Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật Và Giáo Dục

30/12/201005:13(Xem: 5422)
Đạo Phật Và Giáo Dục
labode_7ĐẠO PHẬT VÀ GIÁO DỤC
Buddhism in education

Tác giả: Ed Halliwell, guardian.co.uk, Friday 9 July 2010 14.00 BST
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển, 17/11/2010

Thiền tập Phật Giáo là cần thiết trong trường học do những lợi ích thiết thực của nó. Nhưng có những gì hơn thế ấy.

Khi tín ngưỡng trong trường học từ mọi truyền thống tiếp tục chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu, thì quan điểm của một nền giáo dục đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải nhiều. Những sự thực tập căn bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái lại đang bắt đầu đạt được sự thúc đầy. Tuần rồi, Goldie Hawn[1]đã vui mừng hăng hái về việc Anh Quốc bắt đầu chương trình thiền quán trong trường học của mình, trong khi trên một mức độ thấp hơn, giáo trình chính niệmđã được giới thiệu trong một số học viện tư thục - – Wellington College và Tonbridge School ở trong số ấy. Cũng có những khởi đầu giới thiệu thiền tập trong lĩnh vực quốc gia, dưới sự hướng dẫn của những nhà tâm lý học như Mark Williams ở Oxford.

Như được nói rằng Đạo Phật hình thành ở phương Tây như một môn tâm lý học hơn là một tôn giáo, và điều này dường như là trường hợp ở đây – nhiều người giới thiệu thiền tập ở trường học không minh định [hay nhân danh] như những Phật tử. Và nhân tố căn bản đã chủ yếu là khoa học – bên cạnh những lợi ích khác, thiền tập đã được cho thấy để bồi dưỡng kỷ năng chú ý, giảm thiểu xung đột, và gia tăng thái độ hợp tác xã hội cũng như khả năng liên hệ (trong thiếu nhi và người lớn), và bảo hộ việc chống lại băn khoăn và chán nản.

Những sự thực tập được trình bày trong phong cách tích cực này là khéo léo – viễn tượng dạy dỗ thiếu nhi chú tâmvượt xa sự hấp dẫn của những nhà giáo dục bừng lên một thoáng như đề nghị, như là phong trào hippie, mà thiền tập sẽ liên kết người ta đến một sự thấu hiểu trãi nghiệm sâu xa. Có phải cả hai điều này thật sự khác nhau? Một sự thông hiểu trãi nghiệm sâu xa hơn không có nghĩa là sự nối kết với một thể trạng trần gian khác khơi mở những bí mật của vũ trụ - trong phạm vi của thiền tập, sự thông hiểu nàycó vẻ liên hệ đến việc phát triển một sự khám phá bây giờ và ở đây của tư tưởng, những cảm nhận và những sự kiện, và việc nhận ra chúng liên kết hổ tương như thế nào để tạo nên nhận thức của chúng ta về thế giới.

Khả dĩ của việc trình bày thiền quán đơn thuần trong dạng thức “ở đây là những gì chúng ta thoát khỏi” (giải thoát) là điều có thể đi đến việc dường giống như một kỷ năng cho việc tự trau dồi, hay tự kiểm soát, khi thật sự nó là về ‘việc để tự ngã ra đi’(vô ngã), một sự tảng lờ đến việc mà từ đấy một sự thông hiểu mới có thể bùng phát. Hơn là cung ứng một hứa hẹn cho sự cải thiện, hay một sự bảo đảm sai lạc căn cứ trên tín ngưỡng, thì thiền quán có thể là một phương cách của giáo huấn hồ nghi – một điều không chắc chắn khởi đầu lại có thể là một nội dung hữu ích cho học tập. Bằng việc tiếp nhận một nhận thức khác biệt về kinh nghiệm – nhìn nó, quán xét nó một cách chính niệm trong một lúc, hơn là vùi đầu trong học hỏi, chúng ta có thể trở nên quen thuộc hơn đến những thái độ của chúng ta định hình thế giới như thế nào, và cung cách chúng ta thấy mọi sự, mọi vật như thế nào mà không phải là phong cách chúng nhất thiết là [như thế].

Đây hoàn toàn không phải là chủ nghĩa hoài nghi mà Richard Dawkins đã đề nghị, mà có thể là một bộ phận chủ yếu của một loại trường học vô thần [2] – như Andrew Brown đã từng chỉ ra, tiền đề không được nói ra ở đấy là sự nghi ngờ được dạy phù hợp với một hệ thống luật lệ được ban bố, với những ý tưởng nghi ngờ ẩn tàng mà chúng không thể chứng minh được - tối thiểu là bây giờ. Thay vì thế, sẽ căn bản hơn – một phương pháp cho việc trở thành sống động hơn đến sự trãi nghiệm thay đổi liên tục (thông minh, cảm xúc, cảm giác thân thể, nhận thức sự kiện), và việc phát triển một sự thông hiểu đã đáp ứng đến một nhân tố (hay một thời khắc), khi bộ phận nắm toàn quyền sự thật để tập trung và phán xét trong một cung cách làm giới hạn cái nhìn của chúng ta.

Nó là loại tuệ trí mà Socrates đã nói đến khi ông nói là trong khi ông không biết gì, ông đã biết “điều gì đấy” từ việc không biết gì. Một cách tương tự, bằng việc khảo sát trong một phương tiện thiền quán, chúng ta có thể tiếp cận hơi gần gũi hơn để nhận ra những định kiến làm phiền toái chúng ta như thế nào. Đấy là một sự tiếp cận mà có thể không chỉ có nghĩa là ít chiến đấu hơn trên sàn đấu, nhưng là sự trãi rộng lòng khiêm cung củng cố cho sự tìm kiếm tiếp tục cho những trả lời – chúng ta có thể chấp nhận rằng đấy là một cuộc chiến đấu ngay cả hình thành những câu hỏi thật tuyệt hảo.

Sẽ không có bất cứ điều gì rõ ràng hay riêng biệt Phật Giáo về một nền giáo dục, và cũng không nên có (như sư Ajan Amaro[3] nói: “Nếu quý vị nghĩ quý vị là Phật tử, quý vị hoàn toàn lạc lõng!”). Nhưng sẽ vinh danh tâm linh của sự thẩm tra cởi mở, hiện thân hoàn toàn mà truyền thống Phật Giáo có thể cống hiến trong khả năng tuyệt vời nhất.


[1] Goldie Hawn:là một nữ minh tinh điện ảnh Hoa Kỳ, sinh ngày 21/11/1945. Bà tìm đến với triết lý Đông phương năm 1972. Là một người thực hành Đạo Phật và đã nuôi hai con, một gái một trai trong cả truyền thống Phật Giáo và Do Thái. Bà thành lập và tài trợ cho Tổ Chức Hawn, một tổ chức dạy kỷ năng thực tập chính niệm; tổ chức cho những học sinh từ lớp bốn đến lớp bảy được hướng dẫn thực tập chính niệm và những kỷ năng suy nghĩ tích cực, sau đó thử nghiệm những sự thay đổi trong thái độ, năng lực xã hội và cảm xúc, và sự phát triển đạo đức. Một nghiên cứu cho thấy rằng thiếu niên tham gia chương trình gia tăng một cách nổi bật trong lĩnh vực lạc quan, và những cảm xúc tích cực. Hawn đã từng thương thảo với Đảng Bảo Thủ để thiết lập một trường học ở Anh Quốc áp dụng giáo trình Chính niệm. Bà nhận thức rằng nhiều bậc cha mẹ chống đối việc đem những phương pháp Phật Giáo vào những trường công cộng, và mới đây đã tuyên bố trong tạp chí Greater Good rằng, “Luôn luôn có những người sợ hãi điều này, hay một loại triết lý Đông phương nào đấy mà họ không muốn con cái họ tiếp nhận.” Và bà nói thêm, “Chính niệm ban cho thiếu niên một khí cụ để thông hiểu não bộ chúng hoạt động như thế nào, để có thêm sự tự kiểm soát.”

[2] Atheist:Có lẻ phải phân biệt hai loại vô thần: Vô Thần Duy Vật và Vô Thần Duy Tâm. Vì Đạo Phật bác bỏ một đấng tạo hóa tạo ra muôn loài nên Đạo Phật là vô thần, nhưng Đạo Phật với quan điểm nhất thiết duy tâm tạo,nên Đạo Phật là Vô Thần Duy Tâm. Đương nhiên đối với Vô Thần Duy Vật: không tin có Thượng Đế, không tin có thế giới tâm linh, thế giới vô hình, cũng như không có thần thánh. Nhưng thuật ngữ “atheist” tức là ‘không có đấng tạo hóa tạo’ khi dịch là “vô thần” thường bị hiểu lầm là không có thần thánh đối với Vô Thần Duy Tâm, trái lại Mười Pháp Giới của Đạo Phật, từ chư Phật - Bồ tát -Thinh văn - Duyên Giác - cõi thiên, có đến 33 tầng trời - cõi A tu la, một loại bán thiên - cõi người - cõi súc sinh - đến cõi ngạ quỹ và địa ngục là không thể thấy bằng mắt của phàm nhân. Nam Mô Hộ Giáo Hộ Giới Già Lam Thánh Chúng Liệt Vị Thiện ThầnBồ tát.

[3]Ajahn Amaro(tên thật là Jeremy Horner, sinh năm 1956 tại Kent, Anh quốc) là một giáo thọ Theravada và đồng viện chủ tu viện the Abhayagiri Buddhist Monasterytại California's Redwood Valley. Trung tâm thực tập theo truyền thống Thiền Lâm Thái Lan (Thai Forest Tradition).

http://www.guardian.co.uk/commentisfree/belief/2010/jul/09/buddhism-schools

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4588)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5618)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5274)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9253)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4442)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3450)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6223)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6816)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10473)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567