Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Lời cuối sách

21/07/201207:45(Xem: 9656)
V. Lời cuối sách

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
có so sánh với tiếng Nhật

V. Lời cuối sách

Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung quyển sách tiếng Anh nhan đề là: “Peaceful Death and Joyful Rebirth” (Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ) của Đại Sư Tulku Thondrop người Tây Tạng, hiện Ngài đang ở Hoa Kỳ. Sách dày trên 500 trang và được ấn tống 5.000 cuốn vào năm 2011 nầy. Đây là một tập sách giới thiệu qua cách tu của phái Nijma (Cổ Mật) của Phật Giáo Tây Tạng về Tông Tịnh Độ và đặc biệt nói về trung ấm thân (Bardo) cũng như việc chuyển di tâm thức (Phowa).

Đến năm nay (2011) tôi dịch tác phẩm thứ 59 nầy từ tiếng Đức sang tiếng Việt, có tham cứu thêm những bản văn gốc bằng tiếng Nhật để đối chiếu khi dịch. Ban đầu tôi định dịch những tác phẩm nghiên cứu về Tịnh Độ bằng tiếng Đức của người Âu Mỹ; nhưng sau khi đọc lướt qua hai, ba tác phẩm của Schumann, tôi thấy phần Tịnh Độ ít được đề cập đến, mà chữ Pali và Sanskrit thì quá nhiều; nên tôi đã không dịch. Vì lẽ hai ngôn ngữ nầy không phải là chuyên môn của mình. Sau đó Thầy Hạnh Giả, đệ tử xuất gia của tôi, đang dạy môn Phật Học tại Đại học Hannover (Đức) cho các sinh viên người Đức, trao cho tôi quyển “Quellen Texts des Japanischen Amida Buddhismus” của Christian Steinecke để dịch ra tiếng Việt. Đầu tiên tôi đọc nhan đề quyển sách và lần vào mục lục cũng như những trang chú thích sau cùng, cảm thấy rất hợp ý với mình. Vì từ ngữ đa phần được tác giả chuyển dịch từ tiếng Nhật qua Đức ngữ. Bây giờ tôi chuyển sang Việt ngữ từ Đức ngữ, có lẽ tương đối dễ dàng cho tôi hơn. Vì một phần những bài kinh và những bản văn của các vị Tổ sư Tịnh Độ đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác rồi. Do vậy tôi an tâm để bắt đầu đọc qua một lượt từ ngày 22 tháng 2 năm 2011 để chuẩn bị cho việc dịch thuật nầy.

Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011 chúng tôi đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ và tác phẩm nầy cũng đã được dịch cũng như giảng tại đó. Tuy đầu đề là: “Những bản văn chính yếu của Phật Giáo Tịnh Độ (A Di Đà) Nhật Bản”; nhưng tôi đã trích phần “Thán Dị Sao” của Ngài Duy Viên, đệ tử của Ngài Thân Loan để giảng giải trước. Vì tư tưởng của Ngài Thân Loan về Tịnh Độ đã được đệ tử của mình ghi chép và trình bày lại vào thế kỷ thứ 13 rất rõ ràng.

Đến ngày 5 tháng 9 năm 2011 thì tác phẩm bằng tiếng Đức nầy dày 222 trang khổ A4 đã được dịch xong tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc, thành 400 trang viết tay cũng khổ A4. Sau khi in thành sách khổ A5, chắc sách nầy cũng không dưới 300 trang. Một dịch phẩm nói về Tịnh Độ bằng tiếng Đức, lại do người Đức dịch và bình chú, quả là điều mới lạ đối với bản thân tôi và có lẽ đối với các độc giả cũng vậy.

Tôi ở liên tục tại Đức từ năm 1977 đến năm 2011 nầy là 34 năm; nhưng tiếng Đức không là một ngôn ngữ dễ đối với người ngoại quốc. Ngôn ngữ nầy chỉ dễ hơn tiếng Nga; nhưng khó gấp 3 lần tiếng Anh và khó gấp 2 lần tiếng Pháp. Chỉ trừ những người sinh ra tại Đức và tốt nghiệp từ Tiểu Học đến Trung Học và Đại Học thì mới có khả năng nói, viết, đọc và nghe tiếng Đức ít lầm lỗi. Còn đa phần người ngoại quốc ở tại Đức chẳng ai dám khoe mình là rành tiếng Đức như người Đức. Trong khi đó ở Pháp, Canada, Hoa Kỳ hay Úc châu nhiều người Việt Nam có thể tự hãnh diện về khả năng nói tiếng Pháp hay tiếng Anh của mình, nhưng ở Đức thì ngược lại.

Tôi cũng không ra khỏi thông lệ đó. Hơn 34 năm ở Đức; nhưng khả năng tiếng Đức của tôi không bằng tiếng Nhật, mặc dầu tôi ở Nhật không nhiều, chỉ hơn 5 năm thôi. Tôi chẳng biết tại sao; có lẽ vì lớn tuổi học khó vô; nhưng lý do chính, tiếng Đức vẫn là ngôn ngữ khó hơn cả tiếng Nhật và tiếng Hoa nữa. Do vậy dịch phẩm nầy tôi cũng rất thận trọng. Sau khi dịch xong, đã đọc đi đọc lại hai lần và nhờ Thầy Phổ Huân cũng như Sư cô Giác Anh và một vài Phật tử tại Pháp Bảo (Úc) đánh máy, tôi xem lại một lần nữa trước khi gởi về Đức cho quý Thầy đệ tử của tôi đối chiếu qua câu văn tiếng Đức, để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc có thể do cách dịch gây ra. Thận trọng như vậy; nhưng chắc chắn rằng sau khi in thành sách vẫn còn lỗi. Điều ấy xin các vị cao minh chỉ vẽ cho. Dịch giả xin đa tạ.

Từ năm 2003 đến năm 2011 là 9 năm, tôi đã có mặt tại Đa Bảo, Úc Đại Lợi để tịnh tu và dịch kinh, viết sách. Trong 8 năm đầu, tôi đã ở Đa Bảo tại vùng Campelltown cách Sydney độ 40 cây số. Hai năm đầu tôi dịch hai tác phẩm bằng chữ Hán từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt; 5 năm sau dịch 5 tác phẩm bằng chữ Nhật và năm thứ 8 dịch tác phẩm bằng tiếng Anh. Đến năm thứ 9 nầy tôi đã thay đổi địa điểm, vì Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Phương Trượng chùa Pháp Bảo cùng Tăng Ni và quý Phật Tử đã di dời Đa Bảo về vùng núi đồi Blue Mountains nầy cách xa Pháp Bảo độ 2 tiếng đồng hồ đi bằng xe hơi. Nơi đây thật yên tỉnh và cảnh quan quá đẹp mắt để tôi có thể hoàn thành dịch phẩm nầy. Đến năm thứ 10 (2012) và cũng là lần thứ 2 tại Đa Bảo mới nầy, tôi sẽ cố gắng hoàn thành một dịch phẩm bằng Hán Văn ra Việt ngữ, cũng như viết chung một tác phẩm bằng tiếng Việt với Hòa Thượng Thích Bảo Lạc để trọn vẹn 10 năm đến Úc tịnh tu như đã phát nguyện.

Tịnh Độ vốn là pháp môn tu căn bản của tôi ngoài tu thiền; nên tôi đã chú tâm về cách tu nầy theo các bậc Tổ Sư đã khai sáng. Từ Ngài Long Thọ, Thế Thân (Ấn Độ) đến Ngài Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo (Trung Hoa) và Pháp Nhiên, Thân Loan (Nhật Bản); hoặc các Ngài Đàm Hoằng, Thiền Tâm (Việt Nam), Ngài Thánh Nghiêm (Đài Loan) v.v… Tất cả cũng đều quy về ba kinh Tịnh Độ và 4 cảnh giới Tịnh Độ như:

Thường Tịch Quang Tịnh Độ

Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ

Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ

Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ

Riêng Ngài Thánh Nghiêm, Người Đài Loan ở vào cuối thế kỷ thứ 20; đầu thế kỷ thứ 21 Ngài cũng chủ trương có 4 cảnh giới Tịnh Độ. Đó là:

Nhơn gian Tịnh Độ

Thiên quốc Tịnh Độ

Phật quốc Tịnh Độ

Tự tâm Tịnh Độ

Tịnh Độ mà Ngài Thánh Nghiêm trải qua, dưới cái nhìn của một Thiền Sư thuộc Lâm Tế và Tào Động, nó cũng gần giống với tư tưởng của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư (Trung Hoa) vào đời nhà Đường về tư tưởng của Thiền Tịnh song tu.

Tôi đã bắt gặp và kinh qua tư tưởng Tịnh Độ của Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Tây Tạng, Âu Mỹ; nên tôi vững tin rằng: giáo lý ấy do Đức Thích Ca Mâu Ni nói ra là giáo lý chân thật và các vị Tổ, chính là những người đã khai sáng và hiển thị rõ ràng giáo nghĩa của Tịnh Độ. Đây là một món ăn tinh thần quá tuyệt diệu, tại sao trong đời mạt pháp nầy vẫn có người còn nghi ngờ và còn phải mất công đi kiếm những pháp môn khác để tu? Do vậy sau khi dịch phẩm nầy xong, tôi sẽ hoàn thành quyển “Tư tưởng Tịnh Độ Tông” để đi sâu vào giáo nghĩa nầy, nhằm xiển dương Tông Tịnh Độ cho những ai muốn thực hành đến, nhất là những người Phật tử Việt Nam đang tu theo pháp môn nầy.

Quả thật chữ nghĩa có giới hạn; nhưng niềm tin thì vô cùng. Do vậy với niềm tin ấy, ai ai cũng có thể vãng sanh về Tịnh Độ, nếu chúng ta quyết tâm hạ thủ công phu qua câu Phật hiệu:

Nam Mô A Di Đà Phật bằng tiếng Việt

Nam Mo Amida Butsu bằng tiếng Nhật

Nam Mo A Mi Ta Fo bằng tiếng Hoa

Namo Amidha Buddha bằng tiếng Phạn

Và dĩ nhiên tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha v.v…vẫn dùng nguyên âm của tiếng Phạn để trì tụng danh hiệu vị Phật Vô Lượng Quang nầy.

Xin niệm ân tất cả những thiện hữu tri thức gần xa; những người Phật tử đã nhiệt tâm đóng góp để ấn tống sách nầy, nhằm loan truyền giáo pháp của Đức Phật, vốn đã có tự ngàn xưa và đây là một công đức không nhỏ. Nếu không có người đọc sách, người phát tâm cúng dường in ấn kinh sách thì bản cảo nầy vẫn còn nằm yên nơi bàn viết. Công đức nầy dịch giả xin hồi hướng đến tất cả pháp giới chúng sanh và xin nguyện cầu tất cả đều trọn thành Phật Đạo.

Ngoài ra dịch giả cũng xin niệm ơn Phật Tử Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp, là một đệ tử thuần thành và đã đi du học ở Đức từ năm 1969. Hơn 40 năm học và tốt nghiệp tại đây, xem lại cũng như đối chiếu giữa câu văn tiếng Đức và tiếng Việt để được chính xác và rõ nét hơn. Đồng thời Đạo Hữu Nguyên Trí Nguyễn Hòa (Phù Vân), chủ bút báo Viên Giác cũng đã hiệu đính lại bảng tiếng Việt lần cuối để cho tác phẩm nầy được hoàn chỉnh hơn.

Viết xong lời cuối sách nầy vào ngày 31 tháng 10 năm 2011 tại Tu viện Đa Bảo vùng Blue Mountains nhân lần tịnh tu thứ 9 tại Úc Đại Lợi.

Dịch giả Thích Như Điển

Kính ghi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/06/2015(Xem: 6598)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 7596)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 6480)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7238)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 8957)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7615)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 7043)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7705)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6492)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 7157)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]