Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niết Bàn

16/05/201208:49(Xem: 4509)
Niết Bàn

chu_van 

NIẾT BÀN

HT. Thích Trí Quảng

---o0o---

Trên bước đường tu hành, mục tiêu của hàng đệ tử Phật là giải thoát sinh tử, đến Niết bàn theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy, hay thâm nhập vào các Tịnh độ theo tinh thần Phật giáo Bắc tông. Ở đây, chúng tôi triển khai một phần về thế giới Niết bàn.

Thế giới Niết bàn hoàn toàn đối lập với thế giới hữu hạn mà chúng ta đang sống. Thật vậy, tất cả vạn vật hiện hữu ở thế giới Ta bà đều bị sự chi phối của định luật vô thường, khổ, không, vô ngã, không thể khác. Loài người sống trong thế giới sinh diệt cũng không thể thoát khỏi định luật này, gọi là sinh, già, bệnh, chết. Các loài thực vật cũng có bốn tướng là sinh, trụ, hoại, diệt và thế giới cũng trải qua bốn giai đoạn là thành, trụ, hoại, không. Ví dụ trái đất của chúng ta đang ở trong kiếp trụ và khi kiếp trụ chấm dứt, nó bắt đầu bị hư hoại. Thực tế cho thấy loài người đang xả chất độc làm ô nhiễm không khí, sông biển, đất đai, khai thác bừa bãi núi rừng, các túi dầu hỏa trong lòng đại dương, làm thủng tầng ozone, tất cả những việc khai thác quá mức của con người đã gây ra sự thay đổi thời tiết bất thường, lũ lụt, hạn hán, v.v… rõ ràng trái đất này đang bị suy thoái. Đến một lúc nào đó, bước vào kiếp hoại, trái đất sẽ vỡ tung thì tất cả thế giới hữu hình đều trở thành cát bụi và chuyển sang kiếp không của vũ trụ.

Với tuệ giác, Đức Phật quán sát thấy rõ tất cả vạn vật đều chịu sự chi phối của vô thường và con người khổ đau chỉ vì muốn mọi thứ thường còn. Căn bản nhất, Phật dạy ngũ uẩn thân làm chúng ta khổ, vì bản chất của thân ngũ uẩn vốn là vô thường nên mới bị định luật vô thường chi phối. Phật dạy các Tỳ kheo tu hành phải xả ngũ uẩn, nghĩa là không để vướng mắc với thân này, chỉ cung cấp cho thân những nhu cầu tối thiểu để giữ mạng sống, không đáp ứng vô điều kiện cho nó và không tạo thêm nghiệp ác của thân. Không chấp thân và sở hữu của thân, hay không chấp ta và sở hữu của ta, sẽ đạt được vô ngã. Và đạt được vô ngã là có Niết bàn.

Tỳ kheo thể nghiệm sự vô ngã, nên không lập gia đình, tức xuất thế tục gia, không còn vướng bận nhà cửa, nếp sống hữu hạn của gia đình theo thế nhân. Bỏ được những thứ này giúp cho tâm chúng ta nhẹ bớt. Phật dạy Tỳ kheo chỉ có một bát, một ca sa, ăn uống đơn giản, sống phạm hạnh, đầu đà, để không lo giữ gìn tài sản, tâm không bị kẹt vào vật chất sở hữu, tâm được thanh thản.

Về sau, chư vị Tổ sư dạy rằng tuy không có sở hữu vật chất, nhưng thầy trụ trì phải giữ gìn của Tam bảo để có phương tiện giúp cho đại chúng tu hành. Thật sự, gánh vác việc này, trụ trì cũng bận tâm lắm, mà vô tâm để hư hỏng hay đánh mất của Tam bảo lại phạm tội.

Khi sở hữu cá nhân không có, thì ham muốn, bực tức, giận dữ, si mê…, tức những tánh xấu cũng không có. Nhưng vì các thầy trụ trì, hay thầy tri sự phải giữ gìn, bảo vệ của Tam bảo nên thất thoát cũng buồn khổ. Và các thầy xây dựng chùa cũng khổ vì có chùa. Vì vậy, tuy xuất gia mà họ không thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng; chúng ta nên khởi tâm thương những người này.

Trên bước đường tu, hướng đến Niết bàn, cần dứt bỏ bốn tánh: buồn, giận, sợ, lo. Riêng tôi, thường quán tất cả pháp do nhân duyên sinh diệt, nên thấy mọi việc bình thường. Trong duyên sinh, tự nó phát triển và trong duyên diệt, mọi việc tự chấm dứt. Thí dụ quán sát một triều đại, một ngôi chùa, thấy rõ sự tồn tại, hưng suy, đều tùy thuộc vào sự vận hành của pháp sinh diệt; vì thế, chúng ta không vướng mắc, buồn phiền, lo lắng. Điển hình là Hòa thượng Thanh Từ miên mật tu hành, không bận tâm xây chùa, nhưng nhiều ngôi chùa trang nghiêm được hoàn thành tốt đẹp nhờ công đức của Hòa thượng.

Hành giả bước theo dấu chân Phật, trước nhất phải từ bỏ sở hữu vật chất và kế tiếp là đoạn trừ phiền não trong tâm bằng cách quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Để đạt được vô ngã, bước thứ nhất vào đạo, hành giả hướng đến Niết bàn phải thâm nhập Sơ thiền, được ly sanh hỷ lạc. Sống với ly sanh hỷ lạc, hành giả không tìm nguồn vui lệ thuộc vào sự vật bên ngoài; vì vui theo vật chất càng nhiều càng khổ, có cái vui nào mà không tàn. Thú vui do vật chất, do nhà cao cửa rộng, do ăn ngon mặc đẹp, do người khác mang đến… thì khi người và vật sở hữu mất rồi sẽ khổ. Niềm vui lệ thuộc vào vật chất luôn dẫn đến nỗi buồn tiếp theo là thế.

Nguồn vui trong lòng chúng ta thì không bao giờ mất. Và an trụ được nguồn vui của nội tâm, chúng ta có được tự thọ dụng thân khác với tha thọ dụng thân. Sống với tha thọ dụng thân nghĩa là sự sống luôn bị ràng buộc bởi thân vật chất, đơn giản nhất là phải ăn uống, ngủ nghỉ. Nhưng đối với người tu, nhất là người được ly sanh hỷ lạc thì ăn uống ngủ nghỉ không thể bức ngặt thân tâm họ; vì họ đã hoàn toàn chủ động bốn thứ này. Với tha thọ dụng thân, ngoài sự lệ thuộc vào thân vật chất, người ta còn chịu sự chi phối của gia đình, bạn bè, xã hội, thiên nhiên.

Tập sống vui với nội tâm bằng cách vui nghe pháp, vui suy nghĩ lời Phật dạy, lời của Tổ và nhận ra những tinh ba làm cho chúng ta thích thú, mỉm cười. Đó là nguồn vui từ trong lòng hiện ra tạo thành Pháp thân, hay tự thọ dụng thân của chúng ta. Dù tu theo Phật giáo Nguyên thủy hay Bắc tông đều phải được thành quả như vậy. Các thiền sư ẩn cư trong núi rừng, tràn đầy sự hỷ lạc của nội tâm, mới sống thanh thản được. Và từ cuộc sống nội tâm được phát huy, bỏ lần vật chất phía sau, đến lúc có tự thọ dụng thân hay đời sống tâm linh thật sự là bước thứ hai, quên mất thân vật chất này, cũng như không bị hoàn cảnh bên ngoài tác động. Riêng tôi, sống với tư duy pháp Phật, mới cảm nhận rằng “Nghiệp chướng nhiều đời bỗng lắng yên”.

Sống với hoàn cảnh bên ngoài, nên thích việc này, ghét việc nọ, làm chúng ta khổ. Nhưng bỗng đến một lúc nào đó, phiền não không sanh khởi, tâm trí lắng yên đến độ mạng sống cũng quên. Ý này được Duy Ma dạy rằng đem mạng sống ngắn ngủi của con người đổi lấy mạng sống vô cùng như Phật Di Đà gọi là Vô Lượng Thọ. Còn chúng ta chỉ có mạng sống giới hạn, nhưng theo bước chân Phật, nhận chân được mạng sống vô cùng và sống với mạng sống rất quý báu này, nên có tâm trạng ly sanh hỷ lạc. Nói cách khác, trên bước đường tu, sử dụng mạng sống ngắn ngủi, sinh diệt, chứng được vô sanh, quên cả tuổi tác, thời gian, vui buồn vinh nhục của cuộc đời. Được như vậy, đã chuyển đổi ngũ uẩn thân thành Pháp thân thì “Tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai thị nhứt thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát”. Đạt thành quả này là đạt được vô ngã, sống được với mạng sống vô cùng của chính ta; người khác trông thấy sinh tâm kính mến và phát tâm tu theo. Trái lại, nếu người không chấp nhận, không quý mến, mà bực bội, buồn phiền là sai lầm lớn, vì đã tu trên ngũ ấm ma, lạc vào đường tà mà cứ tưởng là đúng.

Tu đúng pháp, từng bước chân dẫm lên Tịnh độ hay Niết bàn, nghiệp chướng chúng ta lắng yên thì trần duyên thuận nghịch tâm không thiết. Thật vậy, đối trước cảnh thuận hay nghịch cũng không sao; vì đang sống với vô sanh, nên cảnh sinh diệt không quan trọng đối với chúng ta. Một vị thiền sư Nhật Bản nổi tiếng với hai chữ “Thế à”. Ông đã thành tựu pháp vô sanh, dòng sinh diệt không thể tác hại tâm ông. Một phụ nữ đem con đưa cho ông với lời bịa đặt rằng đó là con của ông. Ông bình thản nói “Thế à” và nhận nuôi đứa trẻ này. Một thời gian sau, đứa bé lớn lên, người phụ nữ này dẫn chồng đến đòi lại con. Ông lại bình thản nói “Thế à” và giao trả đứa bé.

Đi lần vào thế giới vô sanh, hay Niết bàn để an trụ mạng sống vô cùng thì ta và Phật, Bồ tát cùng hiện hữu trong một Tịnh độ; còn sống với ô trược Ta bà thì phiền não tràn đầy. Từ nguồn vui ngoài cuộc sống vật chất, tiến sang giai đoạn hai, không bị cuộc sống vật chất chi phối, tâm an định, có được nguồn vui không dao động, gọi là định sanh hỷ lạc.

Và tiến xa hơn nữa, chẳng những vui sống trong định, mà cả khi rời định vẫn giữ được nguồn vui trong lòng; đó là ly hỷ diệu lạc. Bồ tát trên bước đường cứu nhân độ thế luôn có nguồn vui nội tâm, dù làm việc từ thiện cực nhọc, vẫn vui; thể hiện ý nghĩa ly hỷ diệu lạc, một nguồn vui lúc nào cũng có, không phải nhập định mới được.

Cuối cùng xả niệm thanh tịnh, nguồn vui trong lòng cũng tự mất, tâm vắng lặng như mặt nước hồ thu, tất cả hình ảnh đều hiện rõ trên mặt nước, hay vạn tượng sum la từ quá khứ cho đến hiện tại và vị lai, tâm hành giả đều nhận biết rõ ràng. Cũng như chim nhạn trên bầu trời bay ngang hồ nước, hình ảnh của nó được in rõ trên mặt nước; nhưng nó bay qua rồi, mặt nước không lưu giữ dấu tích gì. Tâm của thiền sư cũng vậy, biết rõ mọi việc một cách chính xác, nhưng việc trôi qua rồi, không lưu lại trong tâm, không làm vẩn đục tâm. Ý này được một vị thiền sư diễn tả rằng:

Nhạn quá trường không

Ảnh trầm hàn thủy

Nhạn vô vi tích chi ý

Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Thiền sư nhận biết được mọi việc, không bị sự việc chi phối, tâm an nhiên tự tại trước mọi vận hành sinh diệt của cuộc đời; đó là cảnh giới Niết bàn, quả vị cao tột của A la hán theo Phật giáo Nguyên thủy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/06/2015(Xem: 6595)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 7595)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 6479)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7235)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 8956)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7614)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 7042)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7703)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6490)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 7155)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]