Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiên Đàng Địa Ngục, Cực Lạc Tịnh Độ Có Cùng Khắp Mọi Nơi Pháp Giới.

25/12/201422:23(Xem: 7966)
Thiên Đàng Địa Ngục, Cực Lạc Tịnh Độ Có Cùng Khắp Mọi Nơi Pháp Giới.

con duong

Là phật tử không gì quý hơn, vui hơn, an lạc hơn, giải thoát hơn được học hiểu chút chút các kinh đại thừa liễu nghĩa của Đức Phật dạy. Quy y Tam Bảo, tụng kinh nghe kinh, nghe thuyết pháp, đi chùa hơn 37 năm mà không biết kinh Phật dạy có 2 loại : kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Đệ tử Phật mà không biết các kinh đại thừa liễu nghĩa như: kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Duy Ma Cật, kinh Hoa Nghiêm, kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Niết Bàn giảng giãi .v.v..là một thiệt thoài to lớn vô cùng. Vì kinh liễu nghĩa Đức Phật mới dạy đầy đủ chân lý tột cùng của nhân sinh vũ trụ như thị chư các pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.v.v.,Vô khổ, tập, diệt, đạo, của tứ đế cho đến 12 nhân duyên cũng không, vô chứng, vô đắc. Ba đời chư Phật điều y vào diệu pháp Trí Tuệ Bát Nhã Ba La Mật, nên Tâm không bị chướng ngại, không sợ hải, xa lìa mọi mộng tưởng, mọi điên đảo, đạt Niết Bàn tuyệt đối, không hình không tướng, Vô Tướng là Thật Tướng.

Thật Tướng là Vô Tướng. Còn kinh bất liễu nghĩa là các kinh phương tiện cho sơ cơ ban đầu mới vào đạo thuộc về quyền pháp, không phải thực pháp, để an ủi vổ về cho chúng sanh tạm bớt khổ, như lấy đá đè cỏ, lấy đá lên cỏ sẽ tự mọc lại, như các loại thuốc an thần cho người bệnh tâm thần, nhưng không chữa lành hết bệnh được. Niếu uống càng nhiều thì bệnh càng nặng, như đa số phật tử chúng ta hiện giờ do một số quý thầy cô không thông hiểu kinh Phật liễu nghĩa, đã nhồi chúng ta cầu nguyện cầu xin và gởi gấm tâm hồn vào các cõi vô sắc giới đợi sau khi chết mới vãng sanh về tịnh độ cực lạc, không biết cực lạc tịnh độ có cùng khắp mọi nơi mọi chổ hiện tiền. Thân nầy đang sống mạnh khỏe đầy đủ 6 căn, 6 trần, 6 thức, 7 đại hàng ngày mà không thấy được Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ. Tùy Kỳ Tâm Tịnh, Tắc Phật Độ Tịnh. Để chế tác cõi tịnh độ ngay bây giờ và ở đây thì khi chết rồi, căn, trần, thức, đại hết hoặt động làm sao thấy được. A Di Đà Phật dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang của chơn Tâm, Phật tánh, Pháp thân, Bản thể.v.v. tồn tại với không gian vô cùng thời gian vô tận của vạn pháp và mọi người bất sanh, bất diệt đã có từ vô thỉ đến vô chung, không hình không tướng lớn, nhỏ, ngắn, dài, xanh, vàng, đỏ, trắng, cam.v.v..thì chẳng có gì phá hoại được. Chúng sanh cũng có 3 thân như Phật, nhưng rất tiếc chưa được nghe các kinh đại thừa liễu nghĩa để nhận ra Pháp thân. Mười phương pháp giới điều Nhất Chân giống nhau, cực lạc tịnh độ có cùng khắp mười phương chổ nào cũng có, bằng chứng cụ thể Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và hàng ngàn vạn các đệ tử của Ngài sống trên trái đất quý báu này ngày nào cũng có niết bàn và vô thượng niết bàn cả, đó là chân lý sự thật muôn đời. Vì tự tánh Di Đà, duy Tâm tịnh độ. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh. Lúc nào muốn có cực lạc thì hiện tiền ngay. Sau khi nhập niết bàn Đức Phật chẳng nói đi về thế giới nào cả. Như Lai chẳng từ đâu đến và chẳng đi về đâu, mọi người cũng vậy thôi. Kinh Pháp Hoa đức Phật dạy: vì một đại sự nhân duyên mà đức Phật ra đời, để chỉ bày tri kiến Phật sẳn có nơi mọi người. Ngài dạy ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành và không ngờ rằng tất cả chúng sanh điều có Phật Tánh. Kinh Đại Bát Niết Bàn Ngài dạy ai cũng có chơn Thường, chơn Lạc, chơn Ngã, chơn Tịnh bất sanh, bất diệt như Ngài. Còn vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ, không phải thật nghĩa chúng ta chưa biết và nhận ra đó thôi. Vì hàng ngày luôn luôn thích sống trong 3 cõi của Tam Giới : 1- là dục giới:  tài, danh, sắc, thực, thùy, lục dục thất tình .v.v. ,  2- là sắc giới: say đắm bám theo đủ thứ vật chất hiện tượng có hình có tướng.v.v..., 3- là vô sắc giới: gởi tâm hồn vào một thế giới khác như tây phương cực lạc, các cõi Phật, cõi trời, cõi tiên, tin ông táo, ông địa, thần sông, núi , biển, làng, xóm, thổ thần đất đai, âm hồn, cô hồn, cầu an, cầu siêu, cúng sao, coi xăm, bói quẻ.v.v..Thì che mất chơn tâm Phật tánh rồi, như mặt trời đã bị mây đen dày đặc che kín. 

Ban đêm phi thuyền ra khỏi trái đất thì sẽ thấy mặt trời vẫn sáng làu làu, mình không thấy vì trái đất che mặt trời nên có ban đêm. Ban ngày không thấy cũng bị mây che chớ mặt trời lúc nào cũng sáng tỏ. Ở Việt Nam mặt trời mọc gọi là hướng đông, thì ở Mỹ mặt trời đã lặn rồi thì gọi hướng tây, bên gọi đông bên gọi tây làm sao đúng tuyệt đối. Đông tây nam bắc đâu có thật vì không gian rộng lớn vô lượng vô biên vô cùng vô tận không có bờ bến lấy gì để làm đích thực, thời gian cũng không thật vì đâu có ban đầu mà có điểm kết thúc đã có từ vô thỉ đến vô chung vậy thôi. Phẩm Nguyệt Dụ kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật đã dạy: mặt trăng chẳng có trăng lưỡi liềm, trăng non trăng già, trăng nguyệt thật, trăng tròn trăng méo, trăng rằm, mùng một ba mươi không trăng, chỉ do trái đất quay rồi che mà có hiện tượng như vậy. Còn mặt trăng vẫn tròn đầy sáng tỏ. Việt Nam nói đã có 4000 năn văn hóa,Trung Quốc 5000 năm văn hóa, tây lịch gọi bây giờ là 2014, tôn giáo bạn nói trái đất này do thượng đế sinh ra cách đây khoảng 10,000 ngàn năm. Nhưng các nhà khoa học dùng lý trí để tư duy quán chiếu đo lường đã khám phá ra trái đất này đã có hơn 15 tỷ năm rồi, các nhà khoa học chắc đúng hơn các tôn giáo độc thần đa thần đang gởi tâm hồn ảo tưởng vào các cõi vô sắc giới. Các loài hoa cũng đâu tự cho mình hoa vạn thọ, hoa cúc, hoa hồng, mai, đào gì đâu, do tự mình đặc tên rồi tự khen hoa nầy xấu hoa nầy đẹp rồi mê theo. Ngắn dài, lớn nhỏ, cao thấp v..v..cũng không thật vậy đó, thử làm 1 lần để biết, cái chén lớn hơn cái ly uống trà, bây giờ chén so với tô thì hết lớn, tô so với nồi thì hết lớn, nồi so với bàn nồi hết lớn, bàn so với nhà bàn hết lớn, nhà so với lầu nhà hết lớn v.v..thì chưa đúng với cái chân lý cứu cánh tột cùng mà chúng ta hay kẹt ở đó.

Hồi quan phản chiếu ra cảnh vật sơ rồi, bây giờ trở về thân của mình xem sao. Thân nầy trước đây bằng cở hột bi nhỏ nằm trong bụng mẹ được hấp thụ sữa theo ngày tháng, rồi sinh ra phải vay mượn thức ăn thức uống nghe thấy biết từ 7 đại: đất, nước, gió, lữa, không đại, thức đại và kiến đại với trùng trùng duyên khác nữa nên giờ đã trở thành thân to lớn như vầy. Tổ tiên ông bà cha mẹ con cái cháu chắc cũng phải từ 7 đại có trong vũ trụ nầy có từ vô thỉ đến vô chung sinh ra, rồi chết thì phải hòa tan về cho 7 đại trong vũ trụ, gặp đủ duyên sẽ kết trụ hội lại, rồi thành trụ dị diệt, thành trụ hoại không, rồi tan, hợp tan mãi mãi vô cùng vô tận mà không mất. Mượn mà không chiệu trả thật vô lý, 7 đại là chân lý muôn đời của vũ trụ không thuộc của ai cã, muốn lấy giử cũng không được muốn bỏ cũng không xong, vì đâu có cái gì của mình đâu mà đòi lấy và bỏ. Như lữa luôn có chung quanh mình và đầy cả vũ trụ nhưng mình đâu thấy khi nó chưa đủ duyên để biểu hiện đỏ lên, nên thử xem lấy hộp diêm hay máy lữa đi cùng khắp mọi nơi niếu muốn có lữa thì kẹt lên, lữa biễu hiện ngay. Khi hết đỏ lửa đâu phải chết mất hẳn mà chỉ ẩn tàng vào dạng khác. Xin cám ơn lữa, mầu nhiệm quá không có lữa loài người và muôn vật không sống được. Hư không cũng khó thấy vi tế quá, nhưng ở trong người mình đầy cả, 2 lỗ tai, 2 lỗ mũi, cổ họng, ruột, bao tử, lỗ chân lông, đường gân máu đâu có bít lại, hư không ở trong đầy. Khi thân hoại nó sẽ hòa tan với hư không chung quanh của vũ trụ đâu có mất hẵn, cám ơn em đã ở trong ta từ khi có thân nầy và thân của mọi loài cùng bao trùm che hết tất cả vạn vật mà khó thấy. Đất, nước, gió, lữa, thức đại, kiến đại, cũng ở trong mình đầy vậy đó. Bây giờ phản quan tự kỷ về tâm: Bồ Tát Quán Tự Tại soi thấy 5 uẫn điều không nên qua hết mọi khổ ách trong kinh Bát Nhã, mình phải tập soi mới được, Bồ Tát dịch là người hữu tình giác, hay giác hữu tình: nghĩa là người nào đó được giác ngộ rồi hay giúp người khác cùng giác ngộ. Sắc thuộc về thân, còn 4 uẫn kia, Thọ,Tưởng, Hành,Thức thuộc về tâm,Thọ là sự cảm thọ trong lòng buồn vui, giận, thương, ghét, phẫn nộ, ai oán.v.v.,Tưởng là tưởng tượng về người, muôn loài, muôn vật về quá khứ đã qua rồi và tương lai chưa đến. Hành là trong tâm luôn lo lắng, ham muốn việc nầy đến việc khác liên tục. Thức là tâm luôn luôn phân biệt đủ thứ đẹp, xấu, nhỏ, lớn, ngắn, dài, cao, thấp..v.v  của vạn pháp có hình tướng. Bồ Tát thì thấy Ngũ Uẫn giai không, vạn pháp giai không duyên sanh như huyễn có không thật có, không không thật không nên vượt qua hết mọi sự khổ ách. Còn mình thấy thực nên khổ hoài thôi, muốn hết khổ hàng giây, hàng phút, hàng giờ, hàng ngày phải thọ trì giử lấy để tư duy quán chiếu thì sẽ hết khổ lần.                          

Một là tất cả, tất cả là một. Trong cái một có chứa trời trăng mây nước gió lửa và vạn vật, trong cái nhiều cũng do từ cái một mà có, con người, động vật, thực vật, khoáng vật, phi vật thể và vạn vật do từ 4-7 đại sinh ra với trùng trùng duyên khởi để biểu hiện qua các hình tướng sai khác ta chưa hiểu biết hết đó thôi. Như mây thường có trước lỗ mũi, nhưng thấy cũng không được vì vi tế quá. Khi hơi thở ra sẽ bốc hơi đi kết tụ lại thành mây mưa xuống nuôi dưỡng vạn loài, ta ăn, ta uống tạo thành ta.Ta có tất cả, tất cả là ta, trong cái một có cái nhiều ở bên trong, trong cái nhiều cũng có cái một. Tâm kinh Bát Nhã rút gọn lại còn 260 chữ thật vi diệu thâm sâu mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, sắc tức thị không, không tức thị sắc, là có không thực có, không không thật không mà chỉ hằng chuyển thay đổi thôi. chữ Bất và Vô trong kinh rất nhiều để phá trừ vô minh, giải thoát tri kiến Hương sau cùng của 5 phần Hương. Đó là giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. Mới hiểu sơ lược 5 - 7 chữ thôi cũng được an lạc lớn, huống gì quán sâu từng lời từng chữ mà hiểu được thì sẽ giãi thoát bất khả tư nghì. Kinh Phật mục đích tối hậu là để học những chân lý đức Phật dạy cho cái gì rồi tu theo, không phải để tụng tán cầu xin. Thời Đức Phật còn tại thế không thấy trong các kinh điển của Đức Phật dạy pháp môn tụng tán và cầu xin Ngài như mình tưởng tượng ra hiện nay. Lục Tổ Huệ Năng dạy phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ở trong thế gian mà không được giác ngộ giải thoát đợi qua thế giới khác ví như đi tìm lông rùa sừng thỏ. Thỏ không bao giờ có sừng, Rùa không bao giờ có lông, lữa không bao giờ mát, mặt trời không bao giờ lạnh được, vọng tưởng thôi. Kinh Kim Cang Bát Nhã là tối thượng thừa, Phật thừa, hay là tối thượng thừa Thiền, không còn thứ bậc chứng đắc đối đãi, đi đứng nằm ngồi điều thấy 4 Tướng: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng và 6 Trần không thật. Mê là chúng sanh, Giác là Phật. Không còn theo hình tướng hình thức bên ngoài nữa mà trở về tu tánh.Thiền gồm có: 1. Tiểu thừa thiền quán Tứ Đế, 12 nhân duyên để trị liệu "tiệm giáo".  2. Đại thừa thiền: tu Lục Độ.,  3. Tối thượng thừa thiền, bỏ Mê trở về Giác, đốn ngộ giãi thoát sanh tử là làm chủ được Tâm. Hảy chọn pháp môn để tu: tu 5 giới đang hưởng hạnh phúc của người, 10 giới đang hưởng hạnh phúc của trời. Tứ đế đang hưởng niết bàn của 4 quả thánh "hóa thành". 12 nhân duyên đang hưởng quả niết bàn duyên giác "hóa thành". Lục độ đang hưởng quả niết bàn của bồ tát "bồ tác có 52 thứ bậc nhiều bậc còn nhỏ hơn a la hán". Phật là Giác, là người tĩnh thức hoàn toàn không còn có gì mà không biết, không thấy nữa, hết vô minh, phiền não, hết tham, sân, si, mạn, nghi, ngã, ngã sở hửu, tà kiến, ác kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến.v.v., có18 pháp bất cộng vô úy, đang hưởng quả đại vô thượng niết bàn Bảo Sở.

Pháp môn cầu xin cũng không thấy Đức Phật dạy trong các kinh nằm trong 5 thừa của phật giáo, do nhân gian hóa, xã hội hóa, hay lai căn từ nơi mấy ông thầy pháp thầy cúng của ngoại đạo làm cho giáo lý nhà phật giảm thấp trầm trọng sinh ra mê tín ỷ lại nơi đức Phật. 5 thừa dạy điều phải qua Văn,Tư,Tu và Giới, Định,Tuệ rõ ràng. Đức Phật Bổn Sư đã từng dạy ta không có quyền ban ơn giáng họa cho bất cứ ai, kinh A Hàm kể có một hôm đức Phật trên đường đi khất thực có một tu sĩ Bà La Môn đón đường hỏi, thưa ngài Cồ Đàm đệ tử của ngài cầu nguyện có được sanh lên thiên đàng không, Đức Phật hỏi lại, ví như lấy hòn đá thả xuống diếng ông kiêu 1000 đệ tử của ông đứng chung quanh để cầu nguyện thì hòn đá kia nỗi lên được không, ông Bà La Môn trả lời không thể được. Đức Phật hỏi tiếp hay ông lấy dầu bơ đổ xuống diếng và cầu nguyện dầu chìm xuống đáy được không, ông trả lời cũng không thể nào được. Ông nầy thông minh hơn mấy vị bề trên mình đó, Phật thì dạy chân lý để cứu độ chúng sanh không hết, còn mình thì bày ra đủ thứ nghi lễ, tế lễ, cúng bái, rầm rà tốn kém của cải công sức mồ hôi nước mắt của phật tử để rải thêm mê lầm cho mọi người là mang tội lớn đó, phải tĩnh thức càng sớm càng quý. Sư ông Làng Mai cũng đã nhắc nhở trong thông điệp đại lễ Phật Đản liên hiệp quốc 2014 rằng: Đến với đạo Phật chỉ bằng cách sùng bái, lễ lạy, khom mình, đê đầu trong khói hương nghi ngút suốt cả ngày, chúng ta cũng sẽ không thể thay đổi được gì, không xứng đáng được gọi là hậu duệ của đấng Điều Ngự Trượng Phu - Bậc Chiến Thắng Mọi Phiền Não.

Đức Phật không giác ngộ giải thoát thế được cho Phụ Hoàng, Dì Mẫu, công chúa Da Du Đà La, con La Hầu La, em A Nan và giòng họ thân tộc của Ngài. Mà tất cả chư vị điều phải nghe lời Phật dạy về chân lý để tu hành chứng đắc các quả Thánh. Dòng họ Thích Ca cũng bị vua Lưu Ly giết hại, Ngài đón đường khuyên ba lần nhưng cũng không cứu được. Làm sao cứu mình được đây mà cầu an cầu siêu. Ngài cứu độ nghĩa là chỉ dạy tất cả chân lý của nhân sinh vũ trụ cho tất chúng sanh cả rồi, tại vì mình chưa được học và biết, chưa chiệu chấp nhận chân lý muôn đời đó thôi, mình phải tự lấy tự độ và thọ trì mới được. Ai ăn nấy no, ai ngũ nấy khỏe, uống nước thì hết khác, uống thuốc thì lành bệnh, làm thế không bao giờ được.

Kinh Kim Cang Đức Phật đã dạy rằng: Dùng âm thanh mà cầu ta, dùng sắc tướng mà thấy ta, là đi theo con đường tà không bao giờ thấy được Như Lai. Cầu xin trước tượng xi măng cốt sắc, đồng, gỗ, giấy vẽ, vãi thiêu, phật ngọc hòa bình vô tri vô giác thì không thấy được Như Lai đâu. Vì Như Lai là Phật Tánh, Pháp Tánh, Tăng tánh, Bản Thể thường trụ của mình và vạn pháp mà mình không chiệu nhận. Phật bên ngoài là Phật của người khác do các thợ nghệ nhân lấy các vật chất đúc, tạc, điêu khắc, tô vẽ, nung nấu, sơn son thếp vàng .v.v. hợp thành, hơn nữa tất cả tượng điều vô tri vô giác, làm sao cho mình giác được. Nên nhớ phải học thuộc lòng Phật là giác ngộ giải thoát, là người tĩnh thức, không có ai làm thế cho mình được cả mình phải làm thôi. Lục tổ cũng dạy Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh nơi mình phải trở về nương tựa tự tánh tam bảo của mình để giải thoát.

Đức ngũ tổ Hoằng Nhẫn dạy tối thượng thừa rằng: Giữ chơn tâm là bậc nhất, tin tâm nầy là Phật, ngộ chơn tâm là nhơn Phật, chứng chơn tâm viên mãn là quả Phật. Phàm người tu cần phải biết bản thể, chính nơi thân tâm này xưa nay vốn thanh tịnh, không sanh không diệt, không có phân biệt, tâm tự tánh thanh tịnh viên mãn là bổn sư, vượt hơn niệm mười phương chư Phật. Trong kinh Thập Địa đức Phật dạy rằng: Trong thân chúng sanh có Phật tánh kim cang cứng chắc không có gì phá hoại được. Tất cả cái có hình tướng điều phá hoại được, chơn tâm không có tác động, không hình tướng không thể phá hoại được.

Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới ở nơi tâm, tất cả vạn pháp đặt cho tên tuổi cũng từ tâm. Ở thế gian được làm thầy cô giáo, giáo sư, kỷ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, bác học v.v...Trong đạo Phật được làm Hiền Thánh, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật cũng từ tâm học hiểu biết rộng lớn ra hay giác ngộ chân lý. Bỏ quên Bản Giác Diệu Minh Chơn Tâm của mình mà tu theo hình tướng bên ngoài là tu theo pháp sanh diệt, kinh Kim Cang đức Phật đã dạy: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Những gì có hình tướng điều hư giả bởi do nhiều duyên hợp lại mà thành không có thật thể.  Nhìn quả núi to lớn, một lâu đài đồ sộ, một thành phố, con sông dài, biển cả bao la.v.v...chứa vào tâm chẳng có gì chật chổ, vì không hình tướng nên rộng lớn vô tận mà bất sanh bất diệt nên thọ lượng vô cùng đó là A Di Đà Phật của mỗi con người, niếu không chiệu nhận thì tự mình lổ thôi không có ai lổ thế cả. Tất cả chúng sanh điều có chất liệu Phật sẳn rồi ví như hoa sen đang thích ở mãi trong bùn, có ngó đang thích nhô lên khỏi bùn, ngó đang lên lưng chừng giữa nước, ngó lên khỏi mặt nước, ngó bắt đầu hé nụ, ngó nở 10 - 20 - 30 - 40 -50 - 60 phần trăm.v.v. trước sau rồi cũng sẽ được nở toàn diện nhưng không biết bao lâu tùy nơi mình tinh tấn tu hành đó thôi. Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát là tiền thân của Đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã thấy, ai cũng sẽ thành Phật được hết cả, nên đi trên đường gặp mọi người điều chấp tay cung kính đảnh lễ câu. Tôi không giám khinh các ngài vì các ngài là Phật sẽ thành, một số người không tin cho là điên điên khùng khùng rồi lấy đá ném, chưởi mắng Ngài nữa thật tội nghiệp. Khi Ngài thành Phật thì các vị đó trở thành thánh đệ tử đang nghe kinh Pháp Hoa và được đức Phật thọ ký sẽ thành Phật đó là chân lý sự thật.  

                           Vui thay đức Phật ra đời 

                     Từ đây trần thế rạng ngời tình thương.

                           Vui thay giáo pháp ngát hương

                    Từ đây nhân loại bốn phương vui mừng.

                            Vui thay giáo pháp cao minh

                      Chỉ dạy nhân thế thoát vòng tử sinh.

Đây là tịnh độ, tịnh độ là đây.   "vì tịnh độ có cùng khắp mười phương ".

Mĩm cười chánh niệm, an trú hôm nay.  "vô niệm niệm là chánh, hữu niệm niệm là tà. Vô niệm là vô sanh, vô sanh là vô vi, vô vi là niết bàn. Lục Tổ dạy ".

Phật là lá chín, pháp là mây bay.  " hảy trở về cội Bản Môn, bản thể, tất cả pháp điều là phật pháp ".

Tăng thân khắp chốn, quê hương nơi nầy.  " Phật tánh, pháp tánh lúc nào cũng thanh tịnh và đạo tràng có cùng khắp mọi nơi, của đại bồ tát Duy Ma Cật dạy ".

Thở vào hoa nở, thở ra trúc lay.

Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày . " ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, không dính kẹt và mê theo với 6 trần. Đại thừa gọi là 6 cảnh không phải trần vì bản thể sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng hề quyến rủ ai, tại vì ta mê theo nó mà thôi nên sinh ra đủ thứ phiền não khổ đau. Lục Tổ ngộ từ kinh Kim Cang ".

Bài nhạc nầy của sư ông Làng Mai sáng tác, con tự tạm hiểu sơ lược kính xin sư ông hoan hỷ chỉ dạy thêm.

" Lý Trung Đạo Vô Sanh Bất Diệt của sư ông Làng Mai giảng dạy như sau: khi nhận diện được, thấy được tất cả các pháp Bất Sanh Bất Diệt. Là Có Không, Một Khác, Còn Mất điều sụp đổ, đối đãi cũng sập đổ. Bất thối chuyển là hàng ngày phải nuôi dưỡng trí tuệ, thiền định. Chính đức Phật bổn sư khi thành Phật rồi hàng ngày Ngài vẫn nuôi dưỡng trí tuệ thiền định. Niếu không nuôi dưỡng thực tập thiền định hàng ngày, coi chừng sẽ trụt xuống lại đau khổ. Chư hạnh vô thường, niềm vui, giác ngộ cũng vô thường. Nên phải nuôi dưỡng niềm vui và giác ngộ. Chính đức Phật bổn sư cũng nuôi dưỡng hàng ngày.

Chất phàm, chất thánh: có phàm mới có thánh, niếu hết phàm thì cũng hết thánh. Đó là cái thấy bất nhị hết đối đãi, phiền não có thể chuyển thành bồ đề, bồ đề cũng có thể rớt thành phiền não. Nào còn các bài: cái thấy trung đạo, cữa vô sanh mở rồi, vượt thoát sanh tử nơi youtube. Không sanh không diệt đừng sợ hải, đường xưa mây trắng, kinh A Di Đà giảng giải, nơi www.suoitu.org vô cùng quý báu, sư ông Làng Mai giảng dạy kinh Pháp Hoa như sau: Tự tánh của Tâm vốn thanh tịnh.

            The mind is originally pure and shining.

Còn vô minh thì sống trong tam giới, còn bị ràng buộc thì mình sống trong tam giới, nhưng niếu phá được vô minh, phá được sự ràng buộc thì tuy đứng trong tam giới mà thực ra mình đã đứng ngoài tam giới rồi. Tuy đang ở trong thế giới, nhưng kỳ thật mình đã vượt tới pháp giới rồi. Phá Hữu Pháp Vương danh hiệu của Phật, tất là vị vua của các pháp. Thấy Phật Đa Bảo: là thấy được tính chất bất sanh bất diệt của những cái mà lâu nay mình cứ nghĩ là có sinh có diệt. Phật Đa Bảo là bản môn, Phật Thích Ca là tích môn. Như Lai thị hiện có nghĩa là bày ra cho người ta thấy như vậy. Cho nên Phật đản sanh là thị hiện đản sanh thôi. Tám tướng trạng của Phật Thích Ca là: có nhập thai, có sanh ra, có thấy cảnh khổ, có xuất gia, có tu học, có thành đạo, có thuyết pháp và có nhập diệt. Vị Bụt nào cũng thị hiện đủ tám tướng trạng cả. Tuy nhiên ta nên tập thấy những việc đó chỉ là thị hiện mà thôi. Kỳ thật không bao giờ sanh, cũng không bao giờ diệt là bản chất của Phật và tất cả vạn pháp. Những ý niệm sanh diệt, tới đi, có không v.v. điều là những ý niệm trong đầu của chúng ta mà không phải đích thực những thuộc tính của vạn hữu."

Mười pháp giới cũng ở nơi tâm ta: địa ngục là trạng thái của tâm đang sân hận, bị khổ não, bực bội, hận thù, kỳ thị, khó chiệu.v.v., Ngạ quỷ là tâm đang tham lam, thèm khác đủ thứ, ích kỉ, bỏn xẻn, đố kỵ.v.v., Súc sanh là tâm si mê đang nghỉ tưởng làm các việc đê tiện, xấu xa, ác độc mà không biết.v.v. A tu la là tâm luôn tranh đấu hơn thua, giành giật, nóng nảy.v.v., Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật cũng lưu xuất từ tâm mình tùy theo sự thọ trì từng bậc để được hạnh phúc, an lạc, tự tại, giải thoát niết bàn. Giáo lý nhà Phật thường dạy tu hành để được giải thoát sinh tử, là mục đích để vượt ra khỏi mừng, giận, thương, yêu, ghét, ái ngã, phẩn nộ, tà kiến, thiên kiến, ác kiến, giới cấm thủ, tham, sân, si, mạn, nghi, tâm địa ngục, tâm ngạ quỷ, tâm súc sanh, tâm a tu la kia.v.v..Vì loại tâm này lâu lâu mới có, khi có khi không nên không thật, mà lầm cho là thật. Tâm thật là tâm thanh tịnh, vì sự thanh tịnh lúc nào muốn có cũng có hết. Khi mà các loại tâm kia mình không muốn có nữa thì tâm thanh tịnh liền hiện hửu, như vậy mới gọi giải thoát sanh tử đó.

Về thân vật chất ai cũng biết rõ, không cần giải thoát, nó cũng tự giải thoát khi chết đến, sẽ trở về hòa lại với 7 đại của vũ trụ, rồi sanh lại thân khác. Kinh Phật dạy chúng ta đã thay đỗi thân không biết bao nhiêu triệu lần rồi và vẫn thế mãi. Kinh Bát Nhã dạy: thị chư các pháp bất sanh, bất diệt, không lão tử cho đến không hết lão tử. " vì lão tử không thật cho nên không bao giờ hết lão tử ". Niếu sanh, lão, bệnh, tử là thật và cố định làm sao sanh lại thân khác được nữa. Thời đức Phật còn tại thế có một người đàn bà có đứa con trai bị rắn độc cắn chết bồng đến cầu Ngài cứu sống lại. Ngài rất thương xót và bảo, người hảy đi xin một thứ tro mà nhà nào chưa từng có tổ tông, ông bà, cha mẹ, người thân chết đem tro về đây thì Ngài sẽ cứu con của người sống lại được. Nhưng than ơi người đàn bà đã đi từ thành thị cho đến thôn quê tận cùng ngỏ hẻm mà không xin được thứ tro ấy. Người đàn bà ôm đứa con lạnh cứng vào lòng khóc thảm thiết. Đức Phật ôn tồn bảo không có các thứ tro ấy đâu, ta bảo ngươi đi tìm để chứng nghiệm chân lý của cuộc đời, không phải chỉ có một mình ngươi đau khổ đâu, mà toàn cả nhân loại đều đau khổ như ngươi khi người thân chết. Chết là một định luật tất nhiên của chân lý muôn đời, niếu chấp nhận chân lý này thì sẽ vơi đi nỗi khổ đau, thôi ngươi hãy đi chôn con đi. Niếu cứu được dù thịt ta có tan, xương ta có mục ta cũng không từ.            

" Cư Trần Lạc Đạo sư ông Trúc Lâm giảng giải như sau:

- Lục căn: là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

- Lục tặc: mắt thấy cảnh mà đi theo nó là mất mình.

- Lục thông: 6 căn không còn dính kẹt là lục thông hiện tai trong đời sống.

- Hết tham sân si: là thấy 3 thân.

- Pháp thân: không hình tướng mà bất sanh diệt.

- Báo thân: thân hiện tại.

- Hóa thân: của phàm tục là đi theo vọng tưởng đủ thứ, của Bồ Tát là hóa thân để độ chúng sanh.

Sư ông Trúc Lâm giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm như sau: tất cả chúng sanh điều có chơn tâm bất sanh, bất diệt như đức Phật, chính đó là A Di Đà Phật vô lượng thọ vô lượng quang của mình. Vì vọng tưởng vọng kiến sinh ra:

         1- phiền não ma: là tham, sân , si.

         2- ngũ ấm ma:   sắc, thọ, tưởng, hành , thức.

         3- tử ma: chết, linh hồn yêu tinh.

         4- thiên ma: hưởng ngủ dục ham muốn đủ thứ.

Sáu cõi phàm luân hồi do vọng kiến, vọng tưởng sanh ra chỉ là giả có, hư vọng như bọt nước, điện chớp, hạt sương đầu ngọn cỏ. Tánh nghe, tánh thấy, tánh biết thì hằng hữu ai cũng có mà bỏ quên.

-  Lục nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, duyên theo 6 trần sanh ra dục lạc khổ nhọc mất giải thoát.

- Tâm vọng tưởng là tâm diệt.

- Tâm biết vọng tưởng là không sanh diệt.

- Khổ của thế gian là yêu và ghét người và cảnh vật, phải bỏ mà tu pháp vô lậu.

-phiền não trược: ý thức phân biệt, nhớ, tụng 6 trần hòa với đan kết tâm thức.

- chúng sanh trược: thân luôn luôn đổi thay, muốn ngày tháng đi qua nhưng không muốn chết, tâm mâu thuẫn thân muốn sống dai mà tâm muốn ngày giờ đi qua mau.

- Mạng trược: mang vẫn đục thấy, nghe, hiểu biết không khác. Vì các trần làm ngăn cách.

- Phân biệt là ý thức, thức là sanh diệt.

- Quyết định chọn lấy nhân không sanh diệt mới có quả không sanh diệt.

- Biết cội gốc phiền não, mắt, tai , mũi, lưỡi, thân, ý, 6 căn trói buột. 6 tên giặc này dẫn giặc về nhà, 6 căn đuổi theo 6 trần là cội gốc phiền não, căn bản phiền não.

- Do sở thích hư dối tạo nghiệp nên có 6 cõi luân hồi, mê chìm mê muội dấy từ vọng tưởng. Vọng tưởng là chủ yếu bao thứ nghiệp, bản tâm diệu viên minh vô tác không dính dáng gì với vọng tưởng hư dối.    

Kinh Duy Ma Cật: tùy kỳ tâm tịnh, tắt phật độ tịnh, đạo tràng có cùng khắp chổ nơi và mọi thời. Khi tâm của chúng sanh vào pháp môn bất nhị, tâm không còn vọng tưởng, phân biệt, đối đãi, chạy theo thương ghét, khổ vui, duyên theo 6 trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, là cõi tịnh độ hiện ngay trong cõi lòng.

Kinh Đại Bát Niết Bàn: tất cả chúng sanh điều có 4 sự thật, chơn thường, chơn lạc, chơn tịnh, chơn ngã muôn đời mà không biết, vì không phản quan tự kỉ và hồi quan phán chiếu để thấy.

          1 - vì chấp ngã thô bên ngoài, là vô minh thượng thấp nhất.

          2 - vì vọng tưởng, là vô minh trung. " vi tế ".

          3 - vì quên tánh giác, là vô minh hạ. " vi tế hơn ".

Tánh là không hình dáng, tướng là có hình tướng. Còn nghĩ thiện là sanh các cõi lành, không còn nghĩ thiện ác, lìa cả hai là vào Thánh, Bồ Tát, Phật.

Chứng Đạo Ca: Thiền sư:Huyền Giác dạy, bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật.

Trung Quán Luận: thấy nhân duyên là thấy Phật. Muốn thấy Phật không phải vận dụng công phu, sức lực mà thấy được, vận dụng trí huệ mới thấy đạo. Mồi ngọn đuốc trí huệ của Phật trí huệ mình mới sáng lên, tự thắp đuốc lên mà đi. Không thắp thì sẽ không có ánh sáng.

Kinh Pháp Hoa: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, là căn bản trí.  Phổ Hiền Bồ Tát, là sai biệt trí. Di Lặc Bồ Tát, là phân biệt trí. Ra khỏi nhà lửa, là ra khỏi vô thường, sanh, lão, bệnh, tử, thương, ghét, tài, danh, sắc, thực, thùy .v.v. Vọng tưởng là sanh tử.

Kinh Bát Đại Nhân Giác: Trí huệ là Bồ Tát biết giả, ngu si là chúng sanh tìm vui nhỏ về vật chất. Tâm lượng Bồ Tát hiểu và thông cảm người nghèo khổ bần khổ đa oán. Không phân biệt kẻ oán người thân, không nhớ việc ác của người kia. Tinh thần đại thừa chưởi và khen điều tốt để tiến, kẻ hại người giúp điều thiện tri thức để tu. Người hại mình là thiện tri thức bậc nhất để thử thách mình trên bước đường tu, không nên buồn mà coi như vị nước cam lồ và vui mãi như những người giúp mình. Hằng ngày phải có văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, thật tướng Bát Nhã."

Pháp Bảo Đàn Kinh: Ngài Thần Tú là đại sư huynh làm thọ giáo sư của hơn 500 trăm vị thầy ở trong chùa. Một hôm Ngủ Tổ muốn truyền y bát lại để có vị kế thừa làm tổ thứ 6, Tổ họp chúng thông báo để trình kệ lên sở tu của mọi người. Đại chúng không dám trình kệ mà giao cho đại sư huynh Thần Tú làm để trình Tổ:

                            Thân như cội bồ đề

                         Tâm như đài gương sáng

                           Luôn luôn phải lau chùi

                            Đừng để dính bụi bặm

Bài kệ nầy rất hay, dành cho người đang thích tu về tiệm pháp, pháp tiểu ngộ tu từ từ, lai rai, từ thấp lên cao, đang còn kẹt trong hình tướng của các pháp sanh diệt, vẫn còn đứng ngoài cửa chưa vào nhà mình được. Niếu vào được rồi tại sao Ngũ Tổ không truyền y bát.

Ngài Huệ Năng ở sứ Lảnh Nam quê mùa không biết chữ, khi nghe bài kệ của Thần Tú liền trình kệ rằng:

                          Bồ đề không phải cây

                       Chơn Tâm không phải đài

                          Xưa nay không một vật

                            Làm gì dính bụi trần

Bồ đề là giác ngộ, không phải cây. Tâm không phải đài có hình có tướng. Xưa và nay không phải như là một cái vật gì lớn, nhỏ, ngắn, dài, xanh, vàng, đỏ, trắng, cam.v.v.  Ví như hư không thì có cái gì bám vào hư không được. Đây là bài kệ đốn pháp, ngộ được bản thể chơn tâm của mình, triệt ngộ, nhờ trước đó Ngài đã nghe câu kinh Kim Cang ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm của một phật tử tụng khi đi bán củi.

Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thấy Huệ Năng đã vào nhà được, liền tìm cách khéo truyền dạy thêm kinh Kim Cang và ngài Huệ Năng khi nghe kinh thêm liền đại ngộ thốt lên rằng:

            Không ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh.

            Không ngờ tự tánh, vốn không sanh diệt.

            Không ngờ tự tánh, vốn tự đầy đủ.

            Không ngờ tự tánh, vốn không giao động.

            Không ngờ tự tánh, hay sanh muôn pháp.

Thật là sung sướng ai cũng có 5 tự Tánh mầu nhiệm nầy hết. Nhiều người chưa hiểu, chưa biết, chưa thấy, chưa nghe. Niếu nhận được thì sẽ giải thoát cái Tâm sanh tử đã bao đời rồi. Từ đây sẽ được giải thoát niết bàn. Đó là chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu Tâm, pháp môn mầu nhiệm, giáo ngoại biệt truyền Đức Phật truyền cho, tổ sư Ca Diếp, tổ tổ truyền nhau, giải thoát sanh tử, làm tổ làm Phật, cứu độ chúng sanh, ra khỏi luân hồi. Vào trang nhà www.suoitu.org hay thientongvietnam.com, sẽ nghe được kinh, luận giảng giải của sư ông Trúc Lâm - Thích Thanh Từ quý báu lắm.

                                Lá xanh lá đỏ lá vàng

                       Suối từ chở pháp tuôn tràn khắp nơi

                             Học đạo hành đạo kịp thời

                       Cùng nhau giải thoát vô sanh niết bàn

                                                    " thơ của suối từ "

"Sư ông Như Huyễn thiền sư: Thích Từ Thông bài hướng dẫn tu học từ xa. Tiểu thừa sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp gọi là 6 trần. Đại thừa gọi là 6 cảnh nó chẳng cám dổ ai, chỉ do tâm con người say mê theo.

 -Hửu vi pháp: là hiện tượng, tướng của các pháp

 -Vô vi pháp:  là bản thể của các pháp

 -Sắc pháp: là vật chất, thanh là âm thanh, hương, vị , xúc, pháp. Pháp là bóng dáng của 6 trần ẩn hiện mãi trong tâm. Làm tâm bất an.

-Tam thiên đại thiên thế giới : là tam giới, dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới tham đủ các thứ về dục vọng, sắc giới đam mê về các thứ vật chất, vô sắc giới ảo tưởng về các thế giới bên ngoài, do tưởng tượng không có thật.

Kinh Đại Bát Niết Bàn giảng giải.  

-Tư duy quán chiếu cho kỉ, xem vạn pháp có tánh làm ô nhiễm cho mình không.

-Quán chiếu vạn pháp là thân, thân là vạn pháp, là phật tánh, là pháp thân.

-Người học chánh pháp, hành chánh pháp giống như lội nước ngược vậy.

-Chúng ta niếu muốn có niết bàn cũng vẫn được. Tỉnh thức trong ngày, buông bỏ ngã, ngã sở hữu.

-Phải viễn ly các tướng mới có niết bàn. Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến như lai.

-Tất cả pháp sanh không thật sanh, diệt không thật diệt

-Muốn chỉ cõi Phật thanh tịnh phải làm sao?  Niết bàn là cảnh giới sở chứng của Tâm, nó không có ở bên ngoài. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh.

-Tứ niệm xứ: vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh. Tại sao đức Phật lại cho vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là cái nhìn đảo lộn như người say rượu nhìn cảnh vật.

-Ngã chính là thực nghĩa của Phật, tánh Giác của ta.

-Thường là thật nghĩa của pháp thân, vậy pháp thân là cái gì?

-Lạc là thật nghĩa của niết bàn.

-Tịnh là thật nghĩa của pháp Bát Nhã ba la mật đa. Học ĐBNB là học : pháp thân Phật trường thọ, chân lý Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Hửu dư y niết bàn, vô dư y niết bàn, vô trụ sứ niết bàn. Phải thấy cho được pháp thân Phật hiện hữu, tồn tại về mặt không gian, thời gian. Như vậy mới gọi là hiểu Phật, như vậy mới có an lành trong cuộc sống. Tự tánh thanh tịnh niết bàn vốn có trong ta không bao giờ mất. Đau khổ do Phật tánh bị lu mờ.

-Vô minh thật tánh, tức Phật tánh. Quả Tư Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán phải đoạn trừ thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tức tư hoặc và kiến hoặc.

-Tứ đế, tứ diệu đế, tứ chơn đế, tứ thánh đế.

-Sanh diệt tứ đế, vô sanh tứ đế, vô lượng tứ đế, vô tác tứ đế

-Vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là bán tự giáo.

-Thường, lạc, ngã , tịnh là mãn tự giáo.

-Sanh diệt tứ đế, là niết bàn hóa thành.

-Vô sanh, vô lượng, vô tác tứ đế, là niết bàn bảo sở.

Do tâm tưởng và nghiệp duyên, khiến chúng sanh trôi lăn trong các nẽo luân hồi. Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai. Quy y Phật là đã xa rời 25 cõi tam giới, Hiền Thánh cũng là ta, thành Phật cũng là ta.

Hào quang là trí huệ nhận thức của mình của Như Lai. Mười pháp giới điều do tâm ta ra , địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la, người, trời, thanh văn, duyên giác, bồ tát, Phật. Tịnh độ tông hiện nay, dân gian tịnh độ hóa, xã hội hóa phương tiện, dân gian hóa đạo phật.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương:

-Thiên ma: là chạy theo 6 trần, sắc, thanh, hương ,vị, xúc, pháp. Tài , danh,

sắc, thực ,thùy.

-Phiền não ma: theo tham, sân, si, nộ, ái, ố, dục ,mạn, nghi.

-Ngũ ấm ma: không nuông chiều theo thân này vào tài, danh, sắc, thực, thùy.

-Tử ma : cả sự chết phải hàng phục không sợ, vì chỉ thay đỗi mà bất sanh bất diệt, vì thời gian vô thỉ vô chung, không gian thì vô tận không bờ mé.

Kinh Pháp Hoa: bổn giác, phật tánh là tháp của Phật Đa Bảo. Thị giác đức Phật Thích Ca chỉ dạy. Kinh dài lắm xin vào trang nhà www.phatphapdaithua.

com, hay pgvn-haitrieuam.org, để học nhiều bộ kinh bất khả tư nghì giải thoát của sư ông Thích Từ Thông. Pháp khó nghe mà được nghe, khó hiểu mà được hiểu, khó gặp mà được gặp, khó hành mà được hành, khó chứng mà được chứng, quả thì vô thật vô hư, là pháp cúng dường tối tôn đệ nhất của người đệ tử Phật. Vấn đề sanh tử: Đức Phật Thích Ca không hề thương ai hết nên Ngài thành Phật và nhập niết bàn, bỏ ngã và ngã sở. Có không thật có, không không thật không, tất cả do duyên hợp lại rồi biến chuyển, bất định, không mất, như như chỉ biến chuyển, không có cố định được gọi là đệ nhất nghĩa đế, trung đạo, bất nhị v.v..

Khế cơ là hạ thấp giáo lý thấp xuống để hợp căn cơ của mọi người, thành ra giáo lý thấp kém của phương tiện, đưa đến mê tín, chấp ngã, dậm chân.

Khế lý là nói đến chân lý sự thật của Phật pháp tuyệt đối. Tu thiền định là phải phát sanh trí huệ, văn như tư, tư như tu. Vạn pháp duyên sanh như huyễn, ngũ uẫn giai không, vạn pháp giai không, là trí huệ tối cao của đạo Phật. Ai thấy pháp duyên khởi, người đó thấy Phật (kinh Hoa Nghiêm). Trí huệ bát nhã là nhân của niết bàn, niết bàn là quả của bát nhã. Quy y thường trụ Tam Bảo là: Quy y Phật là Giác, quy y Pháp là Chánh, quy y Tăng là Tịnh. "kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ dạy".

Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật mới dạy: Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh, Khổ, Tứ đế v.v. là giáo lý bán tự giáo của tiểu thừa chưa phải thật nghĩa, mà chúng ta tưởng tột cùng rồi. Ngài dạy: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là giáo lý mãn tự giáo mới là thật nghĩa đó. Buồn, vui, thương, ghét, ái, ố, phẩn, nộ, tham, sân, si  v.v. cũng không thật nhưng chúng ta cho là thật nên điên đảo, không thấy chân lý, không trí huệ, nghi, điên đảo, mộng tưởng, đảo ngược lấy giả làm thật lấy thật làm giả, ngủ thì mộng, thức thì tưởng như người say rượu, vô thường,vô ngã, bất tịnh, khổ cho là thường, lạc, ngã, tịnh. Còn thường, lạc, ngã, tịnh thì cho là vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ v.v. cái thấy đảo lộn. Không biết Phật, Pháp, Tăng thường trụ: là Phật tánh, Pháp tánh và Tăng tánh hòa hợp thanh tịnh, tự tánh Tam Bảo bất sanh bất diệt thường, lạc, ngã, tịnh. Sự pháp giới là hữu vi hiện tượng sanh diệt, lý pháp giới vô vi không sanh diệt . Pháp tướng là trần, pháp tánh là tịnh cảnh. Như Lai tức phật tánh, phật tánh tức pháp thân. Ứng hóa thân là tùy tình độ căn cơ chúng sanh để dạy .

           1. bất giác: không có giác là phàm phu.

           2. giác: 20 - 30 phần trăm.

           3. chánh giác: 50 - 60 phần trăm.

           4. chánh giác, tri giác:  là Bồ Tát.

           5. vô thượng chánh biến tri giác: là Phật.

Nầy Ca Diếp ! mọi người nên thường xuyên tu học hai chử: Phật là Thường trụ. Niếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu hai chữ nầy, người ấy đi theo đường Phật đi, đến chổ Phật đến. Nầy Ca Diếp nghĩa niết bàn chính là pháp tánh mà chư Phật nói.Trích theo vài đoạn khi ghe kinh ĐBNB của thiền sư: Như Huyễn giảng dạy. Hoa bất mê nhơn, nhơn tự mê."

HT:Thích Trí Quảng giảng dạy: bài bồ đề và đem Phật vào lòng trên youtube.

-Lấy pháp đức Phật dạy để nuôi pháp thân.

-Lấy thiền định để nuôi pháp thân cho ngày càng lớn. Pháp là miệng của Phật, thiền là tâm của Phật.

-Nghe pháp và thiền là thức ăn của pháp thân.

-Kinh là cha mẹ, Phật là thầy.

-Mục đích tu hành là để thành Phật, luôn giữ Phật ở trong lòng, không cần bận tâm mọi người hiểu ta.

Kinh Di Giáo giảng giải của sư cô T.N.Hạnh Chiếu trên youtube:

-Cung thiền định và kiếm trí huệ, là 2 vũ khí chiến thắng tất cả các loại ma. -Pháp thân là thể của tâm không có hình tướng.

 HT:pháp chủ Thích Phổ Tuệ dạy:

 -Đạo Phật không phải là tôn giáo, đạo Phật là phật pháp, chứ không phải tôn giáo.Tôn giáo phải dựa vào thần quyền, nhưng mà đạo Phật dựa vào tâm mình chứ không dựa vào thần quyền.

Một Phật tử người Hoa Kỳ dạy đại học và đã quy y theo đạo Phật 40 năm phát biểu rằng: Nhiều khi trong các cuộc tranh luận, chúng ta không ý thức được rằng cứu cánh của phật giáo, là đem mọi chúng sanh ra khỏi nỗi khổ của tâm và đưa đến sự tỉnh thức thoát khỏi luân hồi sinh tử của tâm.

Duy tuệ thị nghiệp: đệ tử Phật phải lấy trí huệ làm sự nghiệp trên tất cả, vì không giác ngộ chân lý và tỉnh thức không giải thoát được sinh tử khổ đau của tâm. Ngài Cấp Cô Độc thời đức Phật ai cũng biết, là đại trưởng giả lót vàng mua đất, bố thí cúng dường Tam Bảo và chúng sanh không ai bì kịp. Nhưng khi già bệnh chết đến vẫn đau khổ tột cùng, đức Phật biết liền bảo ngài Xá Lợi Phất và ngài A Nan đến thăm để khai thị. Ngài Xá Lợi Phất liền hỏi thăm về bệnh tình của trưởng giả có thuyên giảm không, trưởng giả thưa không con rất đau đớn khó chiệu. Ngài liền khai thị 6 căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, này . Rồi 6 thức, 6 trần, ngũ uẫn, vạn pháp điều giai không duyên sanh như huyễn không thật có, không thật không. Ngài Cấp Cô Độc ngộ được sung sướng òa khóc lên, ngài A Nan hỏi cư sĩ thật tập không thành công à sao lại khóc. Trưởng giả vui mừng nói con thật tập thành công lắm, pháp nhiệm mầu nầy trước giờ con chưa được nghe và thực tập theo. Ngài A Nan nói pháp mầu này đức Thế Tôn dạy cho các thầy tỳ kheo phải thực tập hàng ngày, trưởng giả thưa ngài A Nan xin đức Phật từ bi dạy pháp mầu này lại cho hàng đệ tử tại gia của chúng con và ngài an nhiên tự tại giải thoát sinh tử, rồi thị tịch.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Quốc để trao truyền Phật pháp, liền tới gặp vua Lương Võ Đế. Vua khoe trẫm đã xây cất hơn 480 chục ngôi chùa, bố thí cúng dường Tam Bảo hàng vạn chư tăng, trẫm có công đức nhiều không,Tổ bảo không có công đức chi cả, vua buồn giận. Vì công đức thuộc về trí huệ của pháp vô lậu giải thoát. Còn bố thí cúng dường là phước đức, pháp hữu lậu còn sanh diệt, sanh ra có đầy đủ vật chất giàu có, chưa thoát được khỏi sanh tử khổ đau của kiếp luân hồi. Tổ thấy vị vua sùng đạo nhất thời đó mà không hiểu phật pháp cứu cánh của đại thừa liễu nghĩa, căn cơ chưa tới để truyền pháp Trực Chỉ Nhân Tâm Kiến Tánh Thành Phật, Tổ đành bỏ đi về chùa Thiếu Lâm Tự vào hang đá ẩn 9 năm diện bích đợi thời cơ chín mùi. Ngài Huệ Khả ngồi thiền để tu hàng ngày lâu lắm rồi, sao mà tâm vẫn không được an, đi từ xứ này đến xứ nọ cầu thầy học đạo sao tu mấy tâm cũng không được an, đau khổ quá xá. Cơ duyên đã đến lên chùa Thiếu Lâm Tự gặp Tổ xin cầu pháp liền quỳ cả đêm ngoài trời tuyết lạnh buốt. Sáng sớm tổ nhìn ra hỏi cầu gì? Con xin cầu pháp an tâm, Tổ liền bảo đưa tâm ra ta an cho. Nhín một hồi lâu tìm tâm bất an hoài không có liền trả lời con tìm không được. Tổ liền bảo vậy ta đã an tâm cho ngươi rồi, ngài Huệ khả liền ngộ pháp trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. (chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật). Vì sao ngài Huệ Khả tu thiền mà tâm cứ bất an, vì bóng dáng của pháp trần cứ lưu đi lưu lại trong tâm bắt ngài luôn luôn nghỉ tưởng về chuyện của quá khứ, hiện tại, tương lai ngài cho đó là sự thật . Mà không ngờ đó là tâm vọng tưởng không thật. Tâm thực là tâm thanh tịnh vì lúc nào mình muốn cũng điều có và biểu hiện ngay.                                     Mọi pháp điều không sanh

                  Mọi pháp điều không diệt

                  Niếu hiểu rỏ như thế

                  Thì thấy chư Phật thường hiện diện

                  Có đi lại, sinh diệt gì đâu ? (!). " Tuệ Trung Thượng Sĩ thầy của Phật Hoàng Trần Nhân Tông ". 

Bài kệ Đức Phật bổn sư phó pháp và truyền y bát cho ngài Ca Diếp làm tổ đầu tiên:                

                   Pháp gốc pháp không pháp

               Pháp không pháp cũng pháp

               Nay khi trao không pháp

                   Mỗi pháp đâu từng pháp.

Mấy câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du cũng mang những triết lý sâu mầu hay của  đạo Phật như sau:

                           Vui xuân vui khắp phương trời

                    Buồn xuân cho người đang sầu tương tư.

                              Cảnh đâu mà lại đeo sầu

                       Người buồn thì cảnh có vui bao giờ.

Thiền sư Mãn Giác:

                      Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

                      Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Chớ bảo xuân tàn hoa rộng hết, hôm qua sân trước một cành mai. Ngài ngày nào cũng ăn tết hết, còn mình dại mình không biết, đợi một năm mới ăn tết 3 ngày thôi ít lắm,ít lắm.

                           Ở đời vui đạo tùy duyên

                      Đói thì ăn, mệt ngủ liền

                      Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

                      Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền. "thơ kệ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông"  là tối thượng thừa thiền, không còn dính 6 trần nữa. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Hằng sống với Phật tánh, Pháp tánh, Tăng tánh của mình. Tu vô tu tu, hành vô hành hành, chứng vô chứng chứng, quả vị thì vô hư vô thực.

Đức Phật thuyết pháp độ chúng sinh 49 năm dài ròng rã, tam tạng kinh điển còn để lại vô số kể. Nhưng Ngài dạy ta chưa từng nói một lời nào, vì Ngài không còn giử lời nào ở trong tâm nữa, nói xong rồi là quét sạch như quét bụi bặm. Phật Pháp chỉ dạy chân lý ví như ngón tay chỉ mặt trăng, hay chiếc bè dùng để qua sông, khi thấy mặt trăng và qua sông được rồi thì đừng đưa ngón tay lên hư không mãi hoài nữa mà bị tê liệt khổ cực trăm bề, đừng vát bè lên vai nữa nặng triểu lắm không thể đi xa được khổ lắm. Nói vậy thôi chưa thấy biết là phải học suốt đời nhiều kiếp đó, tại vì đức Phật không có gì hết nên Ngài không có gì để mất. Còn chúng ta đang có đủ thứ nên còn mất nhiều thứ và phải khổ đau. Ngài thành Phật rồi mà vẫn đi khất thực hàng ngày, chỉ trừ khi có vua chúa phật tử trai tăng cúng dường mới không đi. Địa vị của Ngài cao tột gấp cả trăm ngàn lần trước kia khi còn làm thái tử, trước đây Ngài đi giày của vua chúa, nhưng bây giờ các vua thế gian tôn Ngài Đức Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài muốn đi giày bằng vàng ngọc châu báu cũng có các vua quan cúng dường, muốn ở cung điện chùa chiền, tịnh xá, cao sang hơn gấp mấy lần hồi còn thái tử cũng được. Nhưng thật tuyệt vời Ngài không cần gì cả chỉ đi bằng đôi chân không suốt cả đời, có một cái bàn, hai cái ghế bằng tre trúc để tiếp vua quan và tứ chúng đến hỏi đạo. Khi nhập niết bàn thì về rừng Ta La Song Thọ một thành phố nhỏ hẹp yên bình, không cần ở đô thị và các thành phố lớn đồ sộ, Đức Phật từ có đủ thứ vật chất sang trọng vương giả muốn trở thành không có gì hết. Còn mình từ không mà muốn có đủ thứ nên khó giác ngộ giải thoát lắm. Phải cố giắng chuyển hóa và tỉnh thức thôi mới được, tất cả pháp điều bất định pháp, nhờ không cố định nên ai ai cũng chuyển hóa từ xấu trở thành tốt đẹp hơn được. Thân vô thường tâm cũng vô thường, nhờ vô thường nên sinh ra còn nhỏ dại bây giờ thành người khôn lớn, rồi già bệnh yếu xấu đi, đến lúc hết dùng được thay đổi thân khác đẹp khỏe hơn thật là vui, đừng sợ. Niếu không có vô thường thì làm sao chuyển hóa được, đâu có ai muốn sinh ra rồi thành em bé 2-3 tháng tuổi nằm ở trong nôi hành ba mẹ cho bú sữa và săn sóc hoài đâu, ai cũng muốn trưởng thành để đi cắp cua mà, vô thường là chân lý bất di bất dịch của Thường. Chân Thường là vô thường, chỉ luôn biến chuyển tùy duyên mà bất biến không mất hẳn. Riêng về kinh nghiệm bản thân tự thấy đi chùa hàng tuần cả mấy mươi năm đâu được học hành gì nhiều lắm đâu, chỉ bắt chước rập khuôn cầu nguyện theo nghi thức tụng niệm cầu xin Đức Phật ban ơn cứu khổ cho đó thôi. Đến nỗi bài tâm kinh Bát Nhã chỉ có 260 chữ chưa được hiểu vài ba câu, kinh Phổ Môn và kinh A Di Đà thì chỉ nghe giảng theo lối y kinh hiểu nghĩa đen trong kinh, làm hiểu oan thêm cho ba đời chư Phật nữa, đâu có giác ngộ giải thoát thêm chân lý gì được mà chỉ lọt vào vô sắc giới, ảo tưởng chờ đợi vào một thế giới khác. Cũng rất may mắng có duyên với phật pháp nhiều, nên gặp thầy hiền bạn tốt giới thiệu sách và các trang nhà phật pháp mới tự mò để học được. Nay xin mạn phép thành kính chia sẽ vài lời của cá nhân, vẫn biết rằng căn cơ trình độ mỗi người mỗi sai biệt khác nhau, chín người mười ý, mỗi người mỗi ý riêng mỗi mặt. Nhưng phật tánh đồng nhau, ai cũng có chất liệu khả năng tỉnh thức, giác ngộ giải thoát sanh tử đạt đến niết bàn, có thể chưa gặp được đại thừa liễu nghĩa kinh để có cơ hội chuyển hóa hết mê lầm đó thôi. Đức Phật bổn sư đã thọ ký cho tất cả chúng sanh rồi trong kinh Pháp Hoa, ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành. Không tin Phật bổn sư thì tin ai, đừng nên tự khinh mình và người khác mà thối thất bồ đề tâm, là cái tâm giác ngộ cao quý vượt khỏi vô minh mê lầm muôn thứ. Phật pháp mãn tự giáo thì thâm sâu mầu nhiệm khó nhận, nhưng vẫn có người đã có duyên với phật pháp nhiều đời ắt sẽ nhận được, bằng chứng có một số anh chị em phật tử An Bằng chúng ta cùng đồng cảm nhận chân lý cứu cánh đó, cá nhân NL đã tiếp xúc và gặp được quý vị đó.

Không thầy đố người làm nên ! Thật ra từ xưa đến nay, không có ai không học hành, tìm tòi nghiên cứu tư duy quán chiếu mọi việc hay chân lý mà hiểu biết được cả. Vậy muốn hiểu biết mọi thứ về vạn pháp nhân sinh của vũ trụ để giải thoát sanh tử thì phải tu học qua con đường Văn,Tư,Tu và Giới, Định,Tuệ mà thôi. Chắc không có con đường nào khác nữa đâu, phải nương vào Pháp Bảo kinh điển của đức Thế Tôn giảng dạy là trên hết như trong kinh Di Giáo đức Phật đã dạy, các con phải lấy trí tuệ của mình mồi vào đại trí tuệ phật pháp của Phật thắp đuốc lên mà đi để được giác ngộ giải thoát sanh tử.

Ngoài thế gian xã hội có các cấp tiểu học, trung học, đại học, cao học v.v. Thì giáo lý nhà Phật cũng có tiểu thừa, trung thừa, đại thừa. Các trường phật học cũng phải dạy từ sơ cấp, trung cấp đến cao cấp. Huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT cũng có nhiều cấp bậc tu học từ thấp lên cao. Chúng ta không có duyên được tu học qua các lớp kinh điển cao sâu làm sao biết đó là giáo lý: quyền pháp, thực pháp, tứ tất đàn, mười như thị, tiểu thừa, trung thừa, đại thừa, bán tự giáo, mãn tự giáo, kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa v.v.. Một điều lầm tưởng nhất của chúng ta từ trước đến nay, có thể mới biết giáo lý tiểu thừa hay bất liễu nghĩa kinh sơ cấp mà cho tột cùng rồi thành ra ỷ lại dậm chân tại chổ. Không thích học làm gì nữa đủ rồi, chắc chắn có Phật cứu sanh về cực lạc khỏe quá đi thôi, sao đức tin giống như các đạo khác thế, chỉ lo cầu xin cầu cứu, chú nguyện và ảo tưởng gởi tâm hồn vào một thế giới khác vô sắc, đạo Phật không phải tầm thường vậy đâu còn phải tiến lên học hành nhiều lắm. Vì Đức Phật dạy cực lạc tịnh độ có cùng khắp mọi nơi và tất cả pháp điều là phật pháp rất mầu nhiệm có trên trái đất quý báu này, trong các kinh đại thừa liễu nghĩa hay mô tả Ngài và hàng ngàn vạn đệ tử đã hưởng quả vô thượng niết bàn trên mặt đất này. Rất may mắng các bộ kinh cao sâu nhất của Đức Phật dạy đã được chư Tôn Đức giảng giải có trong các trang nhà điện tử của phật giáo. Vậy còn gì quý bằng nữa mà chừng chờ không tu học kẻo trể, tuổi từ 50 trở lên già bệnh chết đến không hẹn, thời gian cũng đã ngắn lại. việc tu học phải coi như ăn cơm uống nước làm việc hàng giờ, hàng ngày may ra mới chuyển hóa được vô minh sai lầm nhiều đời nhiều kiếp và giác ngộ giải thoát sanh tử. Niếu không chắc gì kiếp sau gặp được Pháp Bảo. 

Kinh điển của Đức Phật dạy là một gia tài vô cùng quý giá không có bất cứ thứ gì có thể so sánh được, vậy tại sao chúng ta không cùng nhau in ấn ra để phổ biến đến bà con phật tử ở hải ngoại, tại quê nhà cùng bốn phương phật tử để tu học và lưu lại cho thế hệ ngàn sau. Thật là một việc làm rất trọng đại cao quý vô cùng có đầy ý nghĩa. Đa số các chùa ở hải ngoại và VN không có kinh giảng giải chỉ có kinh để tụng táng thì làm sao mà hiểu được lời Đức Phật dạy, thành ra y kinh liễu nghĩa tam thế Phật oan lọt vào tam giới nặng nề hơn. Thái Tử Tất Đạt Đa ngày xưa tu hành quyết chí đi ra khỏi tam giới mới được thành Đức Phật Thế Tôn, còn ngày nay đa số đệ tử xuất gia tại gia rủ nhau vào tam giới là đi ngược chiều rồi làm sao hết vô minh mê lầm đủ thứ mà giác ngộ giải thoát sanh tử.

Tự tánh Di Đà, duy tâm tịnh độ. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc phật độ tịnh. Đạo tràng có cùng khắp mọi nơi, cõi cực lạc tịnh độ có khắp mười phương thế giới hãy vãng sanh từng ngày. Kính chúc chư liệt vị Phật tử hưởng được giác ngộ giải thoát của Phật pháp. Đạt được vui lớn niết bàn, đại lạc thường lạc, giờ nào ngày nào, tháng nào năm nào, đời nào kiếp nào, lúc nào cũng vui. (Những lời ghi lại bài Cực Lạc Tịnh Độ Có Cùng Khắp Nơi do Nguyên-Luật viết, nghe được từ CD, MP3, DVD, Youtube và trên các trang nhà kinh Phật của chư tôn thiện đức, thiền sư giảng dạy. Không phải do tự biết và tự đặt để viết ra, vì để bảo tồn sự lợi ích chân lý sáng ngời của Phật pháp xin quý vị niệm tình hoan hỷ cho niếu có gì làm phật lòng mình.   Kính thân chào tinh tấn !

(Nguyên-Luật, ngày 15 - tháng 12 năm - 2014.)

Ý kiến bạn đọc
12/03/201601:41
Khách
"Trích Kinh Pháp Bảo Đàn, Của Lục Tổ Huệ Năng dạy"
Quan Thứ sử lại hỏi: “Đệ tử thường thấy người xuất gia, tại gia niệm Phật A-di-đà, cầu sanh Tây phương. Xin Hòa thượng vì trừ chỗ nghi ngờ mà giảng cho việc có được sanh về nơi ấy hay không.”
Sư nói: “Sứ quân hãy lắng nghe Huệ Năng giảng giải việc ấy. Đức Thế Tôn nơi thành Xá-vệ thuyết việc sanh về Tây phương, Kinh nói rõ ràng đến đó không xa. Nếu theo cách nói về hình tướng, thì số dặm là qua mười muôn ức cõi, chính là nói mười điều ác ngăn trở trong thân người, nên nói là xa. Nói xa, là với những kẻ căn cơ thấp kém. Nói gần, là với những bậc thượng trí.
“Người có hai loại, pháp không hai đường. Mê, ngộ khác nhau, chỗ hiểu biết có mau, chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh Tây phương, người ngộ chỉ tự làm tâm tịnh. Cho nên Phật nói: ‘Tùy tâm mình tịnh, tức cõi Phật tịnh.’ Sứ quân! Người phương Đông, chỉ cần tâm tịnh tức là không có tội. Dù là người phương Tây Phương Đông là chỉ cõi Ta-bà này, phương Tây là chỉ cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà. mà tâm chẳng tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sanh phương Tây. Người phương Tây tạo tội, biết niệm Phật cầu sanh cõi nào? Người ngu chẳng hiểu tự tánh, không biết có cõi Tịnh độ trong thân, mới nguyện Đông, nguyện Tây. Người ngộ dù ở đâu cũng vậy. Cho nên Phật nói: ‘Tùy chỗ mình ở mà thường an vui.’ Sứ quân! Chỉ cần tâm thiện thì Tây phương chẳng xa. Nếu giữ hoài tâm bất thiện, niệm Phật cũng khó vãng sanh.
“Nay khuyên các vị thiện tri thức: Trước trừ mười điều ác, tức là qua được mười muôn cõi nước, trừ được mười sự ác chướng ngăn che. Mỗi niệm thường thấy tánh, thường làm chuyện công bằng, chánh trực, thì đến nơi như búng móng tay, liền thấy Phật Di-đà. Sứ quân! Chỉ cần làm mười điều lành, cần gì phải nguyện vãng sanh? Nếu tâm chẳng dứt mười điều ác, Phật nào đến rước? Nếu ngộ pháp Vô sanh Đốn giáo, thì thấy Tây phương ngay trong giây lát. Chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh, đường xa làm sao mà đến? Huệ Năng sẽ vì chư vị, dời Tây phương về trước mắt trong giây lát. Mọi người muốn thấy hay chăng?”
Mọi người đều đảnh lễ, bạch rằng: “Nếu tại đây được thấy, cần chi phải nguyện vãng sanh. Xin Hòa thượng từ bi hiện cõi Tây phương cho chúng tôi được thấy.”
Sư nói: “Này đại chúng! Người đời, sắc thân là thành quách, mắt, tai, mũi, lưỡi đều là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là cõi đất, tánh là vua. Vua ở trên đất tâm. Tánh còn thì vua còn, tánh đi thì vua mất. Tánh còn thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật do trong tánh khởi lên, đừng cầu tìm ở bên ngoài.
“Tự tánh ngu mê là chúng sanh, tự tánh giác ngộ là Phật. Từ bi là Quán Âm. Hỷ xả là Thế Chí. Thường tịnh tức Thích-ca. Bình trực là Di-đà. Tâm chấp ngã là núi Tu-di, tâm tà là biển cả. Phiền não là sóng cuộn. Độc hại là rồng dữ. Hư vọng là quỉ thần. Trần lao là cá trạnh. Tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.
“Các vị thiện tri thức! Thường làm mười điều lành thì thiên đường tự đến. Trừ tâm chấp ngã thì làm đổ núi Tu-di. Bỏ tâm tà thì biển cả khô cạn. Phiền não không còn thì sóng cuộn phải yên, độc hại quên đi thì cá, rồng phải diệt. Tự trong tâm địa là tánh giác Như Lai, phóng ánh đại quang minh, chiếu ra sáu cửa đều thanh tịnh, phá được các cõi trời Lục dục. Lục dục chư thiên: Sáu cảnh trời thuộc trong cõi Dục giới: Tứ thiên vương thiên, Đao-lỵ thiên (cũng gọi là Tam thập tam thiên), Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên. Tự tánh soi chiếu bên trong, ba độc Ba độc: tham, sân, si. liền trừ, các tội địa ngục đồng thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng rỡ chẳng khác Tây phương. Còn nếu không tu hành như vậy, làm sao tới được nơi đó?”
Đại chúng nghe giảng thuyết, rõ ràng thấy tánh, cùng nhau lễ bái, xưng tán, nguyện rằng: “Lành thay! Nguyện cho hết thảy chúng sanh nghe được pháp này đều tức thời tỏ ngộ.”
Sư nói: “Các vị thiện tri thức! Nếu muốn tu hành, tại gia cũng tu được, không nhất thiết phải đến ở chùa. Tại gia thường tu hành, như người phương Đông mà tâm thiện. Ở chùa chẳng tu hành, như người phương Tây mà tâm ác. Chỉ giữ tâm thanh tịnh, tức là tự tánh Tây phương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2013(Xem: 6159)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật. (Xin đọc phần đính kèm ở cuối bài, nói về 4 loại Tịnh độ)
16/09/2013(Xem: 10359)
Sáng dậy đọc xong cuốn Phật thuyết A Di Đà Kinh Yếu giải của đại sư Ngẫu Ích Trí Húc, được pháp sư Tịnh Không giảng thuật bỗng dâng lên nỗi cảm khái. Ngẫm lại, Phật giáo ngày nay đã đi sâu vào đời sống. Số lượng người đi chùa lễ Phật, quy y Tam bảo cũng nhiều. Xã hội ngày nay công việc bận rộn, người học Phật đa phần tu theo pháp môn Tịnh độ, đơn giản vì nó giản dị, dễ tu, hơn nữa cũng không có thời gian tham Thiền hay tu các môn khác. Tổ Vĩnh Minh có nói: “Tịnh độ vạn người tu, vạn người vãng sinh”.
14/09/2013(Xem: 7172)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
11/09/2013(Xem: 6214)
Các bậc tổ sư thường dạy đồ chúng cách tâm niệm để làm phương châm hành trì. Xin Sư ông cho chúng con một lời khuyên dưới hình thức một lời tâm niệm? Người xưa thường nói: “Sanh tử sự đại” nhưng mình đã quen sống trong sanh tử, ai cũng vậy hết, nên không thấy quan trọng. Kỳ thật, lấy mắt đạo mà nhìn vào thì đó là việc lớn của mọi người, của chúng sanh. Đã lăn lóc mãi trong nhiều đời, hiện tại nếu không cố gắng thì những đời sau cũng vẫn lẩn quẩn trong vũng lầy sanh tử mà thôi.
07/09/2013(Xem: 5200)
“Nếu như ngày xưa Đức Phật chỉ bày duy nhất một pháp môn thôi, ví dụ một là thiền, hai là tịnh, ba là mật…hoặc là Pháp Hoa tông, Luật tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông… thì giờ tốt biết mấy. Vì con thấy không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở Nhật Bản, Trung Hoa hay tất cả các nước tu học theo tinh thần Phật giáo thì thường có những xung đột, dù không có gì là lớn lắm giữa các Phật tử theo các tông phái khác nhau”. Tôi có trả lời rằng: “Dù cho mình có trí tuệ đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới như Ngài Xá Lợi Phất thì cũng không bằng Đức Phật. Đức Phật thấy suốt, biết hết nên Ngài mới tùy căn cơ của chúng sinh mà bày ra các phương tiện khác nhau”
01/09/2013(Xem: 8969)
Hôm nay, tôi sẽ nói đề tài: "Chỗ gặp gỡ và chỗ không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông". Phật giáo Việt Nam chúng ta có chia ra nhiều tông phái, nhưng xét kỹ thì có ba tông chính: Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567