Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý Nghĩa Nhẫn Nhục Của Đạo Phật

29/12/201009:26(Xem: 4546)
Ý Nghĩa Nhẫn Nhục Của Đạo Phật
Ý NGHĨA NHẪN NHỤC CỦA ĐẠO PHẬT
Thích Minh Hoàng

Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. Bằng trí tuệ siêu việt của bậc giác ngộ đã khai thị cho chúng ta thấy được muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian này đều là mộng ảo hư huyễn giả tạm, như bọt sóng, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp, tạm bợ vô thường không tồn tại lâu dài, vật lớn như sơn hà đại địa cho đến thân mạng cũng đều như vậy, tất cả đều phải tuân theo một qui luật chung là Thành Trụ Hoại Không hay Sanh Trụ Dị Diệt. Đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, không đáng để tham luyến khổ đau.

Đức Phật đã nêu lên tri kiến tổng quát về nhân sinh và vũ trụ, để chúng ta nhận thức phá trừ kiến chấp về ngã và pháp. Vì chúng sanh vô minh mê muội nên không nhận thức được điều này, mãi chạy theo ngũ dục, lục trần… khởi lên vọng tưởng mê lầm tạo tác vô số nghiệp ác bất thiện, phải chịu luân hồi sanh tử trong tam giới lục đạo, và nếu cứ mãi lầm chấp như thế thì chúng ta sẽ sống mãi trong dục vọng khổ đau, thân tâm không một phút giây sống trong an lạc tự tại, đời sống luôn vội vã bức bách, đau khổ phiền muộn sẽ trói buộc dẫn dắt chúng ta đến cảnh giới tương ưng với những nghiệp ác bất thiện đã gây tạo.

Kinh Pháp Hoa Đức Phật đã khai thị rằng: “Tam giới bất an du như hỏa trạch”, xét cho cùng thì sẽ rõ, thế giới chúng ta đang sống đây thật vô thường, biến đổi không ngừng, còn chúng sanh thì sống trong sự tranh chấp hận thù, luôn khởi lên tham sân si. Theo Phật Giáo đây là do nghiệp thức của chúng sanh chiêu cảm nên thế giới hay cảnh giới, vì vậy chúng sanh phải sống trong điều kiện và hoàn cảnh sống luôn bất an, gặp nhiều nghịch cảnh phiền não cho thân tâm.

Là một Phật tử khi đã nhận thức được điều này rồi, vậy chúng ta hãy phát khởi tín tâm nghe theo lời Phật dạy quán sát thế giới, tu tập thân tâm, có như vậy đời sống hiện tại mới an lạc tự tại, tương lai hy vọng sẽ sanh về cảnh giới tốt đẹp hơn, hoặc cuộc sống sẽ có những điều kiện nhơn duyên thù thắng hơn. Một khi đã nhận thức được thế giới rồi chúng ta sẽ không than oán trời đất, khi đã nhận diện được thân tâm chúng ta không tạo tác ác nghiệp nữa, lúc ấy chúng ta cũng như tất cả chúng sanh sẽ sống trong cảnh thanh bình, kiến lập cõi Tịnh Độ ngay tại nhân gian. Vậy ngay từ bây giờ trong cuộc sống hiện tại chúng ta hãy phát tâm tu tập một trong những phương pháp thù thắng mà Đức Phật đã dạy đó là hạnh Nhẫn Nhục.

Theo cách nghĩ thông thường của thế gian thì Nhẫn Nhục là nhẫn nhịn, nhẫn nại, chịu đựng, nhịn nhục, cam chịu…đối với những nghịch cảnh, những điều bất như ý, để cầu được yên thân, tránh những thiệt thòi cho bản thân, vì thế cô sức yếu, hoặc nhẫn nhịn chịu đựng lòn cúi để có được danh vọng địa vị trong cuộc sống, hoặc vì sự sống nên phải nhịn nhục.v.v… Nhẫn nhục theo những cách trên chỉ để mong đạt được ý đồ của mình, luôn ấp ủ oán hận, chất chứa phiền não trong lòng, đợi đến lúc có cơ hội chúng ta sẽ trả thù. Như vậy không có được an lạc tự tại, không có lợi cho mình và tha nhân, vì vậy thế gian có câu: “Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh, thoái nhất bộ hải nhuận thiên không”.

Vậy theo Phật Giáo như thế nào là Nhẫn Nhục? Nhẫn Nhục tiếng Phạm gọi là Ksanti, dịch âm là Sạn Đề. Nghĩa là nhận lãnh mọi sự khinh khi, nhục mạ, não hại mà không giận tức. Theo Phật Giáo Nhẫn Nhục đúng chánh pháp là dứt sự tranh cãi tức giận, đem tình thương và trí tuệ cảm hóa người khác mà không phải dùng đến bạo lực. Kinh Tứ Thập Nhị Chương có thuật rằng: “Đức Phật dạy: có người nghe ta giữ đạo, thật hành lòng đại nhân từ, nên đến mắng ta, ta làm thinh không đáp. Người kia thôi mắng, Đức Phật hỏi rằng: ông đem lễ vật cho người, người ta không nhận, lễ ấy có về ông chăng? người kia đáp: về chứ! Đức Phật nói rằng: nay ông mắng ta, giờ ta không nhận thì ông tự chuốc lấy họa về thân ông rồi, cũng như ‘vang theo tiếng, bóng theo hình’ hẳn không thể rời nhau. Vậy thì cẩn thận chớ có làm ác”.

Theo Kinh Duy Ma Cật thì Nhẫn Nhục là Tịnh Độ của Bồ tát. Bồ tát khi thành Phật đủ 32 tướng tốt trang nghiêm đều do tu hạnh Nhẫn Nhục. Vì Nhẫn Nhục sẽ làm cho nhan sắc diệu hòa, dung mạo đoan chánh, do đó mà được quả báo thân tướng tốt đẹp. Hơn nữa Nhẫn Nhục là một pháp trong sáu pháp Ba la mật thành tựu Bồ tát đạo, như ngài Địa Tạng, ngài Quán Âm, ngài Văn Thù, ngài Phổ Hiền, ngài A Nan.v.v…các Ngài vì thành tựu Nhẫn Nhục Ba la mật nên phát đại nguyện tế độ chúng sanh không cùng tận.

Là một Phật tử việc cần tu tập đầu tiên phải nhẫn nhục đối với hoàn cảnh môi trường sống của chúng ta, hãy chế phục ham muốn của chính mình để mình và chúng sanh có đời sống tự tại an lạc. Trong thế giới hiện tại các nhà khoa học, các nhà chức trách đang cố gắng bằng nhiều cách kêu gọi con người hãy ý thức về suy nghĩ, hành động của mình để hạn chế những tai họa của thiên nhiên đang tác động hủy hoại hoàn cảnh môi trường sống của chính chúng ta, chỉ vì chúng ta sống chiều theo ham muốn và tham dục của bản thân, mặc sức giết hại và tàn phá cuộc sống của muôn loài. Chính hành động của chúng ta làm thay đổi hoàn cảnh, môi trường tự nhiên, nếu những thảm họa xảy đến với cuộc sống chúng ta thì cũng là một qui luật tất yếu đó là nhân quả hiện tại của chính chúng ta tạo ra, vậy hãy đón nhận chớ đừng than oán.

Kinh Bát Đại Nhân Giác Phật dạy: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ” nghĩa là: Cõi thế gian này là vô thường, các quốc độ thì mong manh. Tứ đại đều là khổ không, năm ấm đều là vô ngã, các thứ ấy luôn sanh diệt biến đổi, giả dối không có gì làm tự chủ”. Ở đây Đức Phật đã khai thị cho chúng ta liễu ngộ được thế gian hay nói khác là hoàn cảnh vô thường, tạm bợ biến chuyển trong khoảnh khắc tùy thuộc vào sự tụ tán của các duyên như tứ đại, ngũ ấm.

Suy cho cùng đó cũng chính là nghiệp thức chúng sanh chiêu cảm nên cảnh giới tương ưng mà thôi, vậy chúng ta phải cam chịu nhận lãnh sự khắc nghiệt của hoàn cảnh do nghiệp lực trong quá khứ chiêu cảm nên thế giới hiện tại chúng ta đang sống đây. Muốn cải thiện hoàn cảnh ngay bây giờ chúng ta phải phát tâm tu tập cải thiện tự tâm, tương lai mới hy vọng một hoàn cảnh sống tốt đẹp, an lạc bình yên, tức là y báo tương ưng với chánh báo vậy.

Tự thân mỗi chúng ta cần tu tập Nhẫn Nhục đối với tha nhân, tức là cách ứng xử đối đãi của chúng ta với mọi người trong cuộc sống hằng ngày, từ gia đình cho đến xã hội. Trong cuộc sống hãy mở rộng lòng mình biết yêu thương và thông cảm tha thứ cho những lỗi lầm sai trái của người khác, nếu bị mắng chửi nhục mạ, thậm chí bị đánh đập…hãy học theo hạnh nhẫn nhục của Đức Phật đem tình thương để cảm hóa, đừng oán trách thù hận không hóa giải được sân hận, nhiều khi còn thiệt đến thân thể tính mạng, mà oán kết chất chồng, oan trái nhiều đời nhiều kiếp với sau.

Hơn nữa sân hận giận dữ làm cho người ta mất hết lý trí, dẫn đến những hành động sai trái, thân tâm không tự chủ. Để khỏi tiếc nuối ân hận về những hành động, suy nghĩ của mình gây tạo trong lúc giận dữ, chúng ta hãy phát tâm tu hạnh Nhẫn Nhục để chế phục thân tâm, được như vậy thì cuộc sống hiện tại an vui, tương lai không còn oán kết thù hận, như Đức Phật đã từng hàng phục chàng Vô Não, hàng phục voi say…chỉ bằng lòng từ bi và trí tuệ. Đức Phật xem Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức vì giúp Đức Phật tu tập hạnh Nhẫn Nhục để thành tựu Phật quả.

Nếu trong cuộc sống phải đón nhận những phiền não giận tức của người khác gây ra với mình, là Phật tử hãy quán niệm rằng đây là nghiệp báo của chúng ta đã tạo tác trong quá khứ, hãy nhẫn nhục và tha thứ không oán hận, để hóa giải phiền não và hận thù. Hãy luôn nhớ lời Đức Phật dạy rằng: “lấy ân báo oán, oán nọ tiêu tan, lấy oán báo oán, oán kia chồng chất”. Được như vậy thì hiện tại chúng ta ngăn chặn cơn nóng giận, dứt sự tranh cãi, cảm hóa lỗi lầm sai trái của tha nhân, giải tỏa oán kết trong tương lai.

Điều tu tập hạnh Nhẫn Nhục khó nhất là Nhẫn Nhục với tự thân của chúng ta, nói cách khác là chúng ta tu tập nhẫn nhục đối với 3 nghiệp là: Thân nhẫn, Khẩu nhẫn, Ý nhẫn, tức là phải tu tập theo Thập Thiện Nghiệp Đạo: Thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Khẩu không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không nói lời ác. Ý không tham dục, không sân hận, không si mê tà kiến.

Đối với Đạo Phật muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian không phải ngẫu nhiên mà có, cũng không phải do những bậc thánh thần có quyền năng phép thuật tạo nên, tất cả đều do nghiệp thức thiện hay bất thiện của chúng sanh chiêu cảm nên mà thôi. Như vậy cuộc sống chúng ta khổ đau hay tự tại, địa ngục hay thiên đường đều do chính nghiệp lực thiện hay ác quyết định cho tương lai của chúng ta mà thôi. Thế nên trong Qui Sơn Cảnh Sách có chép rằng: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhơn duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ” Nghĩa là: dù trãi trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo tác chẳng mất, nhơn duyên khi hội đủ, quả báo tự mình chịu.

Như thế nào là Thân nhẫn? tức là phải chế phục bản thân không chìu theo những ham muốn dục vọng, chỉ vì thỏa mãn cho sự ăn uống hoặc vì giận tức oán hận, chúng ta đã giết hại mạng sống muôn loài. Trong Kinh Luật dạy rằng trên từ Phật, Thánh nhân, Sư Tăng, Cha Mẹ cho đến loài nhỏ như côn trùng, tự mình giết, sai sử người giết, thấy người giết mà tùy hỷ đều là tội sát sanh. Tất cả hữu tình chúng sanh đều có sinh mạng tham sống sợ chết, vì vậy không được cố ý giết. Theo kinh Thập Thiện Đức Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do đó có sự luân chuyển trong các cõi”.

Chỉ vì chúng ta có trí khôn và sức mạnh hơn muôn loài, nên chúng ta mặc tình giết hại muôn loài để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân, không chút thương xót, hoặc nếu vì sân hận giết chết mạng sống người khác thì chúng ta sẽ ít nhiều hối hận ăn năn, hoặc phải lẫn trốn sự trừng phạt của pháp luật, vậy để tránh sự hối tiếc cũng như quả báo trong hiện tại và tương lai, chúng ta hãy tu tập hạnh Nhẫn Nhục để chế phục thân không sát sanh.

Trong đời sống chúng ta ít nhất cũng có một đôi lần trải qua cảm giác mất của vì bị trộm cắp, vậy không nên có tâm tham trộm cắp của người dù là vật nhỏ nhặt như cây kim ngọn cỏ, cho nên cổ nhân thường nói: “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”. Nếu vì lòng tham dùng sức mạnh cướp bóc của người, hoặc trộm lén của người, hoặc bày phương kế xảo trá lừa gạt mà lấy của người cho đến vô công ngồi hưởng, tất cả đều thuộc về trộm cắp. Quả báo của trộm cắp là mất lòng tin với mọi người, bị người khinh thường xa lánh, nếu tội nặng sẽ dẫn đến tù tội. Là Phật tử hãy tu tập quán niệm tất cả của cải vật chất đều tạm bợ không bền vững, khi tâm tham khởi lên hãy nhớ lời Phật dạy tu tập nhẫn nhục chế phục tham tâm.

Chúng ta ai cũng muốn có cuộc sống gia đình yên bình hạnh phúc, ai cũng muốn bảo vệ giữ gìn hạnh phúc gia đình mình, vậy hãy suy bụng ta ra bụng người, hãy sống cuộc sống chung thủy vợ chồng, tự kềm chế bản thân, không chìu theo ham muốn dục vọng, xâm phạm chia cắt tình cảm hạnh phúc người khác. Hiện tại tránh được tiếng xấu và sự đánh đập ghen tuông, cuộc sống bình yên hạnh phúc không bị người khác xâm phạm chia cắt. Hãy tu tập nhẫn nhục chế phục dục vọng của bản thân để có cuộc sống an lạc tự tại.

Khi tu tập Nhẫn nhục chế phục thân không phạm sát sanh, trộm cắp, tà dâm thì hiện đời được cuộc sống an vui tự tại, mọi người kính tin tôn trọng, tương lai được quả báo tốt đẹp. Vậy chúng ta hãy sống theo lời Phật dạy thường quán niệm rằng: thân tứ đại nhơn duyên giả hợp, luật vô thường công lệ xưa nay, nương huyễn thân sống tạm ở đời, nhơn duyên mãn trở về quê cũ.

Thế nào là Khẩu nhẫn? nghĩa là tu tập chế phục khẩu nghiệp tránh những điều khen chê là nguyên nhân dẫn đến thị phi tranh cãi, phát khởi tâm sân hận bất hòa trong cuộc sống hiện tại. Khẩu nghiệp có 4 đó là: 1. Nói dối (vọng ngôn) tức là phải nói trái, trái nói phải, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, biết nói không biết, không biết nói biết, tốt nói xấu, xấu nói tốt…nghĩa là lời nói dối trá không thật, gây cho người khác hoang mang lo sợ. Trong Phật Giáo có tội đại vọng ngữ đó là tu hành chưa được nói là được, chưa tu chứng mà nói là tu chứng, nếu ai phạm tội này sẽ sa vào tà đạo đọa lạc tam đồ rất nguy hiểm. Vậy hãy tu tập nói lời chân thật phát xuất từ lòng từ bi mang lợi ích cho mọi người.

2. Nói thêu dệt (ỷ ngữ) nghĩa là dùng lời nói hoa mỹ trau chuốt phù phiếm không thật, khiến người khác phải thay đổi tâm ý, dẫn đến cuồng tâm đãng trí, mộng tưởng tà bậy…là Phật tử hãy tu tập nói lời chân thật đúng đắn phát xuất từ lòng từ bi, có lợi cho mình và người.

3. Nói 2 lưỡi (lưỡng thiệt) nghĩa là nói lời ly gián, đến người này nói chuyện phải trái tốt xấu của người kia, đến người kia nói chuyện phải trái tốt xấu của người này, gây mâu thuẩn chia rẻ tình cảm bà con bạn bè, dẫn đến tranh cãi hận thù…là lời nói không lợi ích, mất niềm tin với mọi người. chúng ta cần tu tập nói lời chân thật để mọi người tin cậy kết làm quyến thuộc với nhau.

4. Nói lời thô ác (ác khẩu) nghĩa là nói lời thô tục mắng nhiếc trù rủa người khác, nói những lời độc ác khiến người khác xấu hổ nhục nhã, đây là do tâm sân hận dẫn đến sự xa lánh của mọi người. Hãy tu tập nói lời dịu dàng dễ nghe để thu phục cảm hóa mọi người, như vậy thành tựu pháp tu Ái Ngữ trong Tứ Nhiếp Pháp mà Đức Phật đã dạy.

Nếu ai tu tập Khẩu nhẫn tức là không nói theo 4 cách nói sai trái trên, thành tựu khẩu thanh tịnh, lời nói được mọi người tin cậy ưa thích nghe, nói lời lợi ích mang đến sự hoan hỷ an lạc cho mọi người, được mọi người kính tin tôn trọng, cũng thành tựu một trong sáu phép hòa kính đó là khẩu hòa vô tranh.

Trong 3 nghiệp thì Ý nghiệp là quan trọng hơn hết, bởi vì thân và khẩu nghiệp tạo tác thiện ác là do ý nghiệp điều khiển làm chủ, nếu ý nghiệp thiện (suy nghĩ điều thiện) thì thân thiện nghiệp, nếu ý nghiệp bất thiện (suy nghĩ bất thiện) thì thân tạo tác bất thiện nghiệp. Đối với khẩu nghiệp cũng như vậy. Thế nên chúng ta cần phải tu tập Ý Nhẫn, tức là chế phục ý nghiệp không để ý khởi lên niệm ác là Tham Sân Si (còn gọi là Tam Độc), thường quán niệm các pháp là vô thường, khổ không, vô ngã, không để ý thức chạy đam mê ngũ dục, dẫn dắt thân khẩu tạo nghiệp bất thiện. Kinh Pháp Cú Phật dạy rằng: “chớ làm các điều ác, hãy làm các việc lành, giữ tâm ý thanh tịnh, là lời chư Phật dạy”.

Để có được an lạc tự tại ngay trong cuộc sống hiện tại, là Phật tử chúng ta hãy phát tâm tu học Phật Pháp, chế ngự điều phục tam nghiệp thân khẩu ý, ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống hằng ngày. Với tri kiến của Đạo Phật thì mạng sống của chúng ta cũng như tất cả chúng sanh vô thường tạm bợ mong manh. Qui Sơn Cảnh Sách có chép rằng: “vô thường lão bệnh bất dữ nhơn kỳ, triêu tồn tịch vong, sát na dị thế” nghĩa là vô thường già bịnh chẳng hẹn cùng người, sớm còn tối mất, bỗng chốc đã qua đời khác. Vậy ngay bây giờ hãy phát tâm tu tập để hưởng được pháp vị giải thoát ngay trong đời sống hiện tại.

Bằng sự tu tập và kiến thức học Phật, chúng tôi xin mạo muội trình bày những hiểu biết và suy nghĩ của mình với tâm nguyện góp phần xiển dương Phật Pháp, khơi dậy niềm tin của Phật tử tại gia kính tin Tam Bảo, phát tâm tu tập hộ trì Phật Pháp, tự lợi lợi tha. Chúng tôi xin nguyện quảng kết thiện duyên, hằng làm quyến thuộc với mọi người, nhiều kiếp trong tương lai được trùng phùng và tu học Phật Pháp.

Một khi mất thân người rồi thì muôn kiếp khó có lại được!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5887)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6080)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6877)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5905)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6620)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 8008)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7119)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6400)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7220)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6071)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567