Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu giải thoát: Bố thí, cúng dường…

28/06/202407:30(Xem: 1985)
Tu giải thoát: Bố thí, cúng dường…


hoa sen dep (2)

Tu giải thoát: Bố thí, cúng dường…

Nguyên Giác

Bố thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát. Suốt cuộc đời Đức Phật, ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh bố thí và cúng dường.

Chữ “bố thí” thường được chúng ta hiểu theo nghĩa từ thiện, trao tặng để giúp người. Tuy hai chữ bố thí và cúng dường nguyên gốc là một nghĩa, trong tiếng Phạn là Dàna, nhưng chúng ta thường dùng chữ “cúng dường” cho ý nghĩa dâng lễ vật lên Tam Bảo. Trong Kinh AN 8.54, Đức Phật dạy rằng, hạnh bố thí và cúng dường là “một trong bốn pháp để đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử: Thế nào là bốn? Đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ.” Gọi tắt là: Tín, Giới, Thí, Tuệ.

Trong tiếng Anh, hạnh Bố thí và cúng dường là “generosity, charity or giving of alms.” Trong các kinh văn phổ biến tại Việt Nam, chúng ta thường đọc thấy rằng Bồ tát hạnh là phải tu Lục độ Ba la mật, tức là Sáu hạnh Qua bờ bên kia, là: Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí huệ Ba-la-mật. Thường gọi tắt là: Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Huệ.

Trong Tạng Pali, thường ghi rộng hơn, là Mười pháp Ba La Mật: Bố Thí (Dàna), Trì Giới (Sìla), Xuất Gia (Nekkhamma), Trí Tuệ (Pannà), Tinh Tấn (Viriya), Nhẫn Nại (Khanti), Chân Thật (Sacca), Quyết Định (Adhìtthàna), Tâm Từ (Mettà), và Tâm Xả (Upekkhà).

Đối chiếu với năm giới của Phật tử, có giới “Đừng trộm cắp, đừng lấy những gì của người khác,” bạn sẽ thấy hạnh bố thí chính là phương diện chủ động của giới này. Nghĩa là, hãy hoan hỷ, hãy sẵn lòng chia sẻ những gì mình có với người khác. Trong nghĩa này, bố thí là lòng độ lượng, là tu hạnh dập tắt lòng tham. Trong các Kinh, Đức Phật thường nói rằng hãy bố thí cho khách đi đường, cho người bệnh, người đói, người nghèo và dâng cúng để hộ trì Tăng, Ni, và ngay cả các ẩn sĩ dị giáo có giới hạnh. Thái độ Phật tử trong khi bố thí, cúng dường là hãy giữ tâm cho hoan hỷ, cẩn trọng, tự tay mình chọn, và trao phẩm vật thích hợp. Thí dụ, gặp người bệnh, thì bố thí thuốc chữa bệnh, là thích nghi nhất. Tương tự với các hoàn cảnh khác nhau. Trong tận cùng của hạnh bố thí là chứng nhập pháp ấn vô ngã, trao tặng vì không thấy có gì là “ta hay cái của ta” nữa. Chặng đường tuy là xa, nhưng tu hoài là sẽ tới.

Trong Kinh Pháp Cú 223, và 224, Đức Phật dạy rằng hãy giữ tâm lìa sân, hãy tu thiện pháp, hãy giữ hạnh bố thí để lìa tham, hãy nói lời chơn thật, ngay cả khi bản thân đang sống thiếu thốn, cũng nên bố thí cho người cần giúp. Sống được như thế, kiếp sau sẽ sinh vào thiên giới. Hai bài kệ này, do Thầy Minh Châu dịch như sau.

223. "Lấy không giận thắng giận,

Lấy thiện thắng không thiện,

Lấy thí thắng xan tham,

Lấy chơn thắng hư ngụy."           

  

224. "Nói thật, không phẫn nộ,

Của ít, thí người xin,

Nhờ ba việc lành này,

Người đến gần thiên giới."

 

Trong tích truyện Pháp Cú, bài kệ 224 duyên khởi là Đức Phật trả lời một câu hỏi của Trưởng Lão Maha Moggallana. Truyện kể rằng, một lần, Trưởng lão Maha Moggallana (ngài Đại Mục Kiền Liên) viếng thăm cõi trời và thấy nhiều vị thiên sống trong những dinh thự sang trọng. Ngài hỏi rằng họ đã tái sinh vào cõi chư thiên nhờ việc tốt gì, và họ đã trả lời cho Trưởng lão bằng những câu trả lời khác nhau. Một vị tái sinh vào cõi chư thiên chỉ vì vị này luôn nói sự thật. Người thứ hai là một thiên nữ được tái sinh vào cõi chư thiên vì cô không giận chủ và không có ác ý với ông chủ, mặc dù ông chủ thường xuyên đánh đập và ngược đãi cô. Vì giữ tâm an bình và từ bỏ sân hận, cô đã tái sinh vào cõi chư thiên. Trong khi đó, có những vị khác được sinh vào cõi chư thiên vì họ đã cúng dường những phẩm vật nhỏ nhặt, như một khúc mía, trái cây hoặc một bó rau cho một vị tăng hay ni, hoặc cho một người nào khác.

Khi trở về từ cõi trời, Trưởng lão Maha Moggallana đã hỏi Đức Phật liệu có thể đạt được những lợi ích to lớn như vậy chỉ bằng cách nói sự thật, hay bằng cách lìa sân, hay bằng cách bố thí một lượng nhỏ những thứ lặt vặt như trái cây và rau quả. Đức Phật trả lời rằng: "Con trai của Ta, tại sao con hỏi? Con chưa tận mắt thấy và nghe những gì chư thiên nói sao? Con không nên nghi ngờ gì. Những việc phước nhỏ nhoi chắc chắn sẽ đưa người ta sinh vào thế giới của chư thiên."

Trong Kinh Đại Phước Đức (Mahamangala sutta) Sn 2.4 của Tiểu Bộ Kinh, khi nói về hạnh bố thí của Phật tử đã nói rằng người đại phước đức là người cúng dường cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, giúp thân nhân, bố thí độ lượng cho người khác, mưu sinh bằng các nghề dẫn tới bình an cho thế giới này (engaged in peaceful occupation), giữ giới hạnh, hành động không sai trái gì (blameless in action).

Và tận cùng, Phật dạy trong Kinh Đại Phước Đức này, là phải thực chứng Niết Bàn. Nơi đây, xin dịch như sau, trích: “Kiên nhẫn và vâng lời, thân cận với các tu sĩ và thảo luận về Chánh pháp trong những dịp thích hợp – đây là phước lành lớn nhất. Tự phòng hộ, sống đời thánh thiện và trong sạch, tu học Tứ Diệu Đế và thực chứng Niết Bàn – đây là phước lành lớn nhất.”

Đối với những người giàu có và dư thừa mà không chịu bố thí, tương lai đời họ sẽ là suy sụp, bất hạnh. Đức Phật nói trong Kinh Sn 1.6 (Parabhava Sutta) cũng trong nhóm Tiểu Bộ Kinh, nơi đây chúng ta trích dịch như sau: “Người có nhiều của cải, vàng bạc và thực phẩm, nhưng chỉ hưởng thụ những xa hoa cho riêng mình - đây là nguyên nhân sẽ dẫn người này tới suy sụp. Người kiêu hãnh về dòng dõi, về sự giàu có hay về dòng tộc, và coi thường bà con của mình - đây là nguyên nhân sẽ dẫn người này tới suy sụp.

Ý thức được rằng cần phải tu hạnh bố thí và cúng dường, bản thân người viết đã nỗ lực trong hoàn cảnh riêng. Khoảng hai thập niên trước, khi dẫn đứa con nhỏ ra chợ, thường thấy có người ngồi ăn xin vài nơi ở phố Bolsa, thì đưa một đôla cho đứa con, dặn là trao tiền vào nón của người ăn xin, rồi hãy tự nói thẩm trong tâm, “Xin nguyện cho tất cả mọi người, sẽ không ai phải nghèo đói trong thế giới này, và rồi sẽ thành Phật.” Vào những ngày Chủ nhật, người viết cũng chở đứa con đi một vòng khoảng 10 chùa, bảo đứa con cầm 1 đôla tới bỏ vào thùng phước sương nơi sân chùa hay trước bàn thờ, rồi hãy tự nói lời nguyện trên. Bây giờ nhìn lại, lòng tôi lúc nào cũng vui khi nhớ rằng mình đã dạy con một cách đơn giản như thế.

Riêng bản thân, người viết cũng tự ý thức rằng mình không giàu, không thể cúng dường lớn lao, nên tự chọn con đường riêng, cũng nằm trong sở thích: Đó là pháp thí. Tức là đưa Chánh pháp tới cho càng nhiều người càng tốt. Đó cũng là lý do, bản thân tôi đọc Kinh ngày đêm, trong mọi thời gian có thể đọc được, và rồi viết những gì có lợi cho độc giả có thể tu học, cụ thể thực hành được, không nói chuyện trên mây. Kinh Pháp Cú cũng dạy rằng Pháp thí là đệ nhất.

354. "Pháp thí, thắng mọi thí!

Pháp vị, thắng mọi vị!

Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!

Ái diệt, dứt mọi khổ!"

 

Cũng nên ghi nhận rằng, nơi Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy trong bài Kệ 356 rằng, bố thí cho người đã ly tham sẽ có vô lượng phước đức, dạy trong bài Kệ 357 rằng bố thí cho người đã ly sân cũng sẽ có vô lượng phước đức, và dạy trong bài Kệ 358 rằng bố thí cho người đã ly si cũng sẽ có vô lượng phước đức. Tuy nhiên, chúng ta là người không có đủ tuệ nhãn để thấy ai là bậc đã ly tham sân si, và cũng không chắc có đủ cơ duyên để gặp vị như thế trong kiếp này. Do vậy, khi cúng dường cho các chùa, quý Tăng, Ni, hãy giữ tâm tịnh tín nghĩ rằng đây là cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Hay ít nhất, cũng nên nghĩ rằng, mình đang cúng dường một vị đang tu để ly dục, vì bài Kệ 359 nói rằng bố thí cho người ly dục sẽ được vô lượng phước đức.

Cũng nên ghi nhận rằng, tu học Bát Chánh Đạo là pháp bố thí tuyệt vời nhất, bởi vì ngay trong tu học, chính là bố thí Pháp cho cõi này. Ngay cả có cúng dường cho một trăm vị A La Hán, cúng dường cho một vị Phật, cúng dường ngôi tịnh xá cho Tăng chúng, cũng không bằng trong một khoảnh khắc tu tập tâm từ, trong một khoảnh khắc tu quán vô thường.

Đức Phật dạy trong Kinh AN 9.20, bản dịch của Thầy Minh Châu, rằng: “Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velàma bố thí có rộng lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí cho 100 vị đầy đủ chánh kiến.. và có ai bố thí một vị Bất lai… và có ai bố thí trăm vị Bất lai, và có ai bố thí một vị A-la-hán… và có ai bố thí trăm vị A-la-hán… và có ai bố thí một vị Độc giác Phật, và có ai bố thí trăm vị Độc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác… và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương… và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng… và có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh… từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu… và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.” (1)

Đặc biệt, nên giữ tâm bình đẳng trong khi bố thí. Hãy nhìn tất cả mọi người là một vị Phật trang nghiêm trong cõi riêng của họ. Hãy nhìn tất cả mọi người nơi thực tướng của sắc thọ tưởng hành thức đều là bình đẳng trong rỗng rang vô tướng. Kinh Tăng Nhất A Hàm gọi bố thí như thế là huệ thí, tức là, bố thí với đôi mắt của trí huệ. Nghĩa là, nhìn thấy các pháp bình đẳng. Nhiều thập niên trước, tôi được bổn sư là Hòa Thượng Tịch Chiếu dạy rằng con chỉ cần giữ một giới duy nhất thôi, đó là bình đẳng.

Kinh EA 48.5, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng dịch lời Đức Phật dạy: “Lành thay, lành thay, Trưởng giả, ông có thệ nguyện rộng lớn như vậy! Bồ tát bố thí với tâm luôn luôn bình đẳng. Trưởng giả nên biết, khi Bồ tát huệ thí, chư thiên đến bảo rằng,’Thiện nam tử, nên biết, đây là người trì giới. Đây là người phạm giới, thí đây, được phước nhiều, thí đây được phước ít.’ Bồ tát bấy giờ không hề có tâm như vậy, răng ‘Nên thí đây. Không nên thí đây.’ Nhưng Bồ tát giữ tâm ý không có thị phi. Không nói, đây trì giới. Cũng không nói, đây phạm giới. Cho nên, này Trưởng giả, hãy với tâm niệm bình đẳng mà huệ thí, trong lâu dài được phước vô lượng.” (2)

Do vậy, đừng nghĩ rằng mình đang bố thí ít quá, cần bố thí nhiều hơn. Mà hãy luôn luôn nghĩ rằng, mình đang bố thí để trang nghiêm tâm. Đức Phật dạy trong Kinh AN 7.52 rằng người nào hễ bố thí với tâm không mong cầu, mà chỉ để trang nghiêm tâm, thì sẽ lên cõi Phạm thiên và rồi chứng quá Bất Lai (A Na Hàm), không trở về cõi Ta Bà gian nan này nữa.

Đức Phật dạy trong Kinh AN 7.52, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: “—Này Sàriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”, bố thí không với ý nghĩ: “Lành thay, sự bố thí”, bố thí không với ý nghĩ: “Cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để truyền thống gia đình này bị bỏ quên”, bố thí không với ý nghĩ: “Ta nấu ăn, các người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại không bố thí cho người không nấu ăn”, bố thí không với ý nghĩ: “Như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka, Vàmaka, Vàmadeva, Vessàmitta, Yamataggi, Angìrasa, Bhàradvàja, Vàsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố thí này”, bố thí không với ý nghĩ: “Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên”. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.” (3)

Do vậy, cúng dường cũng là tu giải thoát, chứ không thuần túy là hỗ trợ chùa chiền, Tăng Ni. Bố thí với tâm thanh tịnh là sẽ sinh lên cõi thiên, rồi nơi đó sẽ chứng quả Bất Lai. Tâm không mong đợi gì hết, mà lại được quả lớn vô cùng.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật giải thích rằng bố thí như thế là bố thí mà không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Bản dịch của Thầy Thanh Từ viết: “Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường.”

Đọc kỹ Kinh Kim Cang, chúng ta sẽ hiểu vì sao Đức Phật kể trong Bản sanh truyện, có tiền kiếp Đức Phật (khi là Hoàng tử Sattva) đã bố thí thân xác của ngài để cho một con cọp mẹ ăn thịt, vì ngài thấy cọp mẹ đói và vì cọp mẹ có thể ăn thịt các cọp con cho đỡ đói. Đó là thời cọp nói tiếng người (hiển nhiên là ẩn dụ), chỉ ra rằng Bổ Tát phải thấy tất cả các pháp đều là không. Không có nghĩa là bây giờ chúng ta thấy cọp đói thì hãy bố thí thân xác. Vậy rồi làm sao hộ trì Chánh pháp. Hãy nhìn tới mặt trăng, đừng chấp vào ngón tay.

Tương tự, chỉ qua Kinh Kim Cang, chúng ta mới hiểu vì sao trong tiền thân của Đức Phật Thích ca là  Vua Vessantara đã bố thí vợ con. Tích này cũng ghi lại trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo, bản dịch của ngài Bhikkhu Indacanda là Kinh Milinda Vấn Đạo. Nơi đây, chúng ta trích đoạn nơi Phẩm Vessantara, bản Việt dịch Indacanda:

Thưa ngài Nāgasena, có phải hết thảy tất cả các đức Bồ Tát đều bố thí con và vợ, hay là chỉ riêng đức vua Vessantara đã bố thí con và vợ?”

“Tâu đại vương, tất cả các đức Bồ Tát cũng đều bố thí con và vợ, không phải chỉ riêng đức vua Vessantara đã bố thí con và vợ.”

“Thưa ngài, phải chăng các vị ấy bố thí với sự đồng ý của những người ấy?”

“Tâu đại vương, người vợ thì đồng ý. Trái lại, hai đứa bé đã than vãn do bản chất trẻ thơ. Nếu chúng có thể biết được mục đích, chúng cũng có thể tùy hỷ, chúng có thể không than vãn.”

“Thưa ngài Nāgasena, hành động khó làm đã được làm bởi đức Bồ Tát là việc vị ấy đã bố thí những đứa con ruột thịt yêu quý của chính mình để làm nô lệ cho người Bà-la-môn. Việc thứ nhì này còn là hành động khó làm hơn hành động khó làm, là việc vị ấy đã dửng dưng sau khi nhìn thấy người Bà-la-môn ấy trói lại những đứa con ruột thịt yêu quý dại khờ thơ ấu của chính mình bằng dây rừng và đang đánh đập bằng dây rừng. Việc thứ ba này còn là hành động khó làm hơn hành động khó làm, là việc đứa bé trai, sau khi đã được thoát khỏi sự trói buộc nhờ vào sức mạnh bản thân, đã đi đến, bị lâm vào sự hoảng sợ, thì vị ấy đã trói bằng dây rừng rồi lại bố thí lần nữa.” (4)

Theo Kinh Kim Cang, chúng ta sẽ hiểu rằng bố thí vợ chỉ có nghĩa là dứt bỏ tất cả những gì sắc thanh hương vị xúc pháp của quá khứ và hiện tại, và bố thí các con chỉ có nghĩa là chặt đứt tất cả các duyên của những gì sắc thanh hương vị xúc pháp của tương lai. Chỉ nên hiểu bố thí như thế. Bởi vì trao tặng vợ con mình cho người khác là thiếu từ bi với vợ con (Tâm Từ nằm trong 10 hạnh ba la mật) và là phạm giới đầu tiên (nếu chưa phải là đẩy vợ con vào chỗ chết, thì cũng là đang gây tổn thương đau đớn và oán hận, sẽ là duyên cho tương lai bất hạnh).

Do vậy, bố thí trong tận cùng là để giải thoát. Hãy bố thí mà không để mong cầu gì hết, mà chỉ là để trang nghiêm tâm, thì sẽ sinh lên các cõi thiên rồi chứng quả Bất Lai. Và hãy bố thí tận cùng là theo lời dạy của Kinh Kim Cang: tâm không trụ vào bất kỳ những gì trong ba thời của sắc thanh hương vị xúc pháp. Ngay khi đó, ngay trong cõi này, là giải thoát.

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 9.20: https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau

(2) Kinh EA 48.5:  https://suttacentral.net/ea48.5/vi/tue_sy-thang

(3) Kinh AN 7.52: https://suttacentral.net/an7.52/vi/minh_chau

(4) Kinh Milinda Vấn Đạo: https://suttacentral.net/mil6.3.1/vi/indacanda

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/05/2014(Xem: 6581)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 10477)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 8001)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 10161)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
03/02/2014(Xem: 7254)
* Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con
26/12/2013(Xem: 11511)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 21952)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 15125)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
13/12/2013(Xem: 12587)
1. Anagarika Govinda là một Lama, người Bolivia, nguyên giảng dạy Triết học tại Đại học Naples. Từ năm 1928-1930 ông qua Sri Lanka, xuất gia với Đại đức Nyatiloka Mahathera, rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Năm 1947, ông qua Tây Tạng, được làm đệ tử của Lama Ngawang
13/12/2013(Xem: 7395)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật. (Xin đọc phần đính kèm ở cuối bài, nói về 4 loại Tịnh độ)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]