta, khi tu hành phải hoàn toàn buông xả, không tham hay mong cầu. Nhưng quý bạn đừng hiểu lầm cho là khi chúng ta tu quyết tâm thành Phật, thì chúng ta đã phạm vào cái tham làm Phật. Điều này chúng ta phải cần phân biệt rõ ràng. Khi chúng ta phát tâm bồ đề, nguyện niệm Phật để thành Phật, là chúng ta đã có sự quyết tâm, tín xâu và mục đích. Ý nghĩ dũng mãnh này giúp cho chúng ta một lòng tu niệm để thành Phật. Đây là ý chí phi thường, không phải là cống cao ngã mạn hay là tham hoặc mong cầu.
Dù sau khi được nhất tâm, giấc mơ của chúng ta hoàn toàn khác xưa, nhưng chúng ta cũng không nên mong cầu hay tham thấy. Sau khi được nhất tâm, chúng ta càng cảnh giác nhiều hơn, niệm Phật một lòng tinh tấn hơn, kiên định hơn, không nên tham nghe dù là tham nghe nhạc trong đầu của chúng ta. Tuy nhạc niệm trong đầu là do tâm chúng ta phát ra, nhưng nếu chúng ta muốn diệt sạch lòng tham, thì chúng ta vẫn giữ nguyên công phu tu niệm trước kia, nghĩa là vẫn dùng sức của chúng ta niệm (niệm ra tiếng, còn niệm thầm thì không được, vì đã có nhạc niệm trong tâm). Về sự chứng đắc coi như là một phần thưởng khuyến khích, đừng coi chúng nặng quá khiến lòng tham chúng ta khởi dậy.
Khi chúng ta đã quyết tâm tu niệm Phật, thì phải một lòng kiên định, dù cho ai nói ra nói vào cũng không thối chuyển. Nếu được cái tâm kiên định như vậy, thì đường tu chúng ta mới được thành công. Vì Phật ở trong tâm chúng ta, có thể trả lời đúng hay sai.
Cũng như khi gặp Phật hiện ra, thật hay giả ta tự biết. Tại sao? Vì khi gặp Phật hiện ra thật, ánh sáng của Phật làm cho chúng ta an lạc tự tại. Còn gặp Phật giả, tâm chúng ta sẽ bị bồn chồn khó chịu. Nếu tâm chúng ta tham, sẽ không phân biệt được, nhưng nếu tâm chúng ta định, sẽ cảm giác được ngay.
Tóm lại, nếu chúng ta không khởi lòng tham thì chúng ta không bị chướng ngại chi cả, mà Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Thiên hộ mạng lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta. Tại sao? Vì khi chúng ta niệm Phật là chúng ta đã là đệ tử của Phật A Di Đà, nên Chư Phật lúc nào cũng bảo vệ chúng ta.
Tại Sao Niệm Phật Mà Vẫn Còn Khổ
Kính thưa quý bạn, trước kia vì không hiểu rõ Phật pháp, những lúc khổ dồn dập, chán đời, tôi nghi ngờ. Phật nói: “Niệm Phật sẽ trừ được nghiệp” nhưng tại sao tôi còn khổ mãi? Sau đó, nhờ tìm hiểu kinh sách nên tôi mới hiểu thông. Tôi ví dụ: tôi thiếu một tỷ đồng, tôi mới trả được có vài đồng, thì thử hỏi số nợ của tôi có hết không? Niệm Phật cũng vậy, nghiệp của tôi đã tạo ra không biết bao nhiêu tỷ triệu kiếp. Vì nghiệp không có hình tướng, nếu như có hình tướng, thì nghiệp của tôi đã chất đầy cả hư không. Tôi mới niệm Phật được một thời gian ngắn, mà tôi muốn nghiệp của tôi được trừ hết, vậy trên thế gian này đâu có cõi Ta bà hay nhân quả?
Phật dạy: “Niệm Phật là một môn tu trừ nghiệp nhanh nhất”. Vậy mà khó có ai trong một đời, có thể niệm Phật trừ sạch hết nghiệp vô số kiếp của chúng ta. Vì vậy mà Phật dạy chúng ta cách tu để đới nghiệp vãng sanh (nghĩa là chúng ta mang theo nghiệp để mà vãng sanh). Đến khi gặp Phật, thì tự nhiên nghiệp của chúng ta, nhờ thần lực của Phật gia trì mà tiêu sạch.
Có người hỏi: “Tại sao mấy người niệm Phật, nói danh hiệu Phật A Di Đà là thần dược, có thể trị bá bệnh, vậy tại sao có số người bị bệnh ung thư hay bệnh nặng trước khi chết?” Cũng như phần trên tôi đã thưa với quý bạn. Quý bạn mắc nợ quá nhiều, nhưng lại trả không được bao nhiêu, mà quý bạn muốn hết nợ, thì thế gian này, sẽ đầy dẫy tội lỗi và chúng ta sẽ không còn sợ nhân quả.
Cũng như số nghiệp chúng ta trả là mười kiếp, nhưng nhờ niệm Phật, mà nghiệp dồn lại để trả xong trong một kiếp. Nếu người hiểu đạo, khi được dồn nghiệp họ rất vui mừng, vì sự tu tập của họ có kết quả và họ chắc chắn được vãng sanh. Cho nên người hiểu đạo và người không hiểu đạo, có cái nhìn khác nhau. Nhưng quý bạn hãy tìm hiểu kỹ thêm. Số người chết bệnh nặng, so với số người ra đi biết trước giờ vãng sanh tự tại thì chỉ là số ít.
Cũng như một người niệm Phật từ nhỏ, còn một người tới già mới niệm. Dĩ nhiên phải có sự sai biệt. Huống chi, mỗi người đều mang cái nghiệp nặng nhẹ khác nhau.
Tại Sao Không Di Cư Về Cõi Phật ?
Tại sao chúng ta không dẫn dắt gia đình, con cháu di cư về Cõi Phật, mà cứ mong được di cư ra nước ngoài ?
Sau khi hiểu đạo, tôi mới thấy tội nghiệp cho chúng ta. Ai nấy lâu nay hy sinh bản thân, chết sống vượt biên. Thậm chí, có nhiều người lừa dối tình cảm lẫn tiền bạc, bán rẻ lương tâm, mục đích cũng chỉ là muốn được ra nước ngoài. Trải qua mấy chục năm, nhiều giai đoạn đau khổ thảm khốc cho người Việt lưu vong, chúng ta ai nấy cũng tưởng ra được nước ngoài là sung sướng, hạnh phúc giàu sang, nhưng thật sự không như chúng ta nghĩ. Tuy là về vật chất được đầy đủ một chút, nhưng vẫn là một kẻ tha phương sống tạm nơi xứ người. Khi chết cũng phải bị đọa đày trong sáu nẻo.
Chúng ta hy sinh cả đời là vì ai? Là vì cái gì? Tất cả chúng ta đều nghỉ là : cho bản thân, gia đình và con cái. Đến khi nhìn lại, không biết ta là ai ? Ai là con của ta ? Chúng ta tội nghiệp đến đáng thương, tưởng thân giả tạm này là ta (đâu ngờ thân ta là bịch thịt thối) tưởng thế giới này là của ta (không ngờ thế giới này là của tà ma đang làm chủ). Rồi cứ cam tâm tình nguyện làm nô lệ, đau khổ luân hồi vô số kiếp.
Suốt ngày, vì bịch thịt hôi thối này mà khiến chúng ta bon chen, cực khổ kiếm tiền để mua thuốc no, thuốc khát cho nó. Nó đói thì ta khó chịu, vội cho nó ăn. Nó khát thì vội lo cho nó uống, nó nóng lạnh thì mau mau điều hòa, nếu không săn sóc nó kỹ lưỡng thì bị nó hành hạ, bệnh hoạn thảm thương.
Nhưng rồi làm nô lệ cho nó cả đời cũng không xong, nó không nể tình, thương hại cho chúng ta. Vì nó là giả nên phải hư hao, già nua theo ngày tháng. Đến lúc tan rã, thúi nát, thân giả tạm này còn thua sỏi cát, vì sỏi cát ít ra không bị hôi thối. Ngược lại, thân giả tạm này còn làm thối lây cả đất. Vậy mà người đời chúng ta cho thân này là trân quý, hỏi như vậy có đáng thương không ?
Khi thân giả tạm bỏ ta mà đi, chúng ta lại vì nghiệp mà lặn hụp đau khổ trong sáu ngã luân hồi, hết mượn thân giả này, đến mượn thân giả kia. Mỗi một thân là chịu mọi đau khổ khác nhau, đời đời không cùng tận. Làm người như chúng ta, ai nấy cũng muốn lìa khổ được vui. Cũng vì lý lẽ này, mà con người chúng ta không ngừng bon chen cầu tiến. Mục đích là mong có một cuộc sống hạnh phúc, bình an.
Vậy tại sao chúng ta không lo tu niệm Phật để di cư về Cõi Phật ? Niệm Phật không có khổ, không hy sinh mạng sống, không bán rẻ lương tâm. Ngược lại, hiện tiền sống lâu mạnh khỏe. Chúng ta phải biết lợi dụng cái thân giả tạm này để mà đổi lấy thân kim Phật.
Nếu chúng ta biết lợi dụng nó để tu, thì nó chính là ân nhân của chúng ta. Còn nếu chúng ta không biết lợi dụng nó để tu, thì thân giả tạm này chính là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Vì nó mà chúng ta ăn ngủ không yên, đọa lạc vào tù, đội gông, luân hồi, đau đớn thể xác v.v. Tất cả đều là vì nó mà ra, nó không phải là kẻ thù, vậy thì còn ai?
Ngày nay, vẫn còn rất nhiều gia đình có con gái mới lớn, cha mẹ đều mong con gái lấy được chồng nước ngoài. Trước là đỡ tấm thân, hai là có thể giúp đỡ gia đình. Cũng vì ý nghĩ này, đã khiến biết bao nhiêu cô gái trẻ phải chịu hy sinh hạnh phúc, dang dở cả đời. Cũng có nhiều cô ham vật chất xa hoa rồi tự đọa lạc bản thân, tất cả khổ đau cũng chỉ vì tiền.
Nếu bậc làm cha mẹ như chúng ta muốn cứu gia đình, thì chỉ có một cách duy nhật vẹn toàn vĩnh cửu: là dẫn dắt gia đình, con cái tu niệm Phật. Cùng nhau di cư về Cõi Phật, xa lìa thế giới tà ma đâu khổ này. Đây mới là tình thương chân thật vĩnh cửu.
Hãnh Diện Cho Phụ Nữ, Thương Cho Nam Giới
Sau khi xem xong những cuộn phim niệm Phật thất ở chùa Hoằng Pháp, huyện Hốc Môn Việt Nam, và phim Phật Thất của các chùa trong lẫn ngoài nước, tôi thật hãnh diện về phụ nữ chúng ta thời nay phi thường, có trí tuệvà can đảm. Nhìn đâu đâu, dù Phật tử đến chùa hay Phật tử tại gia, phụ nữ chúng ta đã chiếm kỷ lục tới 90/100, còn nam giới chỉ có 10/100.
Thương là thương cho các ông thời nay vẫn còn ôm “cái ta” quá lớn, nhưng lại quên đi trách nhiệm lớn lao của mình, nên phụ nữ chúng tôi thời nay coi chuyện lấy chồng là một gánh nặng phiền phức, là khổ sai chung thân. Các ông không tự suy xét lại, vội cho phụ nữ chúng tôi thời nay chạy theo phong trào thời thế, đánh mất đi phẩm hạnh và trách nhiệm của một người đàn bà (nếu phụ nữ chúng tôi đánh mất phẩm hạnh, thì đâu chiếm kỷ lục 90/100)
Chúng tôi xưa nay chưa bao giờ đánh mất trách nhiệm. Không những vậy, chúng tôi còn phải gánh luôn cái gánh nặng của các ông. Người đời thường ví đàn ông là bóng mát, là cột trụ, là điểm tựa để bảo vệ đất nước, gia đình và vợ con. Vì vậy mà xưa nay phụ nữ chúng tôi, lúc nào cũng mong lấy được một tấm chồng để mà nương tựa. Không ngờ sau khi lấy chồng, chúng tôi không được bảo vệ, ngược lạicòn mang thêm nhiều gánh nặng phiền phức. (xin các ông đừng hiểu lầm cho là tôi quơ đủa cả nắm, lời tôi nói hoàn toàn là sự thật. Các ông không tin thì đi tìm sự thống kê của thế giới. Không phải chỉ riêng phụ nữ Việt Nam chúng tôi thời nay sợ lấy chồng, mà là phụ nữ của toàn thế giới, nhưng nước Nhật là trầm trọng nhất. Nên nhiều năm qua chính phủ Nhật lo sợ, tương lai nước Nhật sẽ không còn thế hệ trẻ).
Xưa kia trong thời chiến loạn, các ông vì bảo vệ đất nước, phụ nữ chúng tôi phải chịu mọi đâu khổ gánh nặng đa đoan. Sau khi thời thế thay đổi, các ông không còn gánh nặng bảo vệ đất nước, thì ít ra cũng phải lo bảo vệ cha mẹ, vợ con và gia đình. Đằng này, một số lại làm ngơ. Chuyện xã hội, gia đình, con cái, v.v. đều do chúng tôi gánh lấy.
Rồi hôm nay, thế giới, vũ trụ, lòai người đang đối diện với lửa tà ma. Các ông không ủng hộ chung lo, vội cho chúng tôi đàn bà không làm lên cái trò trống gì, suốt ngày chỉ biết tụm năm tụm ba, tin dị đoan, bỏ bê chuyện nhà, cứ lo tới chùa tụng kinh niệm Phật.
Nếu các ông thật sự hiểu thời thế, có trách nhiệm với đất nước, cha mẹ và gia đình, thì các ông đã dẫn dắt cha mẹ già, vợ yếu, con thơ tu niệm Phật ngày đêm, để vượt biên ra khỏi cái thế giới sắp tận thế, do tà ma đang làm chủ. Các ông hãy nhìn thử xem: đâu đâu cũng là thiên tai, nạn đói, bệnh hoạn ngặt nghèo không thuốc chữa, độc tố tràn lan, tham dâm đầy dẫy, loạn lạc khắp nơi, khủng bố trong ngoài, đạo đức suy đồi, khí độc đầy trời, chúng ma nổi loạn, trong phá ngoại hợp, chúng sanh điên đảo lầm than. Đạo pháp từ từ bị thiêu diệt, loài người biến thành ma quái. Thay vì trước kia các ông cầm súng xông pha chiến trường, mỗi một viên đạn là đánh đuổi kẻ thù. Bây giờ, các ông có thể dụng công niệm Phật, một câu Phật hiệu cứu được vô số chúng sanh. Cứu gia đình, bản thân và cứu thân bằng quyến thuộc, cùng nhau thoát khỏi biển lửa tà ma, về Cõi Tây Phương an lạc vĩnh cửu. Đây mới là trang nam tử. (tôi viết bài này với một tâm ý thành khẩn, hoàn toàn không có ý phê bình mong các ông thông cảm)
Thế gian nội, ngoại, tà ma phá
Con người điên đảo, bởi tiền danh
Tiền, danh, là lối vào ngạ quỷ
Danh, tiền, là địa ngục triền miên.
Tiền, danh, là những tờ giấy lộn
Danh, tiền giả tạm, lắm mùi tanh
Một mai nằm xuống, danh, tiền mất
Thân thành tro bụi, đọa về đâu?
Niệm Phật một câu, đáng ngàn vàng
Xây đài sen báu, Cõi Tây Phương
Đổi thân giả tạm, thành thân Phật
Sen báu ta ngồi, Tam Thánh đưa!
Trước mặt khen đẹp, sang, tốt, quý;
Quay lưng chê xấu, tệ, bần, cùng.
Trước mặt vồn vã, thương, thân thiết,
Quay lưng chửi bới, chẳng chừa chi.
Người đời giả dối, không nhàm chán,
Gạt cả lương tâm, gạt cả người.
Danh, tiền, tình, bạn luôn giả dối.
Thâm tình giả thật, khó biệt phân.
Thế gian giả dối không cùng tận
Đóng kịch đêm ngày, thật đáng thương.
Cần chi trả tiền, xem chiếu bóng
Trước mặt hằng ngày, kịch, hề, phim.
Buồn Cho Những Chuyện Bất Công
Lúc tôi còn nhỏ, mỗi lần đến ngày giỗ, tôi thấy ba mẹ tôi giết nhiều gà vịt để cúng ông bà. Lúc đó, tôi không hiểu gì về đạo, nhưng được mẹ hay dạy bảo là không nên sát sanh, vì nếu sát sanh thì sẽ có tội. Mẹ tôi thì dạy chúng tôi như vậy, nhưng ngày tết hoặc ngày giỗ, thì mẹ tôi lại cắt cổ nhiều gà vịt. Vấn đề này làm tôi thắc mắc, tôi thấy mẹ tôi làm không đúng, vì mẹ tôi dạy không nên sát sanh, nhưng mẹ tôi lại giết gà vịt để cúng ông bà, vậy đã đi ngược lại lời dạy của Người.
Tôi cứ suy nghĩ mãi, nhưng không dám hỏi vì sợ mẹ la rầy. Nhưng vì bẩm tánh sanh ra là nhiều chuyện, nên không chịu nổi, vì vậy tôi hỏi mẹ tôi. Tôi hỏi: “Mẹ ơi, tại sao đến ngày giỗ mà mẹ giết nhiều gà vịt như vậy, bộ mẹ không sợ ông bà mình mang tội hay sao?” Mẹ tôi lúng túng không muốn trả lời câu hỏi của tôi. Mẹ tôi nói: “Con còn nhỏ, biết gì mà hỏi” rồi mẹ kêu tôi đi chỗ khác, vì mẹ tôi đang bận. Tôi bỏ đi, nhưng không cam lòng.
Một hôm, thấy mẹ rảnh, tôi lại gần hỏi: “Mẹ ơi, tại sao đến ngày giỗ ông bà, mà mẹ giết nhiều gà, vịt, bộ mẹ không sợ ông bà mình mang tội hay sao?” Mẹ tôi lúng túng, không biết làm sao để trả lời câu hỏi của tôi. Tôi muốn biết sự thật, nên tôi hỏi tiếp. Tôi hỏi: “Mẹ thường dạy tụi con không nên sát sanh, dù là những con vật nhỏ như con kiến, con nhện, mẹ đều khuyên không nên giết chúng nếu tha được thì nên tha. Nhưng tại sao con gà, con vịt lớn như vậy mà mẹ cắt cổ tụi nó? Mẹ không sợ bị mang tội hay sao?”
Mẹ tôi xúc động ứa nước mắt, mẹ tôi nói: “Mẹ rất sợ con hỏi mẹ những lời này, vì chính mẹ thấy cũng không đúng. Nhưng vì từ ngày lấy ba của con, vì bổn phận làm vợ, mẹ phải nghe theo. Thú thật với con, mẹ rất sợ giết gà giết vịt. Mỗi lần mẹ làm thịt chúng nó, là đêm về mẹ ngủ không yên. Nhưng nếu không làm theo ý ba con, thì ba con sẽ đánh mẹ”. Mẹ tôi nói tiếp: “Lỡ sau này mẹ có mất, nếu con có hiếu, thì đừng giết gà vịt để mà cúng mẹ. Nếu thương mẹ, thì chỉ cúng cho mẹ một con cua luộc và một chén muối tiêu”.
Nghe mẹ tôi nói đến đây, tôi bỏ chạy vì sợ mẹ thấy tôi khóc. Tôi chạy xuống bờ biển (vì nhà tôi gần biển) tôi vừa khóc vừa hét, cho vơi đi nỗi uất ức ở trong lòng. Tôi khóc cho sự bất công của mẹ tôi. Tại sao mẹ tôi khổ như vậy? Vì sợ chồng mà phải sát sanh, phải làm những chuyện mà mình không muốn làm. Tôi giận ghét ba tôi, vì ba tôi là một người đọc tài. Vì thấy ba hay đánh mẹ, nên từ nhỏ tôi đã chán ghét cảnh vợ chồng; tôi ghét sự bất công (tôi kể chuyện ba tôi cho các bạn nghe, không phải là tôi bất hiếu, mà tôi mong các bạn hãy dừng tay lại, đừng gây thêm tội lỗi, vì vũ lực không giải quyết được vấn đề mà chỉ gây thêm đâu khổ cho con cháu và tạo thêm ân oán cho kiếp sau). Từ đó tôi hay đi tìm hiểu chuyện thế gian và thấy đâu đâu cũng là đau khổ, đâu đâu cũng giết gà, vịt, heo, bò để cúng tế.
Tuổi đời càng lớn, hiểu biết càng nhiều, đau khổ càng tăng. Tôi nhìn cảnh đời, không biết nên khóc hay nên cười. Lúc cha mẹ còn sống, chúng ta không lo tròn chữ hiếu. Đợi khi cha mẹ chết thì lập bàn thờ cho lớn, đến ngày giỗ thì tựu họp gia đình, bà con, cúng cho thật nhiều để lấy tiếng là ta đây có hiếu. Sau đó ăn uống, nhậu nhẹt cho thỏa lòng. Chúng ta vô tình biến ngày giỗ thành ngày ăn mừng và sát sanh.
Chúng ta có bao giờ ngồi suy nghĩ, hay lắng nghe những tiếng khóc than của cha mẹ chúng ta nơi địa ngục, hay tiếng than lạnh lẽo của các hồn ma không được siêu thoát? Chúng ta nghĩ cha mẹ chết, được chôn mồ mả đàng hoàng là đã tròn chữ hiếu hay sao?
Cũng có một số người có hiếu thật sự, nhưng vì không hiểu đạo, chỉ thấy tổ tiên ông bà làm sao thì làm theo như vậy. Chúng ta không đi tìm hiểu Phật pháp, không tìm hiểu lý lẽ của lương tâm. Chúng ta cứ nghĩ ông bà tổ tiên chúng ta là đúng.
Nhưng chúng ta có dám bảo đảm, tổ tiên của chúng ta ai cũng đúng hết không? Tổ tiên của chúng ta có cái đúng, cũng có cái sai, vì tổ tiên chúng ta cũng là người thường giống như chúng ta. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ thành tổ tiên của con cháu chúng ta sau này, có phải vậy không?
Nhưng bản thân chúng ta hiện tại đã và đang làm sai, mà chính bản thân chúng ta còn không hay biết. Vậy chúng ta có cần dùng lý trí, lương tâm để mà suy xét lại không? Chuyện gì nên làm, chuyện gì không nên làm, hầu giúp cho thế hệ con cháu của chúng ta sau này.
Chúng ta cúng cha mẹ là đúng không có sai. Điều sai là ở chỗ chúng ta ăn mặn là chuyện của chúng ta, còn cúng cha mẹ thì xin cúng chay. Vì khi cúng mặn là chúng ta sát sanh, khiến cho ông bà cha mẹ bị mang tội thêm. Vậy có khác gì chúng ta làm con bất hiếu?
Còn chuyện này thấy mà đau lòng. Vì muốn làm ăn phát tài, nên chúng ta cúng ông địa và Thần tài. Chúng ta tưởng làm như vậy, ông địa và thần tài sẽ phù hộ. Không ngờ chúng ta đang tạo tác mà không hay.
Tại sao lại gọi là tạo tác? Tại vì chúng ta đang đem Chư Phật ra làm trò hề và phỉ báng. Tại sao? Vì ông địa và Thần tài không phải là Phật. Nhưng nếu có ai hỏi, thì đa số chúng ta trả lời là cúng Phật, khiến cho nhiều người ngoại quốc, các tôn giáo khác và con cháu của chúng ta, có cái nhìn ác cảm về đạo Phật. Vì vậy, vô tình chúng ta đã khiến cho nhiều thế hệ trẻ và con cháu của chúng ta bỏ đạo Phật theo đạo người.
Chúng ta bình tâm mà suy nghĩ lại. Chúng ta sẽ thấy sự tạo tác, tội lỗi mà chúng ta đang làm. Chúng ta hằng ngày đang thờ những tượng ông địa và Thần tài miệng cười toe toét, cổ thì đeo chuỗi, hai tay ôm thỏi vàng thật lớn giơ lên cao như dụ người ta tham tiền, có tượng còn cầm thuốc hút. Thậm chí, có người còn bỏ thuốc vào miệng cho ông địa hút. Hành động phỉ báng này quá trắng trợn, như đem Chư Phật ra làm bia và đem thần linh ra làm trò hề. Nếu cha mẹ của chúng ta đứng trước mặt, làm những hành động mất đạo đức đó; thử hỏi chúng ta có kính phục không, hay là cảm thấy xấu hổ? Chúng ta là người thường, còn không thể chấp nhận được những hành động đó; vậy tại sao chúng ta lại đem Chư Phật ra làm bia để cho người ta hiểu lầm?
Có nhiều người ngoại quốc, lẫn giới trẻ Việt Nam và các tôn giáo khác thắc mắc, thường hỏi tôi: “Tại sao Phật lại dạy người ta tham tiền và hút thuốc, trong khi hai thứ này là hại người? Rồi tại sao Phật lại dạy người ta cúng đủ thứ, có cúng mới có phù hộ?” Mỗi khi tôi nghe họ hỏi, hay nghe những câu trả lời không hiểu của người Việt chúng ta. Tôi thật là đau lòng vô cùng, vì không có gì đau lòng bằng, chính người đạo Phật đem Chư Phật ra phỉ báng. Vô tình chúng ta hại không biết bao nhiêu là chúng sanh. Chúng sanh đó là ai? Là con cháu của chúng ta.
Chúng ta thờ ông địa và Thần tài không có sai; chỉ sai ở chỗ chúng ta không nên thỉnh những hình tượng mất đạo đức đó (vì người đúc tượng chưa hẳn là đúng, họ đang tạo tác mà họ không hay). Chúng ta nên thỉnh những hình tượng rõ ràng không được lẫn lộn (nghĩa là: thần ra thần, Phật ra Phật. Không thể lẫn lộn Phật với thần, vì thần không có đeo chuỗi, còn Phật không có cầm vàng hay cầm thuốc hút). Còn cúng thì chỉ cúng trái cây và nước, không nên cúng mặn. Nếu có ai hỏi chúng ta đang cúng ai, chúng ta trả lời là cúng Thần làm ăn. Chúng ta không nên trả lời là cúng Phật, vì Phật và Thần khác xa. Tại sao? Vì người còn cao hơn thần.
Chúng ta làm ăn nên tin dị đoan vậy thôi, thật ra không có Thần nào phù hộ cả. Nếu chúng ta muốn làm ăn phát tài, gia đình hạnh phúc, thì nên niệm Phật, bố thí giúp người, chúng ta sẽ có phước đức và công đức. Thay vì số tiền mua trái cây, heo bò, gà vịt để cúng ông địa và Thần tài, chúng ta dành lại bố thí cho những kẻ ăn xin thì phước đức còn nhiều hơn. Không những có phước đức hơn, mà còn tránh không bị mang tội phỉ báng Chư Phật và đụng chạm đến Thần linh.
Có một số chúng ta si mê đến mức độ đáng thương, vì muốn làm ăn phát tài nên giết heo bò, gà vịt để cúng trời Phật, tế Thần linh. Chúng ta coi Phật và trời đất không ra gì. Đến khi làm ăn thất bại không được như ý, thì trách Phật, ông trời và Thần chẳng linh. Như vậy có tội lỗi không? Không những vậy, mà còn một điều tai hại nữa là, nếu có ai hỏi chúng ta đạo gì? Thì chúng ta trả lời: tôi đạo Phật. Như vậy có oan ức cho Chư Phật không? Chúng ta nói chúng ta đạo Phật, nhưng chẳng hiểu gì về đạo Phật cả. Nếu là đạo Phật, thì cái căn bản nhỏ nhất chúng ta cũng chẳng hiểu, đó là không nên sát sanh. Đằng này, chúng ta cúng cả con bò, con heo. Ai hỏi chúng ta cúng ai? Thì chúng ta trả lời cúng Chư Phật và Thần linh. Như vậy có khác gì chúng ta phỉ báng Chư Phật và đụng chạm đến Thần linh?.
Chúng ta vô tình làm cho các tôngiáo khác nghĩ đạo Phật là tin dị đoan, nghĩ Chư Phật là thánh mà còn ăn hối lộ, có cúng mới có phù hộ. Thử hỏi tội lỗi này, chúng ta gánh có nổi không? Cho nên trước khi trả lời, chúng ta hãy nhìn lại hành động của chúng ta, có xứng đáng là đệ tử của Phật hay là người của đạo Phật không? Có nhiều người đạo ông bà mà tưởng lầm mình là đạo Phật, vì đạo Phật không có tin dị đoan. Đạo Phật là vạn lần chân thật.
Giàu sang, hạnh phúc nhờ tạo phước
Nào phải Phật, Thần phù hộ ta!
Khổ sở, bần cùng, tại nghiệp báo
Nào phải Phật, Thần trừng phạt ta!
Phật dạy danh, tiền là tạo tác
Sát sanh là nghiệp báo triền miên
Phật nào dạy tham tiền, hút thuốc
Sao bạn đành đem Phật làm bia!
Bạn ơi mau thức tỉnh hồi đầu
Đừng tham đắm, tạo thêm nghiệp oán
Hại bao đời con cháu về sau
Hại thân ta đọa vào đường ác.
Tôi là một người không có học thức cao, không có phước đọc được nhiều sách của thánh hiền, tôi chỉ làm theo lý lẽ và lương tâm. Ở đây, tôi chỉ nói lên cách nhìn riêng của tôi về ý niệm của ngày giỗ. Ngày giỗ đối với tôi, là ngày tựu họp con cháu gia đình, ngồi lại cùng nhau niệm Phật, cầu siêu cho cha mẹ mau được siêu thoát. Phần sau cùng là để có dịp nhắc nhở cho nhau nghe, sống sao cho đúng làm người và đừng quên công ơn của cha mẹ. Riêng tôi, một năm có 365 ngày, ngày nào cũng quan trọng giống nhau, ngày nào cũng là ngày giỗ và ngày báo hiếu.
Còn cúng là cúng cái tâm chân thật của chúng ta, không phải cúng vật chất hay mâm cao cỗ đầy. Vì chúng ta cúng càng nhiều thì chúng ta ăn càng nhiều, cha mẹ chúng ta nào có ăn miếng nào đâu? Chúng ta cúng càng lớn thì sát sanh càng nhiều, không những bản thân chúng ta mang tội, mà ông bà cha mẹ của chúng ta còn mang tội nặng gấp đôi.
Tại sao?
Cha mẹ chúng ta mang tội là vì vô hình chung, tại ngày giỗ của cha mẹ mà chúng ta mới giết gà vịt, heo bò để cúng. Có phải là cha mẹ chúng ta đã chết rồi mà vẫn còn hại người (súc sanh vẫn là người đầu thai). Vậy có khác gì chúng ta làm cho cha mẹ bị mang tội thêm? Cũng là một việc làm, nhưng một bên là có hiếu, còn một bên là bất hiếu. Chỗ khác biệt là: chúng ta ăn mặn là chuyện của chúng ta, còn cúng cha mẹ thì xin cúng chay. Nếu chúng ta không mau thức tỉnh, kẻ hại kế tiếp sẽ là chính bản thân chúng ta. Tại sao? Vì chúng ta sẽ phải chết! Con cháu chúng ta tiếp tục sát sanh trong ngày giỗ. Vậy thử hỏi, oan oan tương báo đến bao giờ mới dứt?
Chúng ta không cầu siêu cho cha mẹ đã là bất hiếu, vậy lòng dạ nào làm cho cha mẹ bị mang tội thêm? Người đời thường nghĩ: “Nếu không cúng đầy đủ, cha mẹ sẽ bị đói; đốt giấy bạc, vàng mã để cho cha mẹ có xài”. Vậy một năm cúng một bữa, còn các bữa khác thì sao?
Riêng tôi, nếu thật sự chúng ta có hiếu, chi bằng chúng ta niệm Phật từ bây giờ. Niệm cho cha mẹ hiện tiền, niệm cho mười đời ông bà cha mẹ đã mất. Không những vậy, chúng ta còn niệm cho bản thân, gia đình, con cái và niệm cho tất cả chúng sanh. Làm những hạnh nguyện mà khả năng chúng ta cho phép, rồi hồi hướng cho cha mẹ và chúng sanh. Đây mới là đạo hiếu vẹn toàn.
Thương Cho Người Đời Mâu Thuẫn
Lúc tôi còn nhỏ, mỗi lần cúng giỗ, ba tôi hay bắt chúng tôi đứng trước bàn thờ khoanh tay hầu. Đợi đến gần hết cây nhang, mới kêu chúng tôi tới lạy. Trước lạy, sau cầu xin ông bà tổ tiên phù hộ cho được mạnh khỏe bình an. Lúc tôi còn nhỏ không hiểu gì nên tôi làm theo. Đến khi hơi lớn một chút, tôi thấy hàng xóm có người chết, làm đám ma. Tôi chạy qua coi, thấy có nhiều thầy tu tụng kinh cho người chết.
Tôi không hiểu nên hỏi mẹ về vấn đề này. Mẹ tôi nói: các thầy tới tụng kinh cầu siêu cho vong hồn người chết được siêu thoát. Lúc đó, tôi không hiểu cầu siêu, siêu thoát là gì? Tôi hỏi thêm, mẹ nói: cầu siêu là giúp cho vong hồn của mình được đi lên trời, hay đi đầu thai được suông sẻ, không bị ở lại làm ma lạnh lẽo, đói khát.
Tôi nghe xong cảm thấy có điều gì kỳ lạ, tôi tự hỏi: tại sao ngộ vậy? Cha mẹ mình chết thì mình mời các thầy tới tụng kinh để cầu siêu, là mong cho cha mẹ mình được đi dễ dàng, sợ cha mẹ ở lại đây làm ma lạnh lẽo, đói khát. Vậy tại sao ba mình lại dạy mình, cầu xin ông bà tổ tiên phù hộ cho mình được mạnh khỏe bình an, vậy đâu có đúng? Mà ba phải kêu mình cầu xin ông trời phù hộ cho ông bà đi được càng sớm càng tốt mới đúng chứ. Tại sao kỳ vậy? Rồi tôi suy nghĩ, tại sao một mặt mời thầy cầu siêu cho cha mẹ được siêu thoát, còn mặt khác thì lại cầu xin họ ở lại bên cạnh để phù hộ cho mình, như vậy thật là vô lý quá? Mà dù họ có ở lại đây, thì họ là ma làm sao phù hộ được cho mình? Vì mẹ mình nói: “Nếu họ đi không được, thì họ sẽ làm ma lạnh lẽo, đói khát”. Vậy chính họ lo cho họ còn chưa xong, làm sao phù hộ được cho mình? vả lại, mỗi lần ba mình cúng là đốt giấy vàng mã, nói là đốt để cho ông bà có xài, còn cúng là để ông bà có ăn. Như vậy ai phù hộ ai? Còn ai giúp ai? Thật là khó hiểu quá!
Sau này tới lớn, tìm hiểu rõ ràng, tôi mới thấy người đời thật là mâu thuẫn tức cười. Đi tới đâu, tôi cũng nghe người đời cầu xin cha mẹ, hay ông bà phù hộ cho con thế này thế khác. Tôi không nghe thấy người đời cầu siêu cho cha mẹ, hay những vong hồn khuất mặt được mau siêu thoát. Thậm chí có một số người, cha mẹ chưa kịp nhắm mắt đã vội dặn dò: nhớ phù hộ cho con nghe! Đừng bỏ con. Hỏi người đời như vậy có đáng thương không?
Không hiểu họ vô tình không biết hay họ ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân, không nghĩ cho thân nhân của họ? Hay là họ thấy ông bà tổ tiên làm rồi họ làm theo? Họ không chịu dùng lý trí, lương tâm để tìm hiểu thế nào là đúng, thế nào là sai. Hay họ biết đó là sai, nhưng họ lại không đủ can đảm để phá tan cái phong tục tội lỗi đó? Hay họ muốn dùng mấy chữ phong tục tổ tiên để che đi tội lỗi lương tâm của họ?
Tại sao lúc nào họ cũng nghĩ, những người chết có một mãnh lực thần thông gì đó, vượt hơn cả người sống? Nên những người còn sống cứ mong mỏi những thân nhân đã chết, phù hộ cho họ. Tại sao họ không nghĩ ra người sống phải có trách nhiệm niệm Phật, cầu siêu cho các vong hồn đã chết, mong cho họ mau được siêu thoát? Chết là gì? Chết là không thể thay đổi được bất cứ một điều gì.
Cũng như một vật đã chết, làm sao có thể thay đổi được vật còn sống? Người sống có thể niệm Phật cầu siêu cho người chết, còn người chết, bản thân của họ lo còn chưa xong, làm sao phù hộ được cho người sống? Và mỗi một người khi chết đi, tùy theo nghiệp mà đầu thai chuyển thế hay bị đọa vào ba đường ác. Cũng có những vong hồn vì quá thương người thân của mình, hay chết oan ức, nên họ ở lại phù hộ cho người thân, hay để báo thù kẻ đã hại họ. Họ phải sống chui sống nhủi, lạnh lẽo cô đơn; cũng như những người sống ở ngoài vòng pháp luật, vĩnh viễn không có ánh sáng. Vậy lòng dạ nào mà mình xin phù hộ cho mình? Vậy có khác gì mình là người vô dụng? Tới người chết mà mình vẫn còn muốn lợi dụng, vậy thử hỏi lương tâm của mình để đâu? Có phải là mình quá ích kỷ không?
Cho nên người chết cần chúng ta giúp đở, còn nhiều hơn là giúp đỡ cho người sống. Còn những vong hồn nghĩ là: họ ở lại để phù hộ người thân, hay để báo thù. Họ si mê nên nghĩ vậy thôi, chớ thật sự họ cũng chẳng làm được gì cho người sống cả. Trách nhiệm chúng ta là phải niệm Phật ngày đêm để cầu siêu cho họ. Vì trong những vong hồn không được siêu thoát đó, có biết bao nhiêu là thân bằng quyến thuộc của chúng ta?
Muốn Cứu Con Phải Dùng Tình Thương Cứng Rắn.
Tôi là mẹ nên hiểu nỗi khổ của người làm mẹ. Làm đàn bà như chúng ta, khổ vì chồng còn có thể chịu đựng nổi, nhưng không có khổ nào bằng cái đau khổ vì con. Thời buổi ngày nay, 10 gia đình thì hết 9 gia đình đau khổ vì con. Lúc con tôi còn nhỏ, tôi đã tập cho con tôi tánh mạnh dạn và tự lập, nên những lúc con tôi té, tôi không đỡ. Tôi để chúng nó tự mình đứng dậy. Đến khi con tôi biết nói rành, con tôi hỏi: “Tại sao con té mà mẹ không đỡ?” Tôi nói: “Bây giờ con té có một chút xíu, con tự đứng dậy không nổi; vậy sau này con còn phải đối diện với biết bao nhiêu sóng gió ở ngoài đời, làm sao con chống nổi?”
Từ đó, lỗi lần bị té là các con tôi tự động đứng dậy, có lúc bị trầy chảy máu cũng không dám than vì sợ tôi la. Tuy tôi không đỡ những lúc con tôi bị té, nhưng con đau một, mẹ đau mười phần. Vì muốn bảo vệ các con nên đã nhiều năm, tôi không muốn bước thêm bước nữa. Tuy tôi đã cho con tôi đầy đủ vật chất và tình thương, nhưng trong tâm tôi vẫn thấy có lỗi, vì tôi không cho các con tôi được một người cha tốt.
Thời gian trôi qua, con trai tôi bước vào tuổi 16, theo bạn bè bỏ học, sa đọa vào chốn ăn chơi, nó về nhà đòi hỏi đủ thứ. Nếu không cho nó những thứ nó muốn thì nó sẽ bỏ học. Lúc đầu, tôi không chịu vì bản tánh tôi rất cứng rắn. Nhưng vì cảm thấy lỗi cũng tự nơi tôi, đã không cho nó một người cha tốt để dạy dỗ. Phần nghe lời bạn bè chung quanh, họ khuyên tôi không nên nghiêm kkắc quá, sẽ làm con tôi bỏ nhà ra đi. Lúc đó, tôi biết bạn bè tôi nói không đúng, nhưng họ cứ nói: “Nó muốn gì thì cho nó đi, miễn sao nó chịu học là được rồi”:
Tôi từ từ đánh mất chính tôi, còn con tôi thì nắm được yếu điểm của tôi. Nó lợi dụng tình thương của tôi để điều khiển tôi. Bắt đầu nó đòi mua xe, giầy, quần áo tất cả đều là những thứ mắc tiền. Nếu không cho thì nó đòi bỏ học và bỏ nhà ra đi. Đôi lúc không có tiền, tôi cũng mượn nợ mua cho con tôi.
Nhưng rồi càng làm theo ý nó, thì nó càng hư và tôi trở thành con rối để cho con tôi điều khiển. Tôi tưởng dùng tình thương mềm dẻo, sẽ cảm động được lòng con, mong con hồi đầu thức tỉnh. Nhưng nó chưa thức tỉnh, thì tôi đã bị khủng hoảng; sống không nổi mà chết cũng không xong. Trong cuộc đời, tôi coi nặng nhất là các con tôi; con là lẽ sống, là hy vọng của tôi. Vì con, mà tôi có đủ can đảm vượt qua những bước đường chông gai nhất cuộc đời.
Đến khi thấy con tôi bị sa đọa, lẽ sống và hy vọng của tôi không còn. Tôi cảm thấy trên đời này không còn gì để sống. Tôi quẫn trí, có đôi lần suy nghĩ thà tôi giết nó, còn hơn để nó hại người và tôi cũng muốn kết liễu đời tôi để khỏi còn đau khổ. Lúc đó, Tôi quá đau khổ nên quên đi cả niệm Phật. Sự đau khổ mỗi ngày làm tôi như sống trong địa ngục, kéo dài gần hai năm.
Một hôm, tôi tới đường cùng nên gọi cảnh sát. Tôi nói họ là hãy bắt tôi vào tù ngay, nếu không tôi sẽ giết người. Họ hỏi tôi giết ai? Tôi nói giết con trai tôi và tôi giết tôi. Họ sợ quá chạy lại liền. Họ đưa tôi đi bác sĩ tâm thần và hướng dẫn tôi vào học lớp học tình thương cứng rắn.
Đây là chương trình dành cho những cha mẹ bị con cái hành hạ và điều khiển. Họ dạy tôi làm sao đối phó với con tôi. Vào đây, tôi mới thấy những người chung quanh đều bị hoàn cảnh giống như tôi. Họ là những bậc cha mẹ đau khổ, nhìn ai cũng đẫm lệ, thân tàn ma dại. Vào đây, tôi mới thấy có nhiều cha mẹ còn đau khổ hơn tôi.
Sau khi học được hai khóa, thì ra cách dạy con tôi trước kia là đúng, vì nghe theo lời nói bạn bè chung quanh nên tôi đã đánh mất chính tôi. Sau khi bừng tỉnh, tôi không còn sợ lương tâm cắn rứt. Tại sao? Vì trước khi, tôi lúc nào cũng nghĩ là tôi có lỗi, đã không cho con tôi một người cha tốt. Tôi cứ sợ nếu không chìu theo ý nó, lỡ nó có bề gì thì tôi là người có tội. Ý nghĩ đó của tôi hoàn toàn sai. Tôi không có lỗi vì tôi đã làm tròn bổn phận người mẹ, còn hư là tự bản thân nó, không phải tự nơi tôi.
Sau khi hiểu rõ, tôi quyết tâm đứng dậy, phải lấy lại hết khí phách, cương nghị làm mẹ của tôi, để đối phó với đứa con mất dạy này. Tôi không thể vì một mình nó, mà kéo cả gia đình tôi xuống vực sâu. Nó đã làm cho cả gia đình tôi đau khổ, tôi thà mất một đứa còn hơn mất cả ba.
Ở đây, tôi xin chia xẻ một chút kinh nghiệm đã trải qua của tôi, mong là một chút kinh nghiệm này, có thể giúp quý bạn tự tìm cho mình một con đường giải thoát. Chúng ta phải cho con của chúng ta nếm mùi “gậy ông đập lưng ông”. Bước đi này sẽ rất khó khăn, nhưng nếu muốn cứu con chúng ta và gia đình thì chúng ta phải can đảm.
Chúng ta phải dùng cách nhà binh, chúng ta không coi chúng là con, mà phải coi chúng là những binh lính. Làm như vậy, mỗi khi chúng nó chửi, chúng ta sẽ đỡ tức hơn. Muốn đối phó với chúng nó, chúng ta phải cần bình tĩnh, thì mới làm cho chúng nó sợ. Chúng ta không cần la chửi chi cả, chỉ cần hành động.
1. Về mặt tâm lý, càng bình tĩnh càng tốt, đừng để cho chúng nắm được yếu điểm của chúng ta.
2. Hành động cứng rắn, rõ ràng và không nhượng bộ.
3. Phải can đảm nhìn nỗi đau khổ của con mình.
Phải cho chúng gánh lấy mọi hậu quả của chúng gây ra, không giúp đỡ chúng bất cứ điều gì ngoài bổn phận làm cha mẹ. Nếu chúng về quá giờ ấn định, khóa cửa để chúng ngủ ngoài đường. Bỏ học thì cứ để chúng bỏ học, nhưng bỏ học thì không được vào nhà. Mắc nợ thì chúng tự trả. Bị bắt thì vào tù, không nên đem tiền bảo lãnh chúng ra. Tóm lại, bất cứ điều gì chúng gây ra thì chúng phải gánh trách nhiệm.
Chỉ có bị đau thì chúng mới tỉnh; cũng như kẻ đang say rượu, chúng ta nói gì hắn cũng không nghe, không tỉnh được. Chỉ có đánh hắn thật đau, tạt nước thật lạnh nhiều lần thì hắn mới tỉnh. Đối phó với con của chúng ta cũng vậy. Làm cha mẹ, ai mà không đau khổ khi thấy con chúng ta đọa lạc tù tội. Con đau một, cha mẹ đau mười phần. Nhưng thà là như vậy, mà chúng ta cứu được con của chúng ta. Lời ông bà mình thường nói “Đòn đau nhớ đời, té đau mới tỉnh”
Trong lúc nhìn con của tôi đau khổ, tôi ngày đêm niệm Phật thế cho con tôi và cũng niệm cho chính tôi. Chỉ có câu Phật hiệu A Di Đà mới cứu và xoa dịu vết thương trong lòng mẹ con tôi. Cuối cùng tôi đã cứu được con tôi. Nó từ đen trở lại trắng, rất siêng năng niệm Phật và làm người tốt. Tôi xin chúc quý bạn thành công và vơi đi nỗi đau khổ, tìm lại sự bình an trong tâm hồn.
Trước kia, vì nghèo khổ nên tôi luôn luôn tự ti mặc cảm, đi tới đâu cũng sợ người ta chê cười. Tôi luôn luôn hiểu câu ông bà thường dạy: làm việc gì, miễn không bị lương tâm cắn rứt là đủ rồi, sợ gì người ta cười. Hiểu thì hiểu vậy, nhưng tôi vẫn sống giữa thiên hạ thì làm sao tránh khỏi sự tự ti mặc cảm? Không những mặc cảm cho riêng tôi, mà mặc cảm cho các con và gia đình tôi ở Việt Nam.
Nói về giúp người hay bố thí, tôi đã làm hết sức nhưng chẳng được bao nhiêu. Thấy người ta quyên tiền hay bố thí một lần bạc trăm, bạc ngàn, còn tôi vét hết tài sản mà chẳng được bao nhiêu. Nguời ta được đi đây đó để làm việc từ thiện, còn tôi chẳng giúp được gì.
Nói về việc tu học, người ta được đến chùa tu học, gần gũi với các bậc thầy thiện tri thức, gặp gỡ được bạn đồng tu; còn tôi, một chút thời gian cũng không có. Nói về vật chất sinh hoạt cuộc sống, tôi qua Mỹ hơn 20 năm, người ta qua sau, ai nấy cũng có nhà cao cửa rộng, xe cộ sang đời mới. Nhìn lại thân tôi, nhà không có, xe thì đời cũ, nay nằm đường mai bị kéo. Bạn bè đồng nghiệp, quần áo nay bộ này mai bộ kia, còn tôi thì cứ xào đi xào lại.
Sau này, nhờ đọc một câu chuyện trong bút ký, tôi mới hết mặc cảm về chuyện bố thí giúp người. Câu chuyện nói về một cô gái ăn xin không có tiền, nhưng lại muốn cúng dường Chư Tăng. Một hôm, cô nguyện sẽ dùng hết tiền ăn xin của ngày hôm đó để cúng dường.
Xin cả ngày chỉ được vài cắc tiền, cô suy nghĩ, không biết mua vật chi có thể cúng dường được hết Chư Tăng trong Chùa. Cuối cùng, cô dùng số tiền đó mua một bịch muối, đem đến nhờ thầy đầu bếp bỏ vào nồi canh. Như vậy là vị tăng nào cũng được dùng. Trên đường cô đi đến chùa, Ngài trụ trì đã biết trước, nên kêu Chư Tăng đánh kẻng nghinh đón Bồ Tát (nghĩa là cô ăn xin).
Nhờ có tấm lòng Bồ Tát nên cô gái đó được thay đổi số phận. Duyên lành đưa đẩy, sau này cô lấy hoàng tử và làm hoàng hậu. Bà hoàng hậu này còn nhớ ngôi chùa xưa, nên bà cùng người hầu đem cả xe vàng bạc, châu báu đến để cúng dường cho chùa. Nhưng kỳ này, Ngài Trụ Trì và Chư Tăng không đánh kẻng nghinh đón bà như trước kia. Bà thắc mắc hỏi Ngài trụ trì. Ngài đáp: xưa kia, bà đến đây đem cả một lòng bồ tát để cúng dường, Ngày nay, những thứ bà đem lại , không phải do mồ hôi công sức của bà làm ra, mà những thứ châu báu kia là của thần dân đóng góp.
Đọc xong câu chuyện đó, tôi mới thức tỉnh. Từ đó, tôi rất hãnh diện và vui vẻ, không còn mặc cảm vì tôi đã làm hết sức của tôi rồi. Thì ra giúp ít hay nhiều không quan trọng, mà diều quan trọng là chúng ta có dùng hết sức của chúng ta để giúp đỡ người hay không? Cũng như một người, trong túi chỉ có 1 đồng mà giúp hết 1 đồng, thì quý hơn người trong túi có 1000 đồng mà chỉ giúp có 100 đồng. Như vậy, người giúp 1 đồng kia có tấm lòng Bồ Tát cao cả hơn người giúp 100 đồng.
Sau khi hiểu được môn tu niệm Phật, tôi không còn mặc cảm là không được đến chùa tu học. Vì tôi đã có Phật, chùa và thầy ở tại gia. Từ đó, tôi siêng năng tu niệm và dẫn dắt các con tôi. Nhưng thú thật, tôi đã vượt qua được hai cái mặc cảm: bố thí và tu học. Nhưng cái mặc cả về nghèo khổ vật chất và phương tiện, tôi thật khó vượt qua.
Tôi học kinh sách Phật, hiểu tất cả thế gian là giả tạm. Hiểu là hiểu vậy thôi, nhưng những lúc dọn nhà, xe bị nằm đường hay nghe bạn bè khoe khoang: nào mua thêm nhà, nào đổi xe mới, nào con học trường nổi tiếng, nào tài sản đồ sộ để của hồi môn; tất cả lời nói, ánh mắt của họ nhìn tôi làm tôi thấy mặc cảm, rồi thấy tội nghiệp cho các con tôi.
Nhưng sau khi được nhất tâm, tôi như người chết đi sống lại; như người bị mù nhiều năm nay được sáng mắt. Thương cho tôi lâu nay ngu muội, sống mà như chết, thấy mà như mù. Uổng cho tôi hơn nửa đời người nhận giả làm chơn, rồi luôn luôn sống trong tự ti mặc cả. Giờ tỉnh ngộ mới biết, thì ra tôi giàu nhất thế gian mà tôi không biết (so với những người không tu đạo). Tại sao? Vì tôi đã có một đài sen ngàn cánh nhiệm màu nơi ao báu ở trên Cõi Phật. Tôi không còn cảm thấy có lỗi với các con tôi. Tuy là tôi không để cho chúng vật chất tiền tài của thế gian. Nhưng tôi đã cho chúng một trí tuệ, một đài sen đang được chúng hằng ngày bồi thêm công đức và một Cõi Phật đang chờ đón chúng.
Sau khi sống lại, tôi không còn mặc cảm mà lấy làm hãnh diện, vì con đường tôi lựa chọn cho bản thân tôi, các con và gia đình tôi ở Việt Nam là đúng không sai. Giờ tôi mới hiểu cho Đấng Từ Phụ, tại sao Ngài bỏ cha mẹ, vợ con, bỏ cả ngai vàng, để chọn con đường tu hành tìm con đường chân lý giải thoát? Nếu đạo Phật không có gì là cao siêu giải thoát, thì Ngài đâu dại gì mà bỏ hết tất cả.Vì Ngài là người có trí tụê viên mãn, nên Ngài thấy thế gian tất cả là giả tạm vì vậy mà Ngài buông xả. Sau khi tỉnh ngộ, tôi thật thương cho những ai còn mãi tham đắm với tình tiền, danh lợi của thế gian.
Là thân đàn bà nên tôi hiểu được nỗi khổ của người làm vợ, làm mẹ. Tôi cũng là người vợ và người mẹ bất hạnh như quý bạn. Sanh ra làm thân đàn bà là đã biết chịu nhiều đau khổ, không ai có thể tránh khỏi quả báo luân hồi.
Tôi thì bất hạnh hơn những người đàn bà khác. Trong lúc mang thai, đã biết rõ tương lai con tôi sẽ không có cha. Vì thương con, tôi ráng chịu đựng hy sinh để cho con được tròn cha mẹ. Nhưng nghiệp quá nặng, càng hy sinh càng tạo thêm nghiệp chướng. Cuối cùng, tôi có ba đứa con.
Mỗi một ngày trôi qua là một ngày sống trong đau khổ, cứ tưởng con tôi có đầy đủ cha mẹ, thì các con tôi được hạnh phúc. Không ngờ khi thức tỉnh mới biết tôi đang hại con, tôi đang đưa các con vào hố sâu thăm thẳm. Tôi vô cùng hối hận. Nếu như cha tốt, thì sự hy sinh của tôi có giá trị. Còn nếu là người cha xấu thì chính tôi là kẻ thù của con tôi.
Tôi đành phải ôm ba đứa con còn nhỏ dại, rời xa người đàn ông không trách nhiệm, không lương tâm. Lúc tôi ôm con ra đi, tôi biết bốn mẹ con tôi sẽ rớt xuống một cái hố sâu hơn hố hiện tại. Nhưng tôi biết rõ, cuối đường hầm sẽ có tia hy vọng. Tôi kể chuyện đời của tôi cho quý bạn nghe, không phải tôi mong quý bạn tội nghiệp hay thương hại. Mà tôi biết ngoài kia chung quanh tôi, có biết bao nhiêu người đàn bà đang đau khổ giống như tôi.
Thời gian đó, tôi không hiểu gì về môn tu niệm Phật tịnh độ. Nếu tôi biết thì cuộc đời tôi sẽ không bị khổ nhiều. Vì một câu Phật hiệu A Di Đà có thể trừ được nhiều nghiệp chướng của chúng ta. Hiện tiền có thể giúp chúng ta mạnh khỏe, tâm thần an định. Qua bản thân kinh nghiệm của tôi, câu A Di Đà quả là thuốc thần trị bá bệnh: có thể trừ nghiệp, bệnh tâm và bỏ được hết thói hư tật xấu. Mong quý bạn hãy tin sâu niệm Phật, để tìm cho mình một con đường giải thoát.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, ngoài xã hội hay trong gia đình, có nhiều chuyện phức tạp thật là khó nhẫn nhịn. Mỗi người sanh ra trong cõi đời này là để trả nợ, đã trả nợ thì ai nấy cũng đều gặp phải chuyện trái ngang phiền toái. Cuộc sống con người luôn luôn bị chung đụng với mọi hoàn cảnh đau khổ khác nhau. Chỉ nói chuyện trong nhà thôi cũng là một vấn đề nan giải không cùng tận: nào là mẹ chồng con dâu, vợ chồng, anh rể em vợ, nào là con anh con tôi. v.v.
Nhìn tứ phía, đâu đâu cũng đầy dẫy khổ đau phiền não. Cây muốn lặng mà gió chẳng muốn ngừng. Người không ích kỷ sống chung với người ích kỷ, lâu ngày cũng ích kỷ theo; người không ở dơ sống với người ở dơ, lâu ngày cũng phải ở dơ. Kể thì không bao giờ hết, không bao giờ cùng tận, vì không cùng tận, nên con người phiền não khổ đau cũng không cùng tận.
Có những chuyện, chúng ta có thể thoát ly, có thể trốn tránh, nhưng cũng có rất nhiều chuyện, chúng ta muốn tránh cũng tránh không được. Vì hoàn cảnh, vì ràng buộc, vì gia đình v.v. mà phải đành đối diện, đương dầu chấp nhận, nhưng chấp nhận một cách đau khổ oán hận trong lòng.
Lâu ngày, trong tâm chứa đầy khí độc, độc tâm âm thầm ăn sâu mọc rễ, não bộ hư hao, huyết quản động mạch rối loạn, thân thể suy yếu già nua. Sống như vậy đâu khác gì sống trong địa ngục trần gian? Nếu chúng ta hiểu được quả báo luân hồi và đời là vô thường thì chúng ta sẽ có cách chuyển đau khổ thành bình an. Đau khổ hay bình an cách nhau chỉ một suy nghỉ, cũng như hồi đầu là ngạn. Chỉ có chân lý của Phật pháp, mới có đủ sức chuyển hóa mọi đau khổ. Đó là lòng từ bi và trí tuệ bát nhã.
Tôi xin nêu ra một ví dụ:
Ta làm dâu, làm cực khổ ngày đêm như thân đi ở đợ, nhưng mẹ chồng em chồng không thông cảm còn nặng nhẹ đủ lời. Vì thương chồng, thương con, không thể thoát ly, không thể đổi cuộc sống, nên hằng ngày phải đối diện với sự bất công oán hận. Rốt cuộc, người đau khổ từ tâm thần cho đến thể xác cũng chính là ta. Đâu có ai thay thế cho ta! Nếu đã không thể thay đổi hoàn cảnh, thì cách duy nhất là thay đổi nội tâm suy nghĩ của chính ta, biến hận thù đau khổ, thành từ bi tha thứ.
Thay vì trước kia hận mẹ chồng, em chồng vì họ hành hạ, làm cho ta đau khổ. Trong tâm thù hận khiến ta hiện tại sống trong đau khổ, tạo thêm ân oán cho kiếp sau. Khi chết, thần thức (chủng tử) thù hận quá lớn, rốt cuộc thần thức dẫn ta vào địa ngục, như vậy có phải đã khổ lại càng khổ thêm!
Nay ta thức tỉnh, hiểu được những chuyện ta đang làm hằng ngày là làm công quả, cúng dường tạo phước đức. Còn mẹ chồng và em chồng khắc nghiệt kia, là Bồ Tát đang giúp cho ta tu hạnh nhẫn nhục để ta tạo công đức. Cũng là một việc làm nhưng một bên là gieo oán tổn đức, một bên là tạo công đức và phước đức. Một bên là đau khổ đọa đày, một bên là an vui tự tại.
Tôi biết quý bạn sẽ nghĩ: nói thì dễ nhưng làm rất khó, vì chúng ta không phải là thánh. Kính thưa quý bạn, thánh hay phàm tuy hai mà một, tuy khó mà dễ. Khó hay dễ là ở chỗ chúng ta có chịu làm hay không? Vì câu Phật hiệu A Di Đà có thể chuyển phàm thành Phật, không lẽ chuyện nhỏ hằng ngày không chuyển nổi hay sao?
Kính thưa quý bạn, trước kia tôi rất ghét sự bất công và giận ghét ai gây nên đau khổ cho người khác. Nhưng sau khi hiểu đạo, tôi thương xót cho những người gây nên tội ác, còn nhiều hơn là những người bị hại. Tại sao? Vì họ đang đứng ngay cửa địa ngục mà họ không hay biết. Hỏi như vậy có đáng thương không?
Trước kia, tôi hiểu lầm về làm công quả. Tôi tưởng vào chùa giúp việc mới gọi là công quả, giúp tài thì là cúng dường. Sau này tôi mới hiểu, tất cả mọi chuyện chúng ta làm ngoài xã hội, trong gia đình hay ở chùa, làm công không lãnh tiền, thì đều là công quả phước đức ngang nhau, không hơn không kém. Bố thí tài cũng vậy, cũng đều là cúng dường. Trong các thứ bố thí: Bố thí pháp là cao nhất. Hằng ngày, chúng ta đi khuyên người tu hành niệm Phật, hay ấn tống những cuốn kinh sách có ý nghĩa Phật pháp, thì công đức và phước đức vô cùng to lớn.
Chuyển Tuyệt Vọng Thành Hy Vọng
Trong cuộc đời tôi, đã trải qua nhiều lần tai nạn: tai nạn xe cộ, tai nạn té lầu, tai nạn lụt nước. Vì trải qua nhiều tai nạn, nên xương chậu của tôi bị suy thoái. Tuy trải qua nhiều sóng gió và tai nạn, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy tuyệt vọng như thời gian bị té trong lần lụt nước. Lúc đó, tôi chỉ nằm một chỗ, con tôi đứa nào cũng bị bệnh, nhà bị ngập không ở được, xe bị hư. Bên cạnh không có một người thân giúp đỡ, tiền thì không có.
Tánh tôi rất sợ làm phiền bạn bè. Cuối cùng, cũng phải cầu cứu bạn bè. Dù bạn bè có tốt, cũng chỉ giúp được thời gian ngắn, còn chuyện của tôi là chuyện lâu dài. Trước kia, tôi đã từng trải qua nhiều hoàn cảnh còn khổ hơn, nhưng tôi không cảm thấy tuyệt vọng, tại vì tôi còn đi đứng được, còn kiếm ra tiền, còn chăm sóc được cho các con của tôi. Kỳ này tôi như “người sinh học” không đi lại được. Lúc đó, tôi vô cùng tuyệt vọng. Trong đời, tôi sợ nhất là bị tàn tật nằm một chỗ. Nếu như phải bị tàn tật, thà tôi tự vận chết còn sướng hơn, ít ra cũng được giải thoát.
Sau khi hiểu đạo, thấy được lẽ thật, tôi mới quý mạng sống của tôi. Ý nghĩ của tôi hiện tại và trước kia hoàn toàn khác hẳn. Bây giờ, tôi không còn sợ bị tàn tật hay thành “người sinh học”. Tôi chỉ sợ tôi mất đi lý trí và mất đi cái thân giả tạm này. Tại sao? Vì tôi đang dùng cái thân giả tạm để làm chiếc thuyền, vượt biên về bên kia Cõi Phật. Tôi mới đi được nửa đường, tôi không muốn chiếc thuyền bị chìm; bị thuyền chìm thì tôi cũng bị chìm theo. Nên thà tôi chấp nhận chiếc thuyền bị hư hao, xấu xí, không còn đủ hình thù, nhưng ít ra vẫn còn cái máy điều khiển hướng đi. Còn hướng đi thì còn con đường giải thoát.
Tôi biết ngoài kia có rất nhiều người bị hoàn cảnh như tôi, có rất nhiều người đang bị tàn tật khổ sở. Nếu như chúng ta hiểu rõ chân lý, lẽ thật; đời là vô thường, đời là giả tạm, thì chúng ta sẽ không vì cái thân tàn tật này mà đau khổ.
Thân tàn tật hay thân trọn vẹn đẹp đẽ, khi chết rồi cũng thành tro bụi, có khác biệt gì đâu? Tại sao chúng ta không dùng ngay giây phút này để mà niệm Phật? Dùng thân tàn khuyết giả tạm, đổi lấy thân Phật kim sắc vẹn toàn? Đây mới là con đường giải thoát, mới là sống thật. Còn hơn những người thân thể cường tráng đẹp đẽ, mà không hiểu được cuộc sống vô thường, không lo tu giải thoát; vậy có khác gì sống mà như chết, thấy mà như mù. Trong cái xui có cái may mắn, nhờ tàn tạt mà chúng ta có nhiều thời gian để niệm Phật.
Phật nói: “Sống 100 Năm không bằng một ngày hiểu đạo”. Cũng như một người ăn xin bần cùng mà hiểu đạo, còn giàu có hơn kho báu của thế gian.
.Một người ngu si đần độn mà hiểu đạo, thì có trí tuệ thông minh hơn một vị vua cai trị cả nước
.Thân ta tuy tàn tật, nhưng tinh thần của ta không bị tàn tật, tâm ta vẫn chói sáng, trí tuệ vẫn thênh thang. Đây mới là sống thật, là an lạc tự tại, là hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày 25-11-02, tôi nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ. Tuy nói là giấc mơ nhưng y như thật. Trong giấc mơ, một đêm tôi đi ngang qua một căn nhà lớn có hai tầng. Từ xa, tôi nghe tiếng đông người vui cười nói chuyện.
Trong đầu tôi nghĩ: hôm nay là ngày lễ Tạ Ơn, nên bà con hội ăn uống vui cười. Khi đi gần đến căn nhà đó, tôi nhìn vào thấy rất đông người đang ăn mừng, họ vui cười ăn uống xôn xao. Tôi nhìn lên tầng trên, thấy khoảng mấy trăm đứa bé, khoảng 3-4 tuổi, không mặc quần áo, chúng toàn màu trắng; chúng đi lủi thủi. Chung quanh căn nhà, vẫn còn nhiều đứa bé từ các nơi khác đến.
Tôi đứng lại nhìn những người ăn mừng ở dưới, rồi lại nhìn đám trẻ con âm thầm đang tụ họp ở trên. Tôi thắc mắc nên hỏi mấy người đi qua đường. Tôi hỏi: “Mấy anh mấy chị có biết chủ nhà đó là ai không? Tại sao trên lầu có nhiều con nít quá vậy?” Họ đều nói với tôi: đâu thấy đứa con nít nào đâu. Tôi cứ nói có nhiều lắm, họ nói, không có ai hết rồi họ bỏ đi. Lúc đó, tôi nghĩ không lẽ đám con nít này là ma nên không ai thấy? Rồi tôi nghĩ: thôi mình đi về, ngày mai trở lại nói cho ông bà chủ nhà đó biết, về chuyện đám con nít ở trên lầu.
Ngày hôm sau, tôi đến căn nhà đó. Vừa tới trước cửa nhà, tôi thấy có mấy người đang dọn dẹp bàn ghế. Tôi gặp một người đàn bà, tôi đoán bà ta là chủ nhà. Tôi bước vào tính nói cho bà ta nghe, chưa kịp nói gì thì bà ta cứ ngó ra ngoài cửa, tôi cũng quay đầu nhìn theo. Tôi thấy có một người đàn ông mình người mặt thú đang lấp ló. Tôi chưa kịp thắc mắc, thì người đàn ông đó chạy tới trước mặt tôi, đưa cho tôi một lá thơ, rồi đứng đó chờ tôi mở ra xem. Tôi chưa kịp mở ra xem, thì bà chủ nhà chạy lại giựt lá thơ, bà ta mở ra xem. Trong lúc mở ra xem, bà ta cũng lịch sự cho tôi xem chung.
Trong lá thơ có ba tờ, hai tờ có chữ như xé ra từ một tờ báo nào đó, còn một tờ có hình. Tôi không để ý đọc hai tờ giấy có chữ, tôi chỉ để ý coi tờ giấy có hình. Khi tôi nhìn vào, bỗng nhiên tờ giấy hình biến thành một màn ảnh lớn cho tôi coi. Tôi thấy hai bên đường, người ta bày bán đủ loại thịt heo bò, gà vịt. Con nào cũng bị giết làm lông sạch sẽ, còn nguyên, chưa bị chặt ra.
Lúc đó, có một đám người đi tới định mua thịt chúng để ăn. Tự nhiên, tôi thấy mỗi một con vật đều xuất ra một bóng người ở truồng. Chúng đồng loạt ngồi dậy, rồi đứng lên thành cả đám: già trẻ, nam nữ (họ toàn là màu trắng); họ giận dữ rượt đám người định mua thịt chúng để ăn. Thế là người mua lẫn người rượt chạy tứ tung.
Sau khi thức dậy tôi thật là đau lòng, vì tôi biết các vong hồn con nít tựu họp ở trên lầu, đó là vong hồn của những con gà tây bị giết trong dịp lễ Tạ Ơn của nước Mỹ (đây là sự thật, không phải là tưởng tượng)
Ở nước Mỹ, mỗi năm có một ngày lễ Tạ Ơn, họ coi lễ này rất lớn, gần bằng với lễ Noel. Tới ngày lễ Tạ Ơn, họ đều tụ họp gia đình. Dù con cái ở đâu cũng phải về ăn mừng ngày lễ Tạ Ơn. Nhà nào ai nấy đều ăn gà tây, vì đây là phong tục của ngày lễ. Trước ngày lễ Tạ Ơn mấy tháng, ở các nông trại, họ bận rộn ngày đêm nuôi gà, giết gà, đông lạnh, chuyên chở để kịp cung cấp gà tây cho toàn nước Mỹ. Ngày lễ Tạ Ơn này quá ư là tàn nhẫn, là một ngày sát sanh thảm khốc.
Mỗi năm, đến ngày lễ Tạ Ơn, cả nước Mỹ, ai nấy cũng ăn uống no nê vui vẻ. Có ai nghe được tiếng than khóc, của bao nhiêu trăm triệu vong hồn của những con gà tây bơ vơ, lạnh lẽo, oán hận, đau đớn? Không chừng, trong đó có ông bà cha mẹ nhiều đời của chúng ta. Gieo thù hận, thì chuốc lấy diệt vong. Mỗi một năm, vào ngày lễ Tạ Ơn, ở trên nước Mỹ, đã có biết bao nhiêu người bị chết: lớp vì ăn gà tây bị trúng độc, lớp bị tai nạn xe cộ vì ăn nhậu quá chén. Tôi thật không hiểu hai chữ “Tạ Ơn” đối với họ có ý nghĩa như thế nào? Tôi chỉ thấy là một ngày đen tối, sát hại vô số thú vật lẫn con người.
Còn một chuyện lạ là, tại sao người đàn ông mặt thú lại đưa cho tôi một lá thơ? Không lẽ ông ta muốn cho tôi biết thú là người, người sẽ thành thú? Đúng như lời Phật dạy ở trong kinh. Phật nói: “Súc vật là người đầu thai. Chúng có linh tánh và Phật tánh, vì nghiệp tội kiếp trước nên kiếp này mang thân thú để trả”. Phật nói: “Trong đám súc sanh kia, có cha mẹ, anh em, con cái nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta”.
Tôi thấy lời Phật dạy là vạn lần chân thật. Chẳng qua, chúng ta không dám nhìn vào sự thật. Trong chúng ta, có rất nhiều người đã nghe chuyện người đầu thai làm thú, trong bút ký lẫn chuyện hiện tại của thế gian. Có một số chúng ta, không thấy tận mắt nên không tin. Hoặc giả là tin, nhưng lại sợ không còn được ăn ngon, hưởng thụ, nên tự mình lừa dối lương tâm của chính mình.
Chúng ta thử bình tâm, lấy lương tâm mà tìm hiểu. Mấy con thú vật, nó có đủ bộ phận, máu đỏ giống như chúng ta, chúng chỉ khác ở chỗ hình dạng bên ngoài, còn tất cả đều giống như chúng ta. Chúng cũng biết thương yêu, giao hợp, mang nặng, đẻ đau, bảo vệ con chúng. Khi bị đuổi giết, chúng hoảng sợ, dãy dụa, đau đớn, hét la thảm thiết giống như chúng ta. Có một số chúng ta, không chính mắt thấy chúng bị giết, nên chúng ta không cảm giác được nỗi đau đớn, sợ hãi cùa chúng. Ví thử, chúng ta bị cọp hay sói lang rượt bắt ăn thịt, chúng ta sẽ sợ hãi đau đớn ra sao? Thì chúng cũng vậy, có khác gì?
Có nhiều người ăn thịt chúng một cách ngon lành, không một chút xót thương, còn biện hộ, nói là trời sanh chúng nó cho chúng ta ăn. Thật ra đâu phải trời sanh chúng nó cho chúng ta ăn. Chẳng qua, chúng ta mạnh hơn chúng nên ăn thịt chúng. Cũng như những con thú dữ ăn thịt chúng ta vì chúng nó mạnh hơn, chớ nào phải trời sanh con người ra để chúng nó ăn. Có một số người còn biện hộ: Nếu chúng ta không ăn thịt chúng, thì làm sao chúng được đi đầu thai? Nếu thật sự như vậy, thì chúng ta là Bồ Tát hết rồi, đâu còn gọi là oan gia truyền kiếp. Ở đời, oan oan tương báo, trả hoài không dứt. Ngày nay, chúng ta ăn thịt chúng, sau này chúng ta thành thú, chúng ăn lại. Đây là quả báo tuần hoàn, đời đời kiếp kiếp không cùng tận. Cũng như có câu: “Lưới trời tuy thưa, nhưng không bỏ sót một ai” có vay ắt có trả.
Trước kia, tôi cũng thích ăn thịt lắm. Tôi học hiểu kinh Phật và bản thân tôi chứng kiến cảnh luân hồi, tôi thật sợ lắm. Bao nhiêu lần, tôi quyết tâm bỏ ăn thịt, nhưng được một thời gian rồi ăn lại. Sau này, nhờ niệm Phật mà tôi hoàn toàn bỏ được ăn thịt. Vì khi niệm Phật lâu ngày, tâm chúng ta sẽ từ bi như Phật. Khi thấy thịt, chúng ta cảm giác và thấy đó là thịt người, rồi thương xót chúng vô cùng, đến đỗi con kiến chúng ta cũng không muốn giết. Vì nghĩ một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ bị như chúng và trong đám thú lớn nhỏ kia, có biết bao nhiêu là cha mẹ, anh em, con cái của chúng ta. Nếu như chúng ta tha được thì nên tha.
Tại sao trong nhà chúng ta có kiến, nhện, chuột...? Là vì chúng ta ở dơ nên chúng mới tới. Rồi khi chúng nó tới, thì chúng ta lại giết chúng. Nếu chúng ta giữ vệ sinh sạch sẽ thì chúng đâu bao giờ đến. Cũng như con người ngày nay, lòng dạ ác độc, tham dâm đầy dẫy, nên mới chiêu cảm chúng ma đến đây. Vì vậy, thế gian ngày nay, tà ma làm chủ. Tất cả cũng là lỗi của chúng ta, chớ nào phải lỗi của chúng ma.
Tôi không biết quý bạn có hay tìm hiểu không? Riêng tôi, từ nhỏ đã có tánh tò mò nhiều chuyện, nên đã tìm hiểu nhiều gia đình làm nghề sát sanh. Trong cuộc đời tôi, chưa thấy một người nào làm nghề sát sanh mà sống được thọ, mạnh khỏe, gia đạo bình yên.
Trong kinh Phật nói chúng ta sát sanh càng nhiều, thì tuổi thọ chúng ta càng ngắn, bệnh hoạn càng tăng, con cái tổn đức. Phóng sanh càng nhiều, tuổi thọ càng dài, sức khỏe càng tăng, con cái có nhiều phước đức. Phật nói: “Chúng ta ăn thịt thú nhiều, lâu ngày chúng ta cũng thành thú”. Lý lẽ này rất hợp lý, vì thân chúng ta bồi dưỡng thịt máu của chúng, thì thịt máu của chúng ta là thú đó là điều đương nhiên. Khi chúng bị giết, bao nhiêu thù hận đều cô đọng lại trong thịt máu của chúng. Khi chúng ta ăn vào lâu ngày, chúng ta có tánh thú như chúng (có tánh thú lâu ngày sẽ thành tâm thú. Khi chết tâm thú của chúng ta đi đầu thai làm thú). Đây là sự thật, không phải là tin dị đoan.
Tôi là người có cả trăm nghìn tội lỗi. Trong quá khứ, vô thỉ nhiều kiếp, giết hại ăn thịt chúng. Giờ tỉnh ngộ, tôi vô cùng hối hận. Tôi mong dùng cuộc đời còn lại, ngày đêm lo tu niệm Phật để giải bớt oán thù. Tôi niệm Phật, để cầu siêu cho chúng mau được siêu thoát, để hầu mong chuộc lại một phần nào tội lỗi của bản thân.
Các nước tây phương, thịt là món ăn chính của họ. Họ ăn thịt mỗi ngày, ăn rồi mang cả một thân bệnh ung thư đầy dẫy, dâm loạn đứng đầu, con nít cũng không tha; tâm thú lẫn tâm ma. Không phải chỉ riêng các nước Tây Phương mà ngày nay đã lan tràn cả thế giới.
Thời nay, không riêng gì những người ăn thịt nhiều mới bị ung thư, mà luôn cả những người ăn hải sản và rau cải đều bị. Nhưng số người ăn chay chỉ bị thiểu số. Tại sao? Vì thức ăn nước uống chúng ta đang dùng hằng ngày, đều là những thứ bị chất độc ô nhiễm. Nếu chúng ta tìm hiểu và đọc báo chí hằng ngày, chúng ta sẽ thấy có biết bao nhiêu người bị trúng độc vì thực phẩm.
Bệnh của con người từ đâu mà có? Là từ ăn uống mà ra. Nên chúng ta phải cẩn thận về vấn đề ăn uống. Không những là trong thức ăn, nước uống có độc tố, mà không khí chúng ta đang hít thở hằng ngày cũng bị ô nhiễm.
Tôi vượt biên qua Thái Lan năm 1980, sau vài tháng thì chuyển qua trại tị nạn Batanan ở Philippin. Đây là một trại tị nạn rất lớn, được chia ra làm chín vùng. Mỗi một vùng có bốn dãy, có nhiều căn chung cư. Chúng tôi ở vùng sáu. Mỗi một căn chung cư đều có gác lửng, mỗi một căn chia ra cho bốn hoặc năm người ở. Căn của chúng tôi có bốn người: vợ chồng tôi và vợ chồng anh Thông. Ở đây không có cầu tiêu hay nhà tắm riêng, chỉ xài chung ở công cộng; vì vậy, chúng tôi lấy cây ván làm tạm một cái cầu tắm ở đàng sau nhà.
Qua mấy tháng sau, một hôm tôi phát giác ở dưới gầm cầu tắm, ngay đường mương để dẫn nước thoát ra bị chuột làm ổ, bít lại đường mương. Chúng đội đất lên, làm cho miếng ván dưới chân bị xê dịch qua một bên. Lúc đó, tôi không biết tính đi vào tắm, tôi thấy miếng ván bị bung lên. Tôi dùng chân đạp xuống, đột nhiên tôi nghe nhiều tiếng chuột kêu chút chít.
Tôi hốt hoảng la lên. Tôi vừa chạy vào nhà, tôi vừa hét. Tôi gọi chồng tôi, tôi nói : “Anh à ! Đi ra cầu tắm mà coi, có đám chuột tụi nó làm ổ dưới gầm cầu tắm, anh ra đánh và phá ổ của tụi nó cho em đi, nếu không em sợ lắm, em sẽ không dám xài cầu tắm đó nữa đâu”. Từ nhỏ, tôi sợ nhất là con chuột, nên mỗi khi thấy chuột là tôi hét khiến ai ở chung quanh tôi đều phải hết hồn. Chồng tôi vội chạy ra ngoài định đập tụi nó.
Chị Thông trong nhà cản lại, chị nói: đừng có đập tụi nó, nếu không sẽ bị trả thù. Tôi nghe đến hai chữ trả thù, tôi tức cười, tôi vừa cười vừa nói: “Chị Thông! Chị nói cái gì lạ vậy? Chuột làm gì mà biết trả thù?” Chị Thông chạy lại tính bịt miệng tôi, tôi tránh qua một bên, vì thấy cử chỉ của chị lạ thường. Chị nói: “Lan à! Em không có ở nhà quê, nên em không hiểu biết chi cả. Anh chị ở nhà quê, nên vợ chồng chị biết sự linh thiêng của mấy ông Tý”.
Nghe hai tiếng ông Tý, tôi càng tức cười đến không chịu nổi, tôi nói: “Ông Tý cái gì mà ông Tý. Xưa nay, em chỉ nghe người ta gọi là mấy con chuột thôi. Bây giờ tụi nó làm em sợ, em chỉ kêu chồng em đánh và phá ổ của nó, để tụi nó sợ mà dọn đi chỗ khác. Em đâu có kêu chồng em giết tụi nó đâu mà chị sợ tụi nó trả thù”.
Chị Thông nói: “Đừng đánh ông Tý, mà phải xin mấy ông dọn đi đừng có phá mình”. Rồi chị nói tiếp: “Ở dưới quê chị, mỗi năm tới mùa lúa, dân chúng phải làm lễ để cúng ông Tý. Nếu không sẽ bị mấy ông Tý phá hết mùa màng, dân chúng sẽ bị đói”. Tôi nghe qua, thấy vô lý nên không tin, tôi tưởng chị hù tôi. Tôi càng giận, nên nói: “Chị đừng có hù em, em không sợ tụi nó đâu. Bây giờ, em kêu chồng em ra đập tụi nó, nếu như tụi nó có linh tánh, hiểu được tiếng người thì về đây trả thù em đi, thì em mới tin là ông Tý linh thiêng”. Chị Thông nghe nói: “Được! Để chị coi Lan bị trả thù bằng cách nào”. Sau đó, chồng tôi ra phá ổ của tụi nó tan tành, chúng bỏ chạy tứ tung.
Đến tối, sau khi tắm rửa xong, tôi giặt đồ. Hôm đó, tôi giặt bốn bộ đồ: hai bộ của chồng tôi và hai bộ của tôi. Trong lúc phơi đồ tôi nghĩ thầm: “Phơi quần áo của chồng tôi hai đầu, còn quần áo tôi phơi ở giữa”. Vì chị Thông nói chỉ có tôi bị trả thù thôi, bởi chính tôi kêu chồng tôi phá và chính tôi thách thức chúng.
Cả buổi chiều tối hôm đó, lòng tôi cứ hoang mang lo sợ, lời chắc chắn của chị Thông làm tôi không được yên. Sau khi phơi đồ xong tôi vào nhà, loay hoay một chút rồi tới giờ, ai nấy cũng đi ngủ. Riêng tôi thì cứ thấy lo trong lòng. Sau đó tôi tự nhủ, làm gì có chuyện chuột trả thù? Trong đời, tôi chỉ nghe có rắn trả thù thôi. Thế rồi, tôi ngủ thiếp hồi nào không hay.
Mãi tới gần sáng, bổng nhiên tôi nghe tiếng chuột kêu chút chít, tôi giựt mình thức dậy. Tôi thấy một đám chuột từ trong mùng tôi chạy ra. Tôi hốt hoảng la lên, làm cho cả nhà giựt mình thức dậy. Lúc đó, vợ chồng tôi ở trên gác, còn anh chị Thông ở dưới nhà.
Anh chị Thông hỏi lớn, Lan có phải bị mấy ông Tý trả thù không? Tôi sợ quá nên khóc. Bổng nhiên, tôi cảm thấy mười ngón chân của tôi đau nhức. Tôi nhìn xuống, thật không thể tưởng tượng được, mười đầu ngón chân của tôi đều bị chúng cắn tới rớm máu. Tôi biết đây là một chuyện trả thù có thật. Tôi vội chạy xuống nhà dưới cầu cứu chị Thông giúp đỡ.
Anh chị Thông nói: “Lan đi coi lại quần áo coi mấy ông Tý có cắn không?” Tôi vội chạy ra nhà sau, tôi choáng váng cả mặt mày, quần áo của tôi bị tụi nó cắn nát, không còn một chỗ nào dù là bằng đốt ngón tay. Một điều lạ là. quần áo của tôi không bị xê dịch. Vẫn treo ngay thẳng, tôi không hiểu chúng leo lên cắn bằng cách nào, vì nếu chúng kéo xuống đất, cắn nát thì tôi đỡ sợ. Đằng này, quần áo tôi phơi hoàn toàn không bị xê dịch một chút nào cả, còn quần áo của chồng tôi thì còn nguyên vẹn.
Sau đó tôi chạy lên gác, nhìn thấy thùng quần áo không bị mở ra, trong bụng thấy yên tâm một chút. Nhưng vì sợ nên mở ra để xem thử, tôi chết điếng cả người, vì quần áo vẫn xếp ngay thẳng không một chút xê dịch. Vậy mà tất cả quần áo của tôi, chúng cắn nát không còn một cái nào cả, còn quần áo của chồng tôi thì còn nguyên. Trong khi còn mấy ngày nữa là tôi đi Mỹ, vậy mà tôi không còn bộ nào để mặc.Lúc đó, tôi không dám giận mà chỉ có sợ hãi. Tôi sợ vì chúng nó có linh tánh hiểu được tiếng người. Tôi vội chạy xuống lầu kêu chị Thông giúp đỡ.
Anh chị dạy tôi đi mua trái cây, nến nhang đặt lên một cái bàn thỏ để ở đằng sau nhà. Chị dạy sao, tôi làm vậy. Sau khi đốt nhang xong, tôi vái: “Thưa ông Tý, tôi ngu muội không biết ông Tý có linh tánh. Bây giờ tôi xin lỗi mong ông Tý bỏ qua cho, tôi không dám đụng chạm đến mấy ông nữa”. Sau khi vái xong, tôi vẫn còn lo nên hỏi chị Thông: “Chị Thông ơi! Chị có chắc là ông Tý không trả thù em nữa không?” Chị nói chắc chắn là không. Sau đó, chúng nó không phá tôi nữa.
Qua chuyện đó, cho tôi hiểu được những con vật nhỏ cũng có linh tánh. Từ đó, dù là nhỏ như kiến, nhện, tôi đều không dám giết. Chỉ nói chuyện, năn nỉ hay ráng ở sạch sẽ để chúng không tới làm phiền. Lỡ thấy chúng trong nhà, tôi kiếm cách đem chúng nó ra ngoài, chớ không dám giết vì thấy chúng nó tội nghiệp quá.
---o0o---
Vi tính: Chủng Phượng
Trình bày: Vĩnh Thoại