Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06_Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông

10/11/202409:27(Xem: 458)
06_Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975), Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông

vinh minh dien tho-4

Lược Truyện 
Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ
Tổ Thứ 6 Tịnh Độ Tông
( 904-975)

Đại sư Vĩnh Minh ( 904-975), tăng nhân thời Ngũ Đại (Bao gồm 5 triều đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu)cuối thời Đường, là tổ thứ 6 của Tông Tịnh Độ, tổ thứ 3 của tông Pháp Nhãn. Sư họ Vương, tự Xung Nguyên, quê ở Tiền Đường (Nay là Hàng Châu, Chiết Giang). Từ nhỏ sư tin Phật, kiêng sát sanh, thích phóng sanh. Vào thời Tiền Văn Túc Vương, sư làm quan thuế vụ, thấy cá tôm chim chóc.v.v. liền mua phóng sanh. Khi sử dụng hết tiền lương của mình, dùng đến tiền quan để mua các loài vật phóng sanh, sau bị phát giác, đáng tội chết, đưa đến phố cho quan xử trảm. Văn Mục Vương phái người xem, bảo người xử tội: Nếu thấy phạm nhân sợ thì giết, phạm nhân không sợ thì phóng thích. Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ trước khi sắp bị hành hình tự trấn tỉnh mình, sắc diện không thay đổi, nói:”Đối với tiền ngân khố, tôi không xài mảy may con cho riêng mình, tôi chỉ dùng để mua vật phóng sanh, không biết là số bao nhiêu. Nay tôi chết, sanh thẳng về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chẳng vui sao?! Văn Mục Vương sau khi nghe vậy, liền phóng thích Đại sư khỏi tội chết.

Sau Đại sư ở Minh Châu lễ Thiền sư Thuý Nghiêm xuất gia, năm đó sư 30 tuổi. Tống Cao Tăng truyện ghi: “ Đại sư tu hành sinh hoạt ở chùa: Sư cùng chúng tăng lao tác, quên mình làm việc, ăn mặc giản dị, mặc bằng vỏ cây rừng, để qua ngày.” Ban ngày lao tác, đêm tọa thiền, mỗi ngày chỉ dùng hoa quả rừng, đời sống mười phần đạm bạc. 

Sau Đại sư tham học với Quốc sư Đức Thiệu ở Thiên Thai, ban đầu tu thiền định, đắc được huyền chỉ. Tống Cao Tăng ghi:” Vĩnh Minh Diên Thọ ở trong hội của Đức Thiệu, phổ thỉnh, nghe tiếng củi rơi, hoát nhiên khế ngộ, bèn nói: “ Rơi đổ chẳng phải vật khác, dọc ngang chẳng là trần, núi sông và đại địa, toàn hiển lộ thân Phật”. Nhân đó thành tổ thứ 3 tông Pháp Nhãn.

Sau, Đại sư ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai kết đàn tràng tu tập Sám Pháp Hoa 21 ngày, lại đến núi Thiên Trụ ở Kim Hoa tụng kinh Pháp Hoa 3 năm, tu dưỡng Phật học và công phu thiền định ngày càng tăng. Trong thời kỳ tu học ở núi Thiên Thai, khi thiền quán thấy Bồ Tát Quán Thế Âm rưới cảm lồ vào miệng, nên đạt được đại biện tài, lại trong đêm khi kinh hành, bỗng thấy hoa sen cúng dường trước tượng Bồ Tát Phổ Hiền bỗng nhiên ở nơi tay. Từ đó, Đại sư cảm nơi mình trọn thân tu hành nhưng hướng chưa có quyết định, bèn lên Thiền viện Trí Giả viết 2 thẻ: Một thẻ ghi”Nhất Tâm Thiền Quán”, còn thẻ kia ghi “Vạn Thiện Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Sau khi tha thiết khấn nguyện, qua bảy lần rút thăm đều rút trúng thẻ “ Vạn Thiện Trang Nghiêm Tịnh Độ”. Từ đó, Đại sư hạ quyết tâm, chuyên lòng tu Tịnh nghiệp.

Đại sư trụ ở Vĩnh Minh 15 năm, đệ tử hàng ngàn người. Sư thường truyền giới Bồ Tát cho mọi người, mỗi ngày định 108 Phật sự làm thời khoá, chủ yếu trì chú, lễ Phật sám hối, tụng kinh, ngồi thiền, phóng sanh, thuyết pháp .v.v. Ban đêm ở nơi hoang vắng thí thực cho quỷ thần. Tất cả công đức đều hồi hướng cho chúng sanh để làm tư lương vãng sanh Tịnh Độ.

Niên hiệu Khai Bảo thứ 7 (974) thời Bắc Tống, tuổi đã cao, Đại sư Diên Thọ về lại núi Thiên Thai sau thời gian dài xa cách, trên núi sư mở đàn truyền giới Bồ Tát, có lần khoảng hơn vạn người người cầu thọ giới. Đây là pháp hội truyền giới trên quy mô lớn do sư chủ trì lần cuối cùng. Sau đó, Đại sư tự biết nhân duyên với trần thế không còn bao lâu nữa, liền bế môn, không tiếp khách, chuyên tâm niệm Phật, thệ sanh Tịnh Độ. Ngày 26 tháng 12 niên hiệu Khai Bảo thứ 8, thời Tống, buổi sáng sau khi thức dậy, đốt hương lễ Phật, bảo khắp đại chúng, Đại sư ngồi kiết già viên tịch, thọ thế 72 tuổi, tăng Lạp 42 năm.

Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 1 (976), môn nhân ở Đại Từ Sơn lập tháp, dựng chùa để ghi nhớ, Tống Thái Tông ban cho chùa biển ngạch”Thọ Ninh Thiền Viện “. Về sau, có vị

du tăng từ Lâm An đến nhiều năm nhiễu tháp này. Mọi người hỏi nguyên nhân. Du tăng đáp: “ Khi tôi bị bịnh trong lúc mơ màn, thấy bên phải điện có tượng một vị tăng, mà vua thường ân cần đến lễ bái, hỏi ra mới biết đó là Thiền sư Vĩnh Minh ở Hàng Châu, đã vãng sanh về Thượng phẩm Tây phương, vua vì trọng đức của Thiền sư nên kính lễ như vậy. Vì vậy, du Tăng tôi thường về đây kính lễ Đại sư và đến chiêm ngưỡng đảnh lễ bảo tháp Xá Lợi.

Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ đã kết hợp Thiền giáo, Tịnh độ và giáo lý của các tông phái khác quy hướng về Tây Phương Tịnh Độ. Đó là chỗ đặc sắc tư tưởng Phật học của Đại sư. Đại sư đồng thời chú trọng việc thể nghiệm tu hành của tự thân mình với việc tâm đắc nghiên cứu Phật học chỉnh lý thành văn tự. Tác phẩm do Đại sư trước tác gồm có: Tông Cảnh Lục, Vạn Thiện Đồng Quy, Thần Thê An Dưỡng Phú, Duy Tâm Quyết, Thọ Bồ Tát Giới, Định Tuệ Tư Lương Ca, Cảnh Thế .v.v. Hơn cả là Tứ Liệu Giản do Đại sư đề xuất có tầm ảnh hưởng rất lớn với người tu Tịnh độ trong các thế hệ về sau: 

-Có thiền có Tịnh độ, như cạp mọc sừng, hiện đời làm Thầy, đời sau làm Phật làm tổ.  

-Không Thiền có Tịnh độ vạn người tu vạn người vãng sanh, nếu được gặp Phật Di Đà lo gì không khai ngộ.  

-Có Thiền không Tịnh độ, mười người thì hết chín người lạc lối, cảnh âm hiện ra trước mắt, mờ mịt theo đó mà đi.  

-Không Thiền không Tịnh độ, giường sắt trụ đồng, muôn kiếp ngàn đời, không đâu nương cậy. 

Ngô Việt Vương Tiền Thúc thiết thiên tăng đại trai cúng dường chúng tăng trong mười phương, trai tăng xong, vua hỏi Đại sư Diên Thọ: Nay ngàn tăng vân tập, không biết có cao tăng nào giáng lâm chăng? Đại sư đáp: Hôm nay có Phật Định Quang giáng lâm, Hoà thượng có đôi tai dài là Phật Định Quảng. Vua liền đến chùa lễ bái trụ trì Hoà thượng có đôi tai dài, sám hối lỗi tiếp đãi không chu đáo. Khi đó, Hoà thượng đang thiền định, mở mắt nói 4 chữ:  “Di Đà lắm lời”! (1)Nói xong Hoà Thượng liền viên tịch. Vua nhất thời không biết ra về, lòng nghĩ Phật Định Quang nhập diệt, lại còn Phật A Di Đà ?Vua lập tức xa giá trở lại chùa Vĩnh Minh, nào ngờ vừa đến chân núi, thị giả báo cho biết Đại sư Vĩnh Minh đã Niết bàn.  Vua xúc động, hóa ra Đại sư Vĩnh Minh mới vừa viên tịch. Từ đó về sau tín đồ Phật giáo lấy ngày sinh của Đại sư ( Nông lịch là ngày 17 tháng 11) làm ngày Khánh đản của Phật A Di Đà.

Tu Viện An Lạc, California, 4:00 giờ sáng 09-11-2024

Thích Chúc Hiền ( Kính lược dịch )

———————————

(1) “Di Đà lắm lời”: là lời của Hoà Thượng có đôi tai dài ngầm ý trách Đại sư Diên Thọ.

Chuyện kể rằng:

  • Vào thời Ngũ Đại, Ngô Việt Vương cúng dường trai tăng cho ngàn vị tăng. Hôm đó có ngàn vị tăng đến, biết là trong đó có Thánh Tăng, nên không ai dám ngồi đầu bàn. Sau có Hoà thượng ăn mặc luộm thuộm, có hai trái tai dài chấm vai, ngang nhiên đến đó ngồi, thọ trai xong liền đi. Sau Ngô Việt Vương đến hỏi Đại sư Diên Thọ: “ Ngàn vị tăng đến hôm nay có vị A La Hán nào không? Đại sư Diên Thọ đáp: Vị Hoà Thượng ngồi ở đầu bàn là cổ Phật Định Quang. Ngô Việt Vương nghe xong liền phái người chạy theo. Đến nơi, Hoà thượng nói: “Di Đà lắm lời!” Nói xong Hoà thượng liền viên tịch . Mọi người quay về bẩm báo, Ngô Việt Vương bỗng nhiên tỉnh ngộ, hóa ra Đại sư Diên Thọ là Phật Di Đà tái lai, liền vội đến gặp. Khi đó tin tức lan truyền là Đại sư Diên Thọ vừa viên tịch. 



vinh minh dien tho-2

永明延壽大師(公元904~975年),唐末五代時僧人,為淨土宗六祖,亦為法眼宗三祖。俗姓王,字沖元,錢塘(今浙江杭州)人。自幼信佛,戒殺放生。錢文穆王時,做稅務官,見魚蝦飛禽等,輒買放生。自己俸薪用完,即用官錢買之放生,後被告發,罪當死。押赴市曹處斬,文穆王派人視之,指令監刑人,若見犯人懼怕即殺之,否則釋放。永明延壽大師臨刑前鎮靜自若,面不改色,說道:「我於庫錢毫無私用,盡買放生,莫知其數。今死,徑生西方極樂世界,不亦樂乎!」文穆王聽聞後,遂將大師免刑釋放。

隨後大師即於明州投翠嚴禪師出家,時年三十歲。《宋高僧傳》中記載大師在寺院的修行生活:「執勞供眾,都忘身宰,衣不繒纊,食不重味,野蔬布襦,以遣朝夕」,白天勞作,夜晚習禪,每天只以野蔬果腹,生活十分淡泊。

後參訪天台德韶國師,初習禪定,得其玄旨。《宋高僧傳》記載:「永明(延壽)在德韶會中,普請次,聞墜薪有聲,豁然契悟,乃云:撲落非他物,縱橫不是塵,山河並大地,全露法王身。」因此成為法眼宗第三代祖師。

大師後於天台山國清寺結壇修習為時二十一天的《法華懺》,又往金華天柱峰誦《法華經》,歷時三年之久,佛學修養與禪定功夫與日俱增。在天台山修學期間,於禪觀中見觀音菩薩以甘露灌其口,獲大辯才;又於中夜經行時,忽見普賢菩薩像前供養的蓮花忽然在手。由是大師感於自己終身修行趣向未有決定,遂上智者禪院做二紙鬮:一名「一心禪觀」、一名「萬善莊嚴淨土」,冥心請禱之後,歷經七次信手拈起的都是「萬善莊嚴淨土」一鬮,於是大師下定決心,一意專修淨業

從此大師發願求生西方,日誦彌陀聖號十萬聲。日暮時往別峰行道念佛,跟隨者常有數百人之多。清宵月明之夜,時聞螺貝天樂聲音。忠懿王敬重其德,聞此大為感動,歎言:「自古求西方者,未有如此之切也!」遂為大師建西方香嚴殿以成其志,賜號「智覺禪師」。

大師住永明十五年,弟子數千人。常為眾人授菩薩戒,每日定一百零八件佛事為常課,主要受持神咒、禮佛懺悔、誦經、坐禪、放生、說法等,每夜則於曠野施食鬼神。一切功德悉皆迴向眾生,以作往生淨土之資糧.

北宋開寶七年(974年),年事已高的延壽大師再次回到久別的天台山,在山上開壇傳授菩薩戒,一時引來約一萬餘求受戒者,這也是他最後一次主持大型的傳戒法會。此後,大師自知世緣無多,便閉門謝客,專心念佛,誓生淨土。宋開寶八年十二月二十六日大師晨起之後焚香禮佛,普告大眾,趺坐而化,世壽七十二歲,僧臘四十二年。

太平興國元年(976年),門人在大慈山立塔建院紀念,宋太宗賜塔院匾額曰「壽寧禪院」。後來有位從臨安來的遊僧經年繞此塔,人問其故,答曰:「我病入冥,見殿左供一僧像,王勤致禮拜,詢之乃知杭州永明禪師也,已往生西方上上品,王重其德,故禮敬耳。」因此仰慕大師,特來此瞻禮舍利寶塔。

永明延壽大師集禪教、淨土於一身,而會宗各家之說導歸西方淨土,是其佛學思想之特色所在。大師同時注重將自己的修行體驗與對佛學的研究心得整理成文字,著作有《宗鏡錄》和《萬善同歸集》、《神棲安養賦》、《唯心決》、《受菩薩戒》、《定慧相資歌》、《警世》等,尤其大師所提出的《四料簡》對後世修淨土者影響極大:

有禪有淨土,猶如帶角虎,現世為人師,來生作佛祖。
無禪有淨土,萬修萬人去,若得見彌陀,何愁不開悟。
有禪無淨土,十人九磋路,陰境若現前,瞥爾隨他去。
無禪無淨土,鐵床並銅柱,萬劫與千生,沒個人依怙。

吳越王錢俶設千僧大齋供養十方僧眾,齋僧完畢,王問壽公大師:今日千僧雲集,不知有無高僧降臨?大師答:定光佛今天降臨,即大耳和尚是也。王即前往某寺禮拜住持大耳和尚,懺悔慢待之過。此時和尚正在禪定,開目說「彌陀饒舌」四字,遂即圓寂。王一時知所措,心想定光佛入滅,還有阿彌陀佛在?立即駕返永明寺,哪知才到山門,訃告永明大師涅槃的侍者與王撞個滿懷,原來永明大師剛剛圓寂。因此後世佛教徒公定永明大師的生日(農曆十一月十七日)為阿彌陀佛聖誕。



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4549)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4643)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 5408)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4639)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 10539)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4738)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 5419)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 5006)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 5288)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
16/10/2010(Xem: 5147)
Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bản và thực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]