Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dạy con niệm Phật

03/02/201418:21(Xem: 6524)
Dạy con niệm Phật
A_Di_Da_Phat_6A_Di_Da_Phat_8A_Di_Da_Phat_16

*Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức

Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con mình có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn hiểm trở trong cuộc đời. Tôi lấy sự kiện sóng thần Nhật Bản năm 2011 làm minh chứng, thiên tai đó đã cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng nhưng trong đó có một em bé bốn tháng tuổi lại may mắn sống sót. Trải qua ba ngày sau cơn sóng thần động đất, người ta mới tìm ra em và đưa em về đoàn tụ cùng gia đình. Cha mẹ cũng không bảo vệ em được. Bởi vì khi đó, bản thân họ cũng phải chống chọi với tử thần. Vậy lúc đó, ai che chở cho em? Chỉ có phước đức của em mới tự bảo vệ mình.
Bản thân tôi cũng là một ví dụ. Năm lên 12 tuổi, một hôm tôi ngồi chơi, vô tình chạm tay vào sợi dây điện 220V hở múi nên bị giật. Ba tôi ngồi ở cái bàn phía sau lưng tôi mà không biết gì cả, mặc dù lúc đó trong tâm thức tôi gào lên: “Ba ơi cứu con!” Trong lúc tuyệt vọng, tôi buông thả sợi dây điện rớt xuống đất, nhờ vậy mà thoát chết. Sau đó, tôi hỏi lại thì ba tôi bảo không nghe, không biết gì việc tôi bị điện giật, dù rằng ông ở cách tôi chưa đầy bốn mét. Cha mẹ ở bên cạnh đó nhưng cũng không thể bảo vệ được con mình huống gì là ở xa? Sau ấn tượng đó, không bao giờ tôi quên; nếu như thiếu phước có lẽ tôi cũng vĩnh viễn ra đi.Nhờ vậy mà tôi rút ra được bài học, “con người sống trong đời mà thiếu phước đức thì mọi việc đều hỏng, khổ đau sẽ triền miên.”

* Vì sao tôi dạy con mình niệm Phật?


Người xưa thường nói: “Dạy con từ thuở còn thơ…..”
Là gia đình Phật tử, hai vợ chồng tôi tu tập tại gia và hướng dẫn các con làm theo những điều tốt, điều thiện. Tôi thường nói với các con mình: “Các con à! Không ai có thể che chở được cho các con ngoại trừ các con. Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất. Các con hãy ghi nhớ kỹ điều này.”Khi tôi có thai các bé thì tôi không hiểu nhiều về Phật pháp nên tôi không thể giáo dục con lúc còn ở trong thai kỳ như các Quý Thầy đã dạy. Vì vậy, bây giờ tôi dạy các con hướng về thiện. Các cháu còn nhỏ nên tôi nghe lời Pháp sư Tịnh Không giảng, thường cho các cháu xem các phim về Nhị Thập Tứ Hiếu, Câu Chuyện Nhân Quả (Cảm Ứng Thiên), Phép Tắc Người Con. Quan niệm của vợ chồng tôi là phải dạy cho các cháu đạo đức, nhân quả khi các cháu còn nhỏ. Sau này nhất định các cháu sẽ trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Các bậc cha mẹ đừng để con mình lớn rồi mới dạy thì sẽ gặp nhiều khó khăn; bởi vì tính cách hình thành từ bé đã ăn sâu nên khó thay đổi. Nếu như con cái lớn rồi mà tính cách đã quá xấu thì cha mẹ phải thành tâm niệm Phật hồi hướng cho con may ra mới có thể thay đổi được.

Khi tôi học Phật, được biết đến uy lực của câu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật thì cảm xúc không thể tả. Công đức niệm danh hiệu Ngài quả thật không thể nghĩ bàn. Chính mắt tôi thấy, tai nghe những câu chuyện về bạn đồng tu, những người niệm Phật thật nhiệm mầu rất chân thật, nhiệm mầu nhất vẫn là một đời này có thể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Trong cuộc sống xung quanh và ngay trong cuộc sống gia đình tôi cũng cảm nhận được có Phật lực gia trì mỗi khi gặp một chuyện gì đó tổn hại.

Con còn nhỏ không thể giải thích tường tận, nên chúng tôi chỉ khuyến khích các cháu hàng ngày lên trên gác thờ Phật, niệm danh hiệu Phật khoảng mười lăm phút, cũng phát nguyện vãng sanh và hồi hướng về Tây phương. Tuy là thời khóa ít, nhưng hạt giống Bồ-đề cứ gieo cho các cháu cho đến khi trưởng thành chắc chắn sẽ có được lợi ích.


Làm cha mẹ ai cũng mong muốn đem lại những gì quý nhất, tốt nhất để lại cho các con. Tôi lại nói với con: “Trong cuộc đời này, mẹ chỉ biết có một thứ mà không của cải quý giá nào sánh bằng mà ba mẹ có được dành cho các con bằng công đức của việc niệm danh hiệu “A Di Đà Phật”. A Di Đà Phật là VÔ LƯỢNG QUANG, VÔ LƯỢNG THỌ, VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC, VÔ LƯỢNG TRÍ TUỆ, cái gì Ngài cũng vô lượng. Các con niệm Phật thì bao nhiêu công đức của Phật, cái quả mà Ngài đã thành tựu được con mang đến làm nhân cho mình rồi. Vậy quả của mình cũng sẽ thành Phật trong tương lai, nhân nào quả nấy. Khi con niệm A Di Đà Phật thì người con sẽ có một ánh sáng phát ra, ánh sáng này khiến cho yêu ma quỷ quái và mọi thứ xấu không thể đến gần con được”.
Tôi dạy thêm cho con: “Trong thế gian này ngoài niệm Phật A Di Đà ra các con nên niệm thêm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đại từ đại bi thường cứu khổ cho nhân gian rất là nhiều. Ngài sẽ che chở cho các con mỗi khi lâm nạn”. Kể cho các cháu nghe một vài chuyện thật về cảm ứng của Ngài cứu khổ trong cuộc sống này và cho các cháu xem thêm đĩa Sự Tích Quán Thế Âm Bồ Tát giúp các cháu tăng thêm niềm tin. Và chính niềm tin này sẽ tạo nên cảm ứng.

Là người học Phật, tất cả chúng ta đều biết mỗi người có một nghiệp riêng. Cha mẹ hay con cái cũng vậy. Cho nên ngoài việc khuyên con niệm Phật, chúng tôi dạy cho con ăn chay, giúp đỡ người khác, biết bố thí, phóng sanh và cúng dường Tam bảo….để các con tự tạo phước báo cho riêng mình. Và đó chính là áo giáp vô hình che chở cho các cháu, hơn tất cả tiền bạc và quyền lực cũng không che chở được. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn cho con biết tốt xấu, biết nhân quả, sống biết yêu thương chia sẻ là những bài học giáo dục đầu tiên khi con vừa chuẩn bị vào tiểu học thiết nghĩ rất quan trọng. “Tiên học lễ, hậu học văn” – câu nói này của người xưa không bao giờ thừa. Khi trẻ còn nhỏ mà biết hiếu, nghĩa, yêu thương, nhân quả thì tương lai các bé sẽ là một người có ích cho xã hội và ngược lại nếu như trẻ khi còn nhỏ chỉ biết hưởng thụ, quen được cung phụng và sống ích kỷ, không biết nhân quả thì cho dù tương lai có giàu sang hay quyền lực bao nhiêu thì cũng hỏng, đều là không tốt cho gia đình và cả xã hội. Thời nay chúng ta có thể thấy nhiều, rất nhiều vị đều có tài nhưng thiếu đạo đức – đã làm tổn hại cho xã hội biết bao nhiêu. Từ thực tiễn này nên chúng ta cần chú ý kỹ việc dạy con lúc còn thơ. Hạt giống trồng không tốt nó sẽ cho ra trái đắng, nếu biết cách chăm sóc thì nó sẽ trở thành trái ngọt. Tất cả đều tùy thuộc vào mình – bậc phụ huynh chúng ta. Nhờ Phật pháp tôi hiểu được những điều này, cũng nhờ Phật pháp mà tôi biết đến công đức niệm Phật rất vi diệu, nhiệm mầu không thể nghĩ bàn. Đó cũng chính là lý do mà tôi muốn các con mình niệm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2014(Xem: 11117)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
26/05/2014(Xem: 5545)
Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ Tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sanh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy) và Hán Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.
14/05/2014(Xem: 5829)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 9150)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 7353)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 8057)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
26/12/2013(Xem: 10360)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 20002)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 12582)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
13/12/2013(Xem: 10651)
1. Anagarika Govinda là một Lama, người Bolivia, nguyên giảng dạy Triết học tại Đại học Naples. Từ năm 1928-1930 ông qua Sri Lanka, xuất gia với Đại đức Nyatiloka Mahathera, rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Năm 1947, ông qua Tây Tạng, được làm đệ tử của Lama Ngawang
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567