Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông Và Bài Học Tư Tưởng Giải Phóng Nội Lực

08/08/201123:21(Xem: 4241)
Trần Nhân Tông Và Bài Học Tư Tưởng Giải Phóng Nội Lực


TRẦN NHÂN TÔNG
VÀ BÀI HỌC TƯ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NỘI LỰC
Văn Quân

Tìm hiểu toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp Trần Nhân Tông, trong số những bài học lớn về tư tưởng của Người, cũng là của thời nhà Trần vinh quang - nổi bật và sâu xa nhất chính là bài học về khai phóng nội lực, mà vì nó - Người đã đánh đổi tất cả để dấn thân tìm phương giáo hóa và vượt thoát cộng đồng.

Sức mạnh nội lực của dân tộc dưới hào quang của vua trẻ Trần Nhân Tông

Ngày nay, ứng với công cuộc đổi mới và hội nhập – chính là nhu cầu phát huy nội lực - điều kiện cần và đủ cho quá trình phát triển đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam. Đó là bí quyết - phải chăng có thể coi đây chính là “Lẫy nỏ thần kỳ” của lẽ thành bại mỗi thời, liên đới đến sự sáng - tối, mạnh - yếu, hưng – vong của xã tắc và sự sướng - khổ, buồn – vui, vinh - nhục của người dân? Và như thế, thời của Người - vấn đề này được nhận thức và phát huy như thế nào?

Trước hết, thời của Người - thế kỷ 13, đất nước cũng phải đứng trước hai thách thức lớn, đều mang tính sống còn: Một là họa xâm lăng, với một đội quân hung bạo nhất thế giới, từng tung hoành vó ngựa khắp từ Á sang Âu - giắc Nguyên Mông. Hai là khôi phục đất nước sau chiến tranh và xây dựng hòa bình.

Đối với thách thức xâm lăng - dường như đã thành nghiệp chướng, rất ít thời tránh khỏi. Và thời Trần của Người đã làm cuộc quật khởi toàn dân tộc, để lại những dấu ấn chói lọi bậc nhất trong lịch sử nước nhà – ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Lúc này, yếu tố hàng đầu của nội lực dân tộc được phát huy cho đến tột cùng – đó là lòng yêu nước thương nòi, mà sau này Bác Hồ cũng nhắc lại trong câu nói bất hủ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Cho đến bây giờ, đọc lại sử sách hơn 700 năm về trước, chúng ta hãy còn đau đáu về một thế nước mong manh, với một vương triều vừa khai mở, về cuộc rút lui lặng lẽ khỏi kinh thành Thăng Long, về cuộc săn lung ráo riết và tàn bạo của kẻ thù, không chỉ với vua Trần và tôn thất, mà với cả “dân đen” và “con đỏ” như đã nêu trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo. Sau chiến thắng lần thứ nhất, dưới hào quang của ông vua trẻ - tức Trần Nhân Tông, sức mạnh nội lực ấy đã được nhân lên một tầm mức mới – không chỉ đơn thuần là yêu nước mà cả nhân nghĩa sáng ngời.

Giờ đây và có lẽ còn mãi mãi về sau, khi nhắc đến bài học cốt tử đó, hậu thế không thể nào quên những Hội nghị Bình Than, Diên Hồng lịch sử, những tình cảm vua – tôi, tướng sĩ “một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, về nghĩa cử “động trời” khi Người cởi áo bào toàn thắng để đoái thương thân xác của tướng giặc Toa Đô tử trận… Có gì đó rất gần gũi với thời đại và con người Hồ Chí Minh. Phải chăng bài học ấy, trước những thử thách can qua như thế đã trở thành máu thịt, thành sức mạnh tự thân và khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam mà không kẻ thù nào dám coi thường?

Cả một thời thanh xuân binh lửa, lãnh đạo quân dân kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống Nguyên Mông, Người đã thấm nhuần bài học sống còn là khai phóng nội lực, thổi luồng sinh khí mới vào công cuộc chấn hưng dân tộc sau 30 năm bị tàn phá nặng nề, trở thành thời kỳ cực thịnh bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thậm chí có những thành tựu còn dư sức tỏa sáng về sau.

Có thể kể ra những việc làm cao trọng của Người: Đầu tiên là an dân và ổn định xã hội - thực hành đại xá cả nước, tha bỏ tô thuế để nới sức dân, khuyến khích khai hoang phục hóa, mở rộng thông thường… Bên cạnh đó là chấn chỉnh bộ máy triều chính, cốt ở tinh chứ không cốt ở đông, với quan điểm “quan nhiều thì dân khổ”, tích cực tìm kiếm và đào tạo hiền tài bằng khuyến học và rộng đường thi cử. Cho nên, không có thời nào mà sĩ tử lại đông và hiền tài lại nảy nở như thời Trần. Nhờ thế mà kinh tế xã hội và văn hóa phát triển, đời sống con người - cả vật chất và tinh thần được cởi mở và thăng tiến.

Đặc biệt, Người đã chủ trương xây dựng và hình thành một hàng rào tư tưởng tâm linh tiêu biểu và hoàn chỉnh của nước Nam, vừa nhằm giáo dục truyền thống, vừa tạo ra chỗ dựa vững chắc cho tinh thần dân tộc và hun đúc khí thiêng sông núi vững bền. Với người có công còn sống, Người không quên ban thưởng. Với người đã mất được phong thần – mà sử sách còn ghi rõ: Người chủ động phong thần cho 27 anh hùng là nhân thần, cùng nhiều nhiên thần khác, được đương thời và hậu thế đánh giá cao, coi như đã xây cất thành công một “thần điện” Việt Nam.

Hoàn tất các đại sự quốc gia, Người chọn đường lên Yên Tử

Hoàn tất các đại sự quốc gia rồi, Người chọn đường lên Yên Tử. Khi ở ngôi - Người sống mẫu mực theo cốt cách cha ông: Giản dị, kiêm ước và tự đủ. Khi nhường ngôi làm Thái Thượng Hoàng - Người vẫn không quên coi trọng việc dân nước. Và khi chính thức đường tu, Người thực vẫn theo hướng tận hiến cho xã tắc – thậm chí còn phải chịu nhiều gian khổ và thiếu thốn, không phải vì mục tiêu ép xác, mà cốt là để mong xác lập phương cách giáo hóa con người và vượt thoát dân tộc.

Mỗi khi có dịp đặt chân về Yên Tử hoặc thường khi suy tưởng về Người, tôi vẫn tự hỏi: Ngày nay, đường đi lối lại phong quang, vậy mà không ít người còn không đủ sức và đầy tâm để lần bước tới đỉnh chùa Đồng. Còn Người thuở ấy đã cất công khai lối, dựng nền thì phải chịu đựng khó nhọc đến mức nào. Làm vậy để mong thoát tục ư? Tôi không tin.

Và ngay từ những thế kỷ trước, các bậc thức giả cao quý đã thẩm định rồi – ví như Ngô Thì Nhậm đã viết: “…Người ta thấy Điều Ngự đệ nhất tổ (tức Trần Nhân Tông) đến ở chùa Hoa Yên thì bảo là Ngài xuất gia. Ta biết rằng – Ngài lúc bấy giờ đã xem thiên hạ (non sông – nòi giống) là công. Trong nước vô sự, nhưng phía Bắc vẫn còn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm. Cái ý ấy không tiện nói rõ, sợ dân tình dao động. Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất – phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng – mà dựng lên ngôi chùa. Thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm”. Vậy, theo đúng tư tưởng lớn của Trần Nhân Tông về bài học khai phóng nội lực, những mong vượt thoát toàn dân tộc nên soi tìm ở đâu và như thế nào?

Phải thăng hoa về cả trí tuệ, thể chất và tâm hồn thì mới phát huy được nội lực

Dĩ nhiên, về mặt phân định, ai cũng hiểu - nội lực là toàn bộ tiềm lực bên trong vốn sẵn (trong nước và trong dân). Một cá nhân là thế và cả dân tộc càng thế. Có điều - về mặt nhận thức - đúng ra và nhất là hành xử thực tiễn thì nhiều thời cha ông, đặc biệt là thời Trần, đã triệt để, hữu dụng và hữu ích. Vả lại, việc đó thời chiến đã khó, thời bình còn khó hơn rất nhiều, bởi nó thường vấp phải nhiều trở lực từ tâm lý và tập tính cố hữu của cộng đồng. Đó là thói vị kỷ và hẹp hòi, thói bon chen và ham lợi lộc, dễ coi nhẹ lợi ích chung.

Vấn đề cần chỉ ra là: Những thành tố chính yếu của nội lực và sự phát huy nhằm vào phương diện nào để tỏa sáng nhanh chóng và mạnh mẽ - như trên đã nói là: đắc cách, đắc dụng và hữu ích? Phàm thì người ta nghĩ ngay đến nhân tài vật lực - sức người sức của – hay như ta ngày nay là nguồn lao động và tài nguyên dồi dào, thậm chí cả đồng vốn còn đọng nhiều ở trong dân, phải được thu hút hết mức cho công cuộc giàu hóa nhanh chóng.

Điều đó hoàn toàn đúng, rất quan trọng nhưng chưa phải cốt yếu và hàng đầu - thậm chí ở góc độ nhất định - những thứ đó vẫn cứ còn là ngoại lực, là hình tướng. Gốc của nội lực nằm trong chính mỗi con người - cốt ở tâm và trí cộng lại và nhân lên mà thành. Đối với tố chất người Việt Nam thì đây chính là chỗ mạnh nhất, sáng nhất cần được phát huy tối đa, nghĩa là phải được thăng hoa cả về trí tuệ, thể chất và tâm hồn. Sự hưng thịnh và tươi sáng của không ít thời đã chứng tỏ điều đó. Và đương nhiên, thời Trần là một tiêu biểu.

Trần Nhân Tông đã đến với Phật giáo bằng tầm nhìn của một nhà chính trị và tư tưởng lớn

Cứ nhìn vào cung cách Trần Nhân Tông và soi vào tư tưởng lớn Trần Nhân Tông, rõ ràng để làm được điều đó – có thể gọi là nghiệp lớn và phúc lớn – thì cốt là ở một nền giáo hóa chuẩn mực và lành mạnh. (Xin nói là nền giáo hóa, chứ không phải chỉ đơn thuần là công đoạn ít năm ngồi trên ghế nhà trường). Nền giáo hóa ấy thấm đẫm suốt cả đời người - từ trong quá trình thai giáo cho đến khi nhắm mắt xuôi tay - cả vua quan và dân chúng, cả giàu nghèo lẫn sang hèn, cả trẻ lẫn già.

Từ nhỏ, được ấn tâm và thụ giáo người thầy lớn là Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung - một cư sĩ tại gia chủ trương hòa gắn đạo và đời làm căn bản cho quá trình nhận thức và tu tâm tĩnh trí để đạt giải thoát và viên mãn. Sau đó, trải nghiệm qua công cuộc dân nước hào hùng, Người không khó khăn gì để khẳng định chân lý giải thoát như thế.

Và chính Người và những người cùng thời đã nhìn thấy từ trong tinh hoa đạo Phật những giá trị thuận cách cho nền giáo hóa con dân đúng hướng, dựa trên căn bản của nền sống dân tộc – đó là bình dị và kiệm ước, trọng học và trọng tình, biết tôn thờ sự nghiệp dân nước làm trọng.

Có thể nói, Trần Nhân Tông đã đến với Phật giáo bằng tầm nhìn của một nhà chính trị và tư tưởng lớn, biết thu nạp và diệu dụng tôn giáo vì mục đích cao cả: Cứu nhân độ thế, làm cuộc vượt thoát toàn dân tộc.

Cho nên Phật thiền Trần Nhân Tông đã dầy công gây dựng ở Yên Tử hoàn toàn không phải là dập khuôn giáo lý gốc của Phật (Đại Thừa Ấn Độ hay Thiền Tông Trung Hoa) mà chính là đã thổi vào đó những giá trị tươi mới và tích cực – đó là quan điểm Phật tại tâm, tu theo thập thiện chứ không khuyến khích khổ hạnh và ép xác, càng không cho phép coi nhẹ bổn phận công dân và lòng tự cường dân tộc – như trong bài phú “Cư trần lạc đạo” coi như một tuyên ngôn tư tưởng Trần Nhân Tông về cả đạo và đời, không chỉ giành cho riêng giới tu hành mà cho toàn dân tộc muốn đạt tới “Nhân hòa” để tìm phương vượt thoát và lớn mạnh – như cụ Hồ gọi là “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Trong các trước tác của Người, trước hết phải kể tới “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” - chủ yếu Người bàn về thân – tâm, vốn là những thứ chủ yếu gây nghiệp chướng cho đời sống con người, là cội nguồn nảy sinh dục vọng để khiến con người tự trở thành nô lệ và tội đồ của chính mình, tự ngăn trở và làm lạc hướng trong việc tạo tác nguồn tâm vô nhiễm – trong trẻo và ngay lành.

Đó mới thực là hình ảnh tối thượng của đường tu, của hạnh phúc kiếp người. Vì tính chất và nội dung như thế nên đây là một tác phẩm không dễ đọc và dễ hiểu thấu, đòi hỏi phải dành nhiều thời gian và tâm sức tìm hiểu. Chúng ta chỉ cần nghe bốn câu kệ kết thúc tác phẩm (phần dịch nghĩa):

Cảnh lặng, sóng yên, lòng tự tại
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông
Giường thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén vàng

Còn trong “Cư trần lạc đạo phú”, gồm 10 hội và phần kệ, mới đọc - tưởng chừng như Người tự viết cho mình và tự nói với chính mình – khi đã rũ bỏ mọi vướng bận - kể cả ngai vàng và vương quyền để lên núi tu hành.

Tại đây, sau khi đã ngộ nghiệm và định rõ chân lý, Người để lại phần tâm cốt nhất của tư tưởng và tính cảm lớn, góp phần vào sự nghiệp giáo hóa con dân, nhằm ổn định nhân tâm, khai mở nội lực (cả nhận thức lẫn hành động) và mạnh bền thế nước dài lâu. Bởi chúng ta cũng biết, chính trong lúc đang ở đời tu, Người vẫn chủ động dấn thân chăm lo mở cõi - bằng việc làm “vô tiền khoáng hậu” là quyết định gả con gái cho vua Chiêm, đổi lấy hai châu Ô – Lý.

Đây chính là mảnh đất đầy vị thế về địa lý – chính trị - quân sự và kinh tế - văn hoá, đặc biệt là thế mạnh gần như độc tôn về phát triển công nghệ vi sinh thế kỷ 21 và còn mãi về sau. Trở lại với “Cư trần lạc đạo phú” - mở đầu, Người viết:

Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm

Ấy là nói tới lối hành xử khôn ngoan nhất, nhuần hợp với cốt cách dân tộc, theo nghĩa “thô” thì người có thể ở chốn thành thị giàu có, sung sướng đủ đầy, nhưng nết hạnh và ứng xử phải thuần phác và trong trẻo mới là quý, là nên. Còn theo nghĩa “tinh” thì dù có sống trong cảnh ngộ nào cũng phải đề cao tính thiện nhẫn và chọn sự thanh thản làm đầu. Được thế là đời tiên phật, là dân tộc vững bền. Như ở hội 3, Người viết:

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc (chẳng biết), họa kia thực cả đồ công.

Và như thế, khi đã biết, đã ý thức được thì: “Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca. Câm giới hạnh, đoạn gian tham, chĩn thực ấy là Di Lặc”. Cho nên, nói ngắn gọn: Đời tục hay cõi tu cũng cốt ở cái Tâm con người. Nếu biết hành xử nhuần hợp để có được nguồn tâm vô nhiếm thì dễ dàng đạt tới cực lạc. Đó là căn bản của tư tưởng “Phật tại Tâm”.

Báu vật của tâm linh và đời thực ấy sẵn có ở trong mỗi con người. Vấn đề là tự ý thức, tự hành xử được hay không mà thôi. Chân lý ấy sâu xa mà giản dị vô cùng – như bài kệ kết thúc, Người viết:

Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với cảnh mà vô tâm thì không cần phải hỏi Thiền nữa.

Nói tóm lại – bài học phát huy nội lực của Trần Nhân Tông và thời đại của Người chính là trước hết tôn cao nền giáo hóa con dân theo cách thiện, giúp họ hoàn thiện quá trình tự nhận thức để giữ được tâm trong và trí sáng, biết bình tâm trước mọi diễn biến của đời sống, đạt độ an nhiên tự tại, ít bị vướng bận vào hệ lụy thường tình như tham, sân, si, nhất là những mặc cảm áp chế thân phận và cá tính.

Trên cơ sở đó mà thăng hoa hết mình cả tâm hồn và trí tuệ để có thể sáng tạo và dâng hiến hết mình. Đó chính là cốt lõi của con đường giải thoát và tự vượt thoát.

Và chính Người - cả khi chỉ huy đánh giặc lẫn khi xây dựng hòa bình đều đã thể hiện rõ phong cốt và sức mạnh tự thân ấy. Nó lan truyền sang tướng sĩ và thần dân, thôi thúc họ lòng tự tin, tính nhân hậu, ham học hiểu, với khao khát hòa ái và lịch duyệt, biết thiện nhẫn và làm tròn bổn phận trên tinh thần tự cường và tự tôn dân tộc.

Cho nên, Phật Thiền Trần Nhân Tông – tư tưởng Trần Nhân Tông – trong đó, lớn nhất và cao sâu nhất là bài học khai phóng nội lực - trước hết không phải là những giá trị tôn giáo, mà là giá trị dân tộc, thuộc về bản sắc cao quý, cần và theo suốt hành trình dân nước dài lâu. Nếu không thấy, nhất lại là không thực hành lấy cho nghiêm thì đó quyết không phải lỗi ở tiền nhân kỳ bí, mà chính là ở hậu thế nhạt nhòa – ví như cuối đời Trần, khi vương triều suy vi, Trần Nghệ Tông đã phải thốt lên:

Tự hận nhi tôn tham bão noãn
Bất tùy xung mật báo thâm ân.

Dịch thơ:

Tự hận cháu con tham lợi lộc
Không theo nghĩa lớn báo ơn dày.

Đó là sự treo giá của những bài học lịch sử sâu xa và cội rễ.

Văn Quân
(tuanvietnam.net)




11-30-2008 09:23:13

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5859)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6020)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6856)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5874)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6588)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7981)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7105)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6384)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7185)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6048)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567