Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý Nghĩa Phương Tiện Trong Kinh Pháp Hoa

29/03/201315:20(Xem: 6127)
Ý Nghĩa Phương Tiện Trong Kinh Pháp Hoa

quang duc kinh phap_hoa

Ý NGHĨA PHƯƠNG TIỆN TRONG KINH PHÁP HOA

HT. Thích Trí Quảng

---o0o---

Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy có hai cửa vào đạo là Chân thật môn và Phương tiện môn. Chân thật môn là con đường chính, nhưng chỉ có Phật mới đi vào con đường này được. Nói cách khác, theo tinh thần Pháp Hoa, chỉ có Đức Phật thị hiện trên cuộc đời, mang thân phàm phu và xuất gia học đạo, chỉ tu 6 năm mà thành Phật. Từ đó đến nay, biết bao nhiêu người tu, trải qua năm mười năm, hay cả mấy chục năm, nhưng không ai thành Phật. Tại sao ?

Vì chúng ta là phàm phu, hay nhị thừa, Bồ tát thì cũng chỉ chứng được quả mà chúng ta đã có từ đời trước. Thí dụ các vị Thánh La hán tái sinh trên cuộc đời, tu hành, cũng chỉ chứng đến quả La hán là cao tột. Từ quả La hán mà tiến tu lên được quả vị cao hơn nữa có thể được, nhưng cũng không đơn giản. Người may mắn gặp được Phật, thì sự tu chứng nhanh hơn, chỉ trong một niệm tâm liền chứng được quả A la hán, như ngài Xá Lợi Phất. Với người không gặp Phật, phải trải qua quá trình nương theo giáo lý tu tập, gia công thiền định, cũng chứng được quả A la hán. Như vậy, quả A la hán họ đã có sẵn, nên đời này mang thân phàm, mới chứng được dễ dàng.

Còn những vị chân sư đã trồng căn lành đời trước, nay tái sinh, xuất gia học đạo. Với quả vị Hòa thượng đã có từ đời trước, các ngài tu hành, từng bước cũng phát triển đạo vị, làm Hòa thượng hay A xà lê, nhưng chưa là Thánh.

Trong chúng ta, cũng có vị là Bồ tát, A la hán, Bích chi Phật tái sinh, nhưng đa số là phàm tăng. Nếu thật lòng tu, cũng chứng được quả thấp nhất là Dự lưu, hay theo Đại thừa, thấp nhất là tam Hiền, tức thập trụ Bồ tát. Ở quả vị này, trụ tâm được, không bị hoàn cảnh tác động, không bị vui buồn, vinh nhục của cuộc đời làm hoen ố tâm.

Còn hàng nhị thừa, đạt quả vị thấp nhất, không bị lệ thuộc ăn uống, ngủ nghỉ. Ăn uống đạm bạc cũng khỏe mạnh, làm việc liên tục cũng không sao. Nay đau mai yếu, phải ăn kiêng, là biết nghiệp còn nhiều, chắc chắn việc làm đạo sẽ bị trở ngại. Ý thức như vậy, phải siêng năng lạy sám hối cho tiêu nghiệp.

Ngài Tối Trừng ở Tỷ Duệ sơn, Nhật Bản, dạy rằng tất cả người tu theo Thiên Thai tông, phát nguyện tu Pháp Hoa, lên núi ở. Không còn buồn phiền, không còn mệt mỏi vì đói khát, nóng lạnh, mới cho xuống núi hành đạo. Có người sống trên núi 10 năm, 20 năm vẫn không được xuống núi. Vì còn nghiệp mà đi hành đạo, họ sẽ bị cuộc đời làm ô nhiễm và họ cũng làm cho đàn na mất tín tâm.

Người không kính trọng ta, phải tự nghĩ vì ta không đủ đức hạnh. Nghĩ như vậy cũng đúng với tinh thần Phật giáo Nguyên thủy. Thật vậy, năm anh em Kiều Trần Như chưa gặp Phật đã là những nhà hiền triết quyết tâm tu hành. Phật đến độ họ, chỉ có Kiều Trần Như liền ngộ đạo, đắc quả A la hán, nghĩa là đã vượt qua được sự bức ngặt của đói khát, nóng lạnh và tâm thanh tịnh hoàn toàn. Đức Phật mới cho ngài đi khất thực chung. Bốn vị còn lại phải ẩn tu, vì chưa có hảo tướng, người trông thấy không phát tâm, đôi khi còn chống phá.

Đắc đạo, Đức Phật nghĩ rằng nếu đưa ra Chân thật môn, tức chỉ bày chân lý, mọi người không tiếp thu được, còn bị đọa. Đức Phật muốn vào Niết bàn, vì những điều ngài hiểu, chứng được, thì không dạy được; vì nghiệp của người nặng, trình độ không có. Lúc đó, mười phương Phật hiện ra, ấn chứng cho sự thấy đúng của Phật Thích Ca, tất cả những gì mà ngài chứng đắc cũng như của Phật mười phương chứng đắc.

Nhưng thấy đúng rồi, có làm được không? Chúng ta phát tâm tu hành thường rơi vô lý tưởng. Lý tưởng luôn luôn quá đẹp, mà thực tế lại phũ phàng. Khoảng cách rất xa giữa thực tế và lý tưởng làm cho chúng ta thất vọng, bất mãn, chán nản, buồn phiền, v.v...; trần lao nghiệp chướng từ đây phát sinh ngay.

Phật Thích Ca đắc đạo, tương thông được với mười phương Phật, quả là tuyệt vời; nhưng trở lại cuộc đời thân cận với chúng sanh đầy tham, sân, si, để cảm hóa họ đi theo con đường chân thật giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau sinh tử, quả là cả vấn đề không đơn giản chút nào.

Thấu hiểu sự khó khăn này, chư Phật mười phương khẳng định với Phật Thích Ca rằng tất cả chư Phật hiện thân trên cuộc đời, giáo hóa chúng sinh, đều phải mở cánh cửa phương tiện cho họ đi vào. Con đường chân thật của Phật đi, chúng sinh không thể nào đi được.

Trên bước đường tu, tôi nhận rõ ý này. Chúng ta phải chấp nhận thực tế là mỗi người có hoàn cảnh khác nhau, không ai giống ai, nên không thể bắt chước được. Từ hoàn cảnh riêng mà tu hành, ý thức về lời Phật dạy là pháp sai biệt dành cho mỗi người khác nhau.

Phật Thích Ca mới triển khai tám mươi bốn ngàn pháp môn tu, nghĩa là chúng sinh có bao nhiêu phiền não, trần lao nghiệp chướng thì Phật có bấy nhiêu pháp tương ưng để đối trị. Còn Thánh La hán không có phiền não, trần lao nghiệp chướng, nên không có pháp đối trị dành cho họ. Phật dạy tất cả giới luật mà Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phải tuân thủ; vì họ sẽ phạm những lỗi lầm nếu không được cấm ngăn, bảo vệ. Đối với hàng Thánh tăng như Kiều Trần Như, Phật không chế giới. Mới thấy Phật, tâm ông liền thanh tịnh, đắc quả A la hán thì cần gì giới điều ràng buộc.

Phật triển khai tất cả giới nhằm giúp chúng ta không sanh khởi tâm phiền não, không phạm hành động xấu ác, không làm những việc vô ích, có hại... Vì vậy, khi nương được pháp phương tiện của Phật dạy, chúng ta tu hành, tâm hồn được thoải mái, an vui, bởi nhận chân được sự thật của cuộc đời, chúng ta không lý tưởng hóa mọi việc, không nhận thức sai lầm.

Thuở nhỏ, một vị Hòa thượng dạy tôi tụng Pháp Hoa sẽ hết bực bội, buồn phiền; nếu không thì cứ thắc mắc tại sao thế này, mà không thế kia và không bằng lòng ai cả. Hòa thượng dạy rằng phải nhìn đúng sự thật, con cò phải trắng, con quạ phải đen. Không thể bắt con quạ trắng như con cò. Phải nhìn rõ cốt lõi bên trong của một người là gì. Nếu họ là tiên giáng phàm, không dạy họ vẫn có cốt cách thần tiên. Trái lại, bắt khỉ mặc áo người, nó cũng chỉ làm được trò khỉ.

Bồ tát, Thánh tăng tái sinh, tất yếu cốt lõi của họ là Bồ tát, Thánh tăng. Người làm thuê ở mướn, hay người trốn nợ, trốn tù cạo đầu vô chùa ở thì phải cảnh giác họ. Phải nhìn thấy thực, tưởng lầm họ là thánh thì nguy hiểm vô cùng. Những người nặng về hình thức, tưởng tất cả người mặc áo tu là thật tu, dễ bị lợi dụng, phiền não, thoái tâm.

Phật dạy quán sát thật tướng các pháp, nghĩa là công nhận sự thật, thấy sự thật, không thấy khác. Và thấy rõ rồi mới khai phương tiện. Tôi không cho phép anh bị nghiện xuất gia, nhưng dạy anh pháp cai nghiện. Từ bi cho họ ở, phải trông chừng cẩn thận, không để ý, họ gây rắc rối liền. Đối với người này, pháp cai nghiện là thích hợp nhất.

Đức Phật đã dạy có nghiệp phải sám hối cho tiêu nghiệp mới tu được, ví như chiếc áo dơ phải giặt sạch mới nhuộm màu được. Giải thích ý này, ngài Trí Giả chia ra ba hạng người tu. Hạng người thứ nhất gọi là hảo tâm xuất gia, đồng chơn nhập đạo. Họ đã trồng căn lành với Phật ở đời trước, nay tái sinh trên cuộc đời không bị trần lao làm ô nhiễm và tìm đường giải thoát. Điển hình như Hòa thượng Trí Tịnh thuở còn bé, chưa tu, lên núi Ông Cấm gặp Tổ Vạn Linh đắc đạo. Ngài nói rằng đời trước chú bé này đã là Hòa thượng, mai kia cũng sẽ là Hòa thượng, các ông đừng xem thường. Chưa tu, nhưng cốt cách Hòa thượng đã có rồi.

Tổ Thiên Thai ví họ như áo trắng sạch nhuộm màu đạo dễ thấm lắm. Với những người như vậy, chúng ta phát hiện được căn lành của họ và nuôi lớn căn lành. Họ thông minh, nghiệp trần không có, nên phát triển đạo hạnh rất nhanh. Không có nghiệp, nên không bị phiền toái của vật chất đòi hỏi, không bị tình cảm tầm thường chi phối và trí tuệ sáng sẵn, thâm nhập Phật huệ dễ dàng.

Hòa thượng Trí Tịnh chuyên tụng phẩm Phương tiện thứ hai của kinh Pháp Hoa. Tôi nhận ra pháp phương tiện giúp chúng ta không mắc bệnh chấp; vì yếu nghĩa của phương tiện chỉ cho chúng ta nhận chân được sự thật, chúng ta sẽ không phạm sai lầm. Họ không thể là Tăng sĩ, nhưng chúng ta cho xuất gia, cuối cùng cũng hoàn tục mà còn có hại nữa. Có thầy nói rằng lo cho một đệ tử ăn học xong, lại ra đời, buồn quá. Nhận rõ sự thật, chúng ta sẽ không buồn. Tôi thấy cậu bé thông minh, nhưng không có căn lành, không cho xuất gia, nhưng tôi cho tiền học để sau họ thành tài, sống lợi ích cho bản thân họ và lợi cho xã hội.

Hạng người thứ hai ví như chiếc áo bẩn, nghĩa là đời trước họ có tu, nhưng tái sinh gặp Phật pháp hơi muộn. Tuy sống với đời mà tâm vẫn nghĩ đến đạo, nên khi gặp đươc chân sư khai ngộ, họ liền xuất gia.

Hòa thượng Thiện Hòa tiêu biểu cho mẫu người này. Ngài là Giám đốc Phật học đường Nam Việt, lập gia đình rồi mới đi tu. Ngài gặp Tổ Khánh Hòa, phát tâm tu. Nhờ có căn lành đời trước, nên đời này sống trong gia đình giàu có, khi phát tâm tu, ngài sám hối tội căn ở ba mặt. Một là Hòa thượng sám hối bằng cách vào Phật học đường, sống chung với chư Tăng, ngài nhận làm công việc phục vụ đại chúng.

Mặc dù đã là Giám đốc Phật học đường, ngài cũng quét sân chùa mỗi ngày để kiếm phước. Sống trong đại chúng, ngài không kiêu căng, buồn phiền, chỉ lo công quả, lập công bồi đức, vì sợ thọ hưởng, bị tổn phước và xuất thân nhà giàu, nên ngài sử dụng tiền của để lo cho đại chúng. Nhờ pháp sám hối này, huynh đệ cảm mến đức độ của Hòa thượng. Tôi nghe các Hòa thượng cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều khen ngợi ngài là người tốt, siêng năng, nhẫn nại làm việc đạo, không làm mất lòng người.

Pháp sám hối thứ hai của Hòa thượng là ngài thường lạy hồng danh Phật, lấy Phật đức trang nghiêm thân tâm; vì thế, tâm lần thanh tịnh, thân khỏe mạnh. Lạy Phật đến thấy hảo tướng Phật hiện ra, là biết hết nghiệp, nhuộm màu đạo được. Nói cách khác, thấy Phật hiện ra là chúng ta nhìn đâu cũng thấy Phật, thấy mây bay, núi non cũng tưởng như Phật, nên không còn phiền não.

Lạy Phật xong, vừa bước ra khỏi chánh điện, gặp người mình ghét, phiền não nổi dậy, là ác tướng hiện ra, chưa nhuộm màu đạo được, có nhuộm màu gì cũng trở thành lem luốc. Vì vậy sám hối chưa sạch nghiệp mà thọ lãnh giáo pháp Phật, người này khó tiến tu.

Và pháp sám hối thứ ba mà ngài áp dụng là xứng tánh sám hối. Tất cả hiện tướng đều biến mất, để tâm trí hoàn toàn vắng lặng mới nhuộm màu đạo được.

Hạng người này ví như áo dơ, nhờ công quả, lạy Phật, nghiệp sạch lần; nên tâm yên tĩnh, Phật pháp tự hiểu dễ dàng và việc hành trì pháp Phật cũng thành tựu một cách nhẹ nhàng.

Hạng người thứ ba ví như chiếc áo vừa dơ vừa rách; nghĩa là người tội ngập đầu, cũng phải giặt áo cho sạch, tức sám hối cho sạch nghiệp. Mang nghiệp quá nặng, tâm đau khổ, thân tội lỗi, chỉ còn cách công quả, kiếm chút phước, phục vụ đại chúng để kết duyên lành. Chỉ mong được vậy thôi cũng may lắm rồi và hy vọng đời sau sẽ có được thân khỏe mạnh, trong sạch, không buồn phiền, không tội lỗi mới dễ tu.

Riêng tôi, thuở nhỏ xuất gia cũng tâm niệm như vậy, vì cuộc đời mình nghèo thiếu, bệnh hoạn, xấu xí thường kèm theo sân si. Nhờ nương pháp phương tiện của Phật tu hành, hoàn cảnh lần đổi khác, được Phật hộ niệm, bổ xứ cho làm một số việc, thành tựu một ít Phật sự. Vì vậy, tôi rất tâm đắc lời tâm sự của Xá Lợi Phất với Phật rằng dù đầu đội và hai vai cõng vác Phật, cũng không bao giờ đền đáp được công ơn vô bờ bến của Đức Thế Tôn.

---o0o---

Nguồn: chuyenphapluan.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 5645)
Hệ thống giáo nghĩa Chân Tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân Tông và các đặc điểm của nó.
22/04/2013(Xem: 5433)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độ là hết sức sâu đậm. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm và cần sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xác định truyền thống tu học của người Phật tử Việt Nam, nhằm xây dựng các nguyên tắc tổ chức trong các tự viện nói riêng và đời sống tín ngưỡng.
22/04/2013(Xem: 5295)
Nhìn nhận một cách tổng quát về ý nghĩa giáo lý Đức Phật thuyết Pháp một đời mà nói, nếu rời xa ý nghĩa phương tiện thì không có nội dung tam tạng kinh điển Phật giáo xuất hiện ở thế gian này. Giáo lý là chiếc bè cứu vớt chúng sanh đang khổ đau vô cùng tận trong biển lớn sanh tử luân hồi.
22/04/2013(Xem: 5245)
Ðây là hai câu phú trong bài Cư Trần Lạc Ðạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt nam. Có thể nói, hai câu phú trên đã đúc kết được phần nào cách lý giải mà các Thiền giả dành cho pháp môn Tịnh độ. Và đây cũng chính là nội dung của bài viết này muốn đề cập đến.
22/04/2013(Xem: 6177)
Phật pháp là pháp bình đẳng hoàn toàn không có cao thấp, tu tập bất kỳ pháp môn Phật pháp nào, cũng có công đức và cũng có thể thành Phật. Phật pháp vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật dạy vô lượng pháp môn, chẳng qua là tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sinh nghiệp lực không giống nhau, tâm lượng lại có lớn nhỏ. Phật phương tiện dẫn đạo chúng sinh nên nói Tiểu thừa và Đại thừa. Tất cả các pháp, vốn là không hai, không khác, đồng về một thật tướng.
22/04/2013(Xem: 5985)
Đại thừa Phật giáo đối với việc tự cầu giác ngộ của Tiểu thừa Phật giáo mà nói, thì chẳng những tự độ mà còn chuyên chở hết thảy chúng sinh đến Niết Bàn giác ngạn.
22/04/2013(Xem: 5723)
Những lời thống thiết xuất phát từ lòng từ bi vô lượng của chư Phật, chư tổ chính là kim chỉ nam cho chúng ta cứu vãn, khôi phục và làm rực rỡ nền văn hoá đạo đức truyền thống của dân tộc. Ý nghĩa văn hoá và phương pháp tu trì của Tịnh độ tông chẳng những có thể đáp ứng mong muốn của con người hiện đại ở trình độ cao mà còn có khả năng chữa trị có hiệu quả những căn bệnh của xã hội ngày nay.
22/04/2013(Xem: 5807)
Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.
22/04/2013(Xem: 8604)
Cuốn “Di Đà Huyền Chỉ” ra đời đồng thời với bản dịch Việt ngữ “Thế Giới Nhất Hoa” vào cuối năm 2001. Cuốn “Thế Giới Nhất Hoa” đến nay vẫn còn ở các quày sách. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiền Công án rất khó nuốt.
22/04/2013(Xem: 18325)
Bộ sách này có thể gọi là kinh "Khóa Hư" vì là cả một đời thực nghiệm về chân lý sinh tồn của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên, từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu "đi đến đâu cỏ không mọc lên được".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]