Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tính sáng soi

20/02/201204:18(Xem: 5660)
Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tính sáng soi

Không phải ngẫu nhiên, Phật hoàng Trần NhânTông, trong Cư trần lạc đạo phú, hộithứ hai, Ngài viết: “Tịnh độ làlòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựaphải nhọc tìm về Cực lạc”[1].
a%20di%20da%20%2814%29

Ý Ngài muốn khẳng định rằng thế giới Tịnh độ chính là tự tâm thanh tịnh của mỗi người, không cần phải hỏi rằng có haykhông có cõi Tịnh độ ở Tây phương. Phật A Di Đà chính là tự tánh sáng soi của chính lòng mình, không cần phải nhọc công tìm về cõi Cực lạc ở đâu đó nữa. Đây cũng chính là quan điểm của Thiền phái Trúc Lâm về tư tưởng Tịnh độ nhân gian được phổ biến rộng rãi trong tâm thức người dân Đại Việt vào thời Trần.

Thực tế cho thấy, vào đầu thời Trần, kểtừ khi Quốc sư Viên Chứng đưa ra lời khuyên cho vua Trần Thái Tông trong cuộchành trình lên núi Yên Tử mong cầu làm Phật được ghi trong Thiền tông chỉ nam tự: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ởtrong tâm, chỉ cần lòng lặng mà biết, đó chính là chân Phật”;hệ quả, mộtquan điểm mới về Phật thể được hình thành. Trong một bối cảnh đất nước Đại Việtđang xây dựng và phát triển trên mọi lĩnh vực, nhất là khẳng định bản sắc vănhóa dân tộc Đại Việt, ắt hẳn nó sẽ tạosự tác động lớn vào tâm thức con người và đời sống xã hội.

Mỗi khi tư duy Phật thểthay đổi thì nội dung sinh hoạt Phật giáo thay đổi hẳn. Ta chẳng ngạc nhiên gì,các nhà lãnh đạo Phật giáo và lãnh đạo quốc gia đời Trần lấy Thiền tông làm hệtư tưởng chính, thế nên mọi tông môn, pháp môn tu tập truyền thống như niệmPhật, bái sám, trì kinh… đều được quy hướng theo sắc thái thiền trong các danhlam, thiền đường, chùa chiền bấy giờ. Mục đích cuối cùng là vận dụng mọi phápmôn tu tập vào trong cuộc sống đời thường, khiến cho mọi người đều kiến tánhthành Phật, tức là thành Phật ngay giữa cuộc đời này.

Rõ ràng, Phật giáo Thiền tông bấy giờ đãnhìn nhận Đức Phật luôn hiện hữu ở ngay trong tâm thức, chỉ cần lòng lặng màbiết thì ai cũng trở thành Phật. Một quan điểm như thế đã tác động chi phốitoàn bộ lịch sử tư tưởng Phật giáo Đại Việt, điều đó cũng có nghĩa nó cũng cóảnh hưởng tương tác với lịch sử tư tưởng dân tộc từ đó trở về sau. Trong bài NiệmPhật luận,Trần Thái Tông đã phát biểu một cách dứt khoát: “Thân ta tứclà thân Phật, không có hai tướng”.Tuệ Trung Thượng sĩ trong Thượng sĩngữ lụccho rằng: “Khi mê không biết ta là Phật”.Trần Nhân Tôngtrong Cư trần lạc đạo phú thì tuyên bố:“Bụt ở cong nhà, Chẳngphải tìm xa,Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Chỉn mới hay chínhBụt là ta”.

Rõ ràng, các thiền gia chứng ngộ đời Trần đã nói rõ Phật vàchúng sanh không khác. Đó chính là giá trị nhân sinh của một tinh thần Thiềnhọc như là lời giải đáp tại sao chúng ta hiện hữu trên cõi đời này.

Thế nên, trong cương vị là Tổ khai sángdòng thiền Trúc Lâm, cũng là người đứng đầu quốc gia Đại Việt, Phật hoàng TrầnNhân Tông khao khát xây dựng dựng thế giới Tịnh độ nhân gian ngay tại cuộc đờinày, cũng nghĩa là xây dựng cõi Tây phương ở chốn trần thế đầy bụi bặm trongtinh thần Cư trần lạc đạo. Sự thật nàykhông phải ngẫu nhiên mà thiết lập được, nó là một quá trình thể nhập chuyểnhóa nội tâm qua những phương thức tu trì lâu dài của cả cộng đồng người dân ĐạiViệt được diễn ra kể từ đạo Phật du nhập vào nước ta cho đến nay.

Rõ ràng, trên tinh thần của bản kinh Vô lượng thọ, còn gọi là Đại vô lượng thọ, thế giới Tây phươngđược kiến lập bởimột hình thức trangnghiêm của cung điện vàng ngọc, cây báu,… ở đó còn có đức Phật A Di Đà đangthuyết pháp cùng với 48 lời nguyện được mọi người dân Phật tử hướng nguyện.Trong 48 lời nguyện này, có lời nguyện rằng tất cả chúng sinh, nếu ai niệm PhậtA Di Đà thì khi lâm chung sẽ được Ngài tiếp dẫn đưa về thế giới Tịnh độ thanhtịnh, đẹp đẽ. Tại đây, tự thân người đó không còn bị đau khổ sinh tử trầm luân nữa.Đích thực là tự mình được diện kiến Phật A Di Đà và được Ngài dạy bảo, sau đólà đợi ngày thành Phật.

Rõ ràng, tư tưởng và tín ngưỡng mong cầu đạt đến mộtthế giới Tây phương Tịnh độ để thành Phật là thế. Việc con người sống trong thếgiới hiện thực khổ đau này luôn mong ước tìm cầu, hướng niệm được diện kiếnhình ảnh đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương, hẳn nhiên là một nhu cầu có thật vàcấp thiết. Ngay trong bản kinh A Di Đà(Đại 12 - 354), một bản kinh nhật tụng hàng ngày của người Phật tử, cũng đã môtả lộ trình về cõi Tây phương rất là sống động, thu hút biết bao người dân, mọithành phần trong xã hội nỗ lực hành trình về miền Tịnh độ: “…Hành giả đi về phía Tây quá mười vạn ức Phật độ, có một thế giới Cựclạc của đức Phật A Di Đà”.

Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưngcho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vôlượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức). Cho nên vấn đề đặt ra cho ngườihọc đạo phải thiết lập Tín - Hạnh - Nguyện trong cuộc hành trình về miền đất anlạc. Nghĩa là một người tu tập pháp môn hướng niệm về Cực lạc, trên cơ sở khởilòng tin bất động có một thế giới Tịnh độ ở Tây phương do đức Di Đà làm giáochủ mà thực thi hành trì niệm Phật, thể nhập hạnh nguyện của mình vào để cầuvãng sinh “Lâm chung Tây phương cảnh,phân minh tại mục tiền”.Nó lý giải tại sao vào thời kỳ Phật giáo du nhập,tín ngưỡng Tịnh độ đã được người dân nước ta thực thi hành trì, mong cầu trongsuốt cả cuộc đời, ít nhất là khi nhắm mắt xuôi tay, giã từ cuộc đời có thể diệnkiến Phật, cụ thể là thấy được đức Di Đà tiếp dẫn về cõi Cực lạc ở Tây phương.

Và thực tế đã minh chứng cho thấy, ngay từthế kỷ V, tư tưởng Tịnh độ và phương thức niệm Phật đã đã được hành trì tạinước ta. Rõ nét nhất là sự kiện sư Đàm Hoằng đến Giao Châu tu hành theo giáo lýTịnh độ, chỉ tập trung hành trì theo bản kinh Vô lượng thọ Thập lục quánvới một ước mong duy nhất là được vãng sinh về thế giới Cực lạc phương Tây[2]. TheoVãng sinh Tịnh độ truyện (q.Thượng tờ112a22-b7) do Giới Châu biên soạn vào năm 1068-1077, thì Đàm Hoằng đã sống vàtu hành như sau: “Thích Đàm Hoằng, ngườiHoàng Long, hoặc có sách nói là người Cao Bưu của Quảng Lăng, trong khoảng TốngVĩnh sơ, nam du Phiên Ngung, dừng ở chùa Đài, sau đến chùa Tiên Sơn, Giao Chỉvào khoảng năm 425. Ngoài việc nhang đèn, hoàn toàn không làm gì khác, chỉ tụngVô lượng thọ và Thập lục quán (Quán kinh) không biết bao nhiêu lần. Hoằng mỗilần niệm nói: Một thân muôn nối, niệm chính khó giữ, có thể nương niệm chính,mới sớm thấy A Di Đà”.

Điểm đáng nói của sự kiện sư Đàm Hoàngtrong tiến trình tu tập pháp môn Tịnh độ là sư đã minh chứng cho giới Phật tửbấy giờ có niềm tin để thực hiện hoài bão thấy Phật là một sự thật. Đó cũng làhình ảnh sư đã tự thiêu cúng dường Tam bảo và hóa thân sắc vàng, cỡi con naivàng đi về Tây phương như trong Cao Tăngtruyện (q.12 tờ 405c 19-28) lược ghi: “Vàonăm Hiếu Kiến thứ 2 (455), sư nhóm củi trên núi, lén vào trong củi lấy lửa tựthiêu. Đệ tử đuổi kịp, ôm giữ đem về, thì nửa mình đã cháy, trải tháng mới biếtchút ít. Sau đó, xóm gần có hội cả chùa đối phó. Hoằng vào ngày ấy, lại vàohang núi tự thiêu. Dân xóm đuổi tìm thì mạng Hoằng đã dứt. Do đó họ chất củithêm, đốt lửa ngày hôm sau mới tắt. Ngày hôm đó, dân xóm đều thấy Hoằng thânvàng, sắc vàng, cỡi một con nai vàng đi về phía Tây rất nhanh, không nghỉ hỏihan. Tăng tục mới hiểu sự thần dị, cùng lượm xương tro, để dựng tháp thờ”.

Cũngtừ đó, phải chăng giới Phật tử Việt Nam thời bấy giờ lại có thêm niềm tin vềhình ảnh Phật thể A Di Đà để niệm Phật mọi lúc mọi nơi cho đến nhất tâm bấtloạn, mà ta có thể thấy bản kinh A Di Đà ghi: “Hành giả nhất tâm niệm Phậttromg một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày chođến khi nhất tâm bất loạn…”. Đó là lúc mà tự thân người tu trì diện kiến đứcPhật A Di Đà ở cõi Tây phương Tịnh độ, giải thoát mọi khổ đau.

Sách Thiềnuyển tập anh[3],cũng ghi nhận ngoài việc thiền sưKhông Lộ tôn trí tượng Phật A Di Đà để phụng thờ, còn đề cập đến việc thiền sưTịnh Lực, học trò của Đạo Huệ, thuộc thế hệ thứ 11, dòng Vô Ngôn Thông. Ông đãvâng lời Đạo Huệ dạy: “Tâm ấn chư Phật,người đã có sẵn, không cần theo ai mà được”.Sư thưa: “Đã được thầy chỉ dạy, nhưng nay nên trụ nơi nào?”.Đạo Huệ bảo: “Chẳng cần đi đâu xa, ở tại Vũ Ninh là tốt”.Sư lên thẳng núi, cất am cỏ, ở tu. Kết quả, qua 12 năm tu hành, chứng đắc pháp “niệm Phật Tam muội”nhờ công phu niệmPhật mà được đại định.

Điều quan trọng là sư đã dạy các môn đồ của mình khôngnên tìm cầu Phật bên ngoài mà đạt được và nếu muốn diệt trừ các ác nghiệp thìnên áp dụng phương pháp niệm Phật bằng cả tâm lẫn miệng cho đến khi nào để thấytự tính Di Đà (thấy tánh mà thành Phật). Vậy là pháp môn Niệm Phật tam muội màThiền sư Tịnh Lực chứng đắc và phổ biến trong các thiền đường ở nước ta vàothời Lý cho mọi người tu tập, thực chất là phương pháp thiền định bằng cáchniệm tưởng (nghĩ nhớ) đến Phật, căn cứ trên bản kinh Vô lượng thọQuán kinh.

Đến thời Trần thì quá trình hình thành hộinhập và phát triển đã hội tụ đầy đủ các tông Thiền, Tịnh, Mật trong diễn trìnhsinh hoạt tâm linh của cộng đồng người dân nước Đại Việt. Với quan điểm Phật tại tâm, phương thức niệm Phật theoThiền phái Trúc Lâm là loại bỏ niệm xấu thay vào đó là niệm tốt để tâm trở nêntrong sạch hoàn toàn. Mục đích cuối cùng mà Phật hoàng mong muốn là làm hóahiện thế giới Tịnh độ ngay giữa cuộc đời bằng cách mỗi người dân Đại Việt tutập thành tựu được cái tâm thanh tịnh, trong sạch, không có sự cấu bẩn của bụitrần (Tịnh độ là lòng trong sạch).

Do đó, mỗi người dân Đại Việt bấy giờ, sốngtrong một xã hội đầy biến động, việc cần xác định trước tiên, là biện tâm, tẩyrửa tâm để tâm thanh tịnh. Mỗi khi tâm thanh tịnh thì Tịnh độ mới xuất hiện ởcõi lòng. Nói như trong Khóa hư lục, bảnkinh nhật tụng đời Trần, qua bài NiệmPhật luậnlà tâm người học đạo luôn phải khởi niệm thiện, khi niệm thiệnkhởi thì niệm ác không có cơ duyên hiện khởi. “Tâm khởi điều thiện tức tức là điều thiện. Niệm thiện khởi thì thiệnnghiệp báo ứng lại”. Để có những niệm thiện, những niệm tốt, ý nghĩ lànhthì không cách gì hơn là mỗi người nên niệm Phật.

Niệm Phật nhằm có khả năng xửlý những sai lầm, ngõ hầu dập tắt ba nghiệp thân khẩu ý: “Trong lúc niệmPhật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân.Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệpmiệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt đượcnghiệp ý”[4].

Trong tinh thần niệm Phật theo sắc tháithiền đó, niệm Phật trở thành phương thức tu tập loại bỏ tập khí dần dần, hướngđến thuần thục để tâm trở nên tịch tịnh. Đối tượng để tu tập là nhớ nghĩ vềPhật. Tập trung nghĩ vào một đối tượng là một hình thức “chỉ”.Sâu hơnnữa thấy rõ tâm thức ấy biểu hiện những hành động gì, có sai trái thì phải nỗlực hối cải, tẩy rửa tâm thức, đây là một hình thức “quán”.Mỗi khi hànhgiả đã quán thấy rõ sự vật, tỉnh thức với những việc sai trái thì sẽ điềuchỉnh. Đây là một phương thức “chỉ quán song tu”,thực chất là nhữngbước đi đầu tiên của thiền.

Việc vận dụngpháp môn niệm Phật vào việc hành thiền, chứng tỏ Thiền phái Trúc Lâm kế thừa vàtùy duyên hướng dẫn quần chúng bước vào nếp sống đạo thiền đi từ thấp đến cao,chú tâm hướng nội, tìm lại Phật thân. Phật thân đó, ta có thể tóm tắt ngắn gọntôn ý của Phật hoàng: “Tịnh độ là lòngtrong sạch, Di Đà là tự tính sáng soi”.Đây là kết quả biến đổi từ một nộidung mang màu sắc tư tưởng Tịnh độ sang sắc thái “thiền”mà thiền TrúcLâm nỗ lực thiết lập và vận dụng vào đời sống tu tập thực tiễn.

Chủ trương nàyđã hóa thành hiện thực, nó lý giải tại sao vào đời Trần - Phật giáo Đại Việt cóhình ảnh Phật hoàng Trần Nhân Tông ra đời, và quan trọng hơn mọi người dân nướcViệt có thể kiến tạo Phật quốc trong lòng mình bằng nếp sống đạo Thiền “Cư trần lạc đạo”,đúng như trong Thượngsĩ ngữ lụccủa Trần Tung mô tả qua bài kệ Thị tu Tây phương bối [5]:

Thân báu Di Đàtại đáy lòng,

Bốn phương thân pháp tỏa mênh mông.

Cả trời chỉ thấy vừng trăng quạnh,

Đêm lắng vàothu vũ trụ trong.

Thích Phước Đạt

1-Thơ văn Lý Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr. 505.

2- Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1999.

3- Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb TP. HCM, 1999, tr. 223.

4- Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb. KHXH, HN, 1989, tr.84.

5- Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, Sđd, tr. 242.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4603)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5628)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5293)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9274)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4452)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3459)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6238)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6830)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10492)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567