Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Lời Dạy Của Đại Sư Garchen Rinpoche

18/11/201019:01(Xem: 8184)
Những Lời Dạy Của Đại Sư Garchen Rinpoche

NHỮNG LỜI DẠY CỦA ĐẠI SƯ GARCHEN RINPOCHE
Nguyên tác: H.E. Garchen Rinpoche’s Advices - Việt dịch: Thanh Liên

Garchen Rinpoche với Kinh Luân luôn luôn ở trên tay

Ngày 20 tháng Giêng Các Đạo hữu thân mến,

Tôi vừa từ Kuala Lumpur trở về Singapore tối nay. Tôi đã tới đó để dự một lễ Mani Puja trong 5 ngày do Trung tâm Phật giáo Ratnashri Malaysia tổ chức. Đây là trung tâm thuộc Dòng Truyền thừa Drikung Kagyu và có nối kết mật thiết với Đạo sư Drubwang Konchok Norbu Rinpoche. (1)

Trong khóa nhập thất này, tôi đã cố gắng để được gặp riêng Đại sư Garchen Rinpoche. Rinpoche đã xác nhận rằng Khóa Nhập thất hàng năm Trì tụng 100 Triệu Thần chú Mani được tiếp tục để làm lợi lạc tất cả những bà mẹ chúng sinh chính là ước nguyện vĩ đại nhất của Đạo sư Drubwang Rinpoche. Rinpoche khuyên rằng chúng ta có thể thành tâm thỉnh cầu Tu viện KMSPKS (Tu viện Kong Meng San Phor Kark See tại Singapore) tiếp tục khóa nhập thất bởi điều này cũng làm lợi lạc cho Tu viện. Rinpoche cũng đề cập rằng các Đạo sư Tâm linh Drikung Kagyu sẽ luôn luôn hết sức quan tâm tới Khóa Nhập Thất Mani bởi nó rất lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

Rinpoche khuyên rằng mỗi ngày chúng ta phải cố gắng trì tụng thần chú Mani càng nhiều càng tốt với lòng từ và bi cho tất cả chúng sinh, và nỗ lực thực hành 37 Giới nguyện Bồ Tát bằng cách liên tục chánh niệm về mọi ý hướng và hành động của ta để bảo đảm rằng chúng thanh tịnh và phù hợp với công hạnh của chư vị Bồ Tát. Theo cách này, những gia hộ của Đạo sư Drubwang Rinpoche sẽ luôn luôn hiện diện với chúng ta. Rinpoche nói rằng việc có tư tưởng vị tha và thiện ý đặt người khác ở trước bản thân ta thì vô cùng cần thiết và Rinpoche nói rằng chẳng hề gì nếu ta có thể thực sự giúp đỡ người khác chừng nào mà ta muốn và làm hết sức mình.

DrubwangKonchokNorbuRinpoche
Drubwang Konchok Norbu Rinpoche

Rinpoche khuyên rằng chúng ta phải tiếp tục tụng đọc Bài cầu nguyện trường thọ cho Drubwang Konchok Norbu Rinpoche, mặc dù thân tướng của ngài không còn sống với chúng ta nữa. Khi làm như thế, ta sẽ có thể liên tục khẩn cầu Đạo sư Drubwang Rinpoche tiếp tục ở lại thế gian để bảo hộ và dẫn dắt chúng ta trong việc thực hành tâm linh, khiến cho nguyện ước cao quý của ta có thể được hoàn thành nhanh chóng. Nếu chúng ta có niềm tin nơi ngài và tinh tấn thực hành Giáo Pháp mà ngài đã dạy chúng ta, ta sẽ có thể nhanh chóng kinh nghiệm tiến bộ tâm linh. Rinpoche khuyên chúng ta từ bỏ sự ái-ngã, khiến cho việc thực hành 37 Giới nguyện Bồ Tát có thể thực hiện được và trở nên thanh tịnh.

Rinpoche dạy rằng ta nên cố gắng sử dụng Bánh xe Cầu nguyện Mani (Kinh Luân Mani) càng thường xuyên càng tốt bởi nó sẽ rất lợi lạc cho chúng sinh và bản thân ta.

Đối với Kinh Luân Mani, Rinpoche cũng dạy rằng ta nên đi ngủ với Kinh Luân ở dưới gối hay đặt nó cạnh gối nằm. Ngài nói rằng kết quả của việc làm này sẽ tương tự như kết quả thu được từ thực hành Powa (chuyển di tâm thức) khi ta chết.

Rinpoche dạy rằng khi ta thức dậy, việc đầu tiên phải làm là nghĩ tưởng đến Tam Bảo. Ban đêm, trước khi đi ngủ, ta cần phải nhớ lại và sám hối mọi lỗi lầm của ta. Ta cũng phải luôn luôn hồi hướng mọi công đức của ta, dù nhỏ bé tới đâu chăng nữa, cho tất cả những bà mẹ chúng sinh.

Các Đạo hữu tốt lành tại Trung tâm Phật giáo Ratnashri Malaysia đã hứa rằng họ sẽ cố gắng hết sức mình để hướng dẫn Khóa Nhập Thất Mani hàng năm và tất cả mọi người được đón chào để kết hợp với họ trong khóa nhập thất. Họ hết sức tử tế trong việc biểu lộ lòng hiếu khách và thiện tâm khi tôi ở đó. Hiện nay, tôi nhận thấy là họ không có đủ người nhập thất toàn thời gian để hoàn thành 100 Triệu lần Trì tụng, vì thế theo ý kiến của tôi, thật là tuyệt vời nếu chúng ta có thể kết hợp với họ mỗi năm. Trước tiên, ta sẽ bắt đầu thực hiện khóa nhập thất do bởi ta ước muốn nhanh chóng đạt được Giác ngộ để dẫn dắt các bà mẹ chúng sinh thoát khỏi sinh tử và hướng tới sự Giác ngộ. Kế đó, ta có thể thực hành lòng từ và bi bằng cách thành tâm ước muốn giúp đỡ các Đạo hữu của chúng ta ở Malaysia đạt được mục tiêu 100 Triệu lần trì tụng thần chú Mani, khiến họ cũng có thể may mắn như chúng ta đã từng tích tập công đức bao la qua năng lực của việc thực hành nhóm để nhanh chóng đạt được tiến bộ tâm linh. Đại sư Garchen Rinpoche hết sức tốt lành đã dạy trong Khóa Nhập Thất Mani này rằng Bồ đề tâm Vị tha là nguyên nhân của sự Giác ngộ, và Bồ đề tâm Vị tha chỉ có thể được thành tựu bằng cách buông bỏ sự tham muốn và ganh ghét của ta là những gì phát khởi do khuynh hướng yêu quý bản thân hơn là yêu quý người khác. Ngài dạy rằng việc tin tưởng có một cái ‘ngã’ để ta bảo vệ chính là nguyên nhân của những trói buộc Sinh tử.

Trên đây là một vài giáo lý và lời khuyên dạy mà Garchen Rinpoche đã ban cho và tôi đã ghi lại theo sự hiểu biết của tôi về lời dạy đó. Xin đọc từ đầu tới cuối và tự phân tích lời khuyên dạy này để xem nó có ý nghĩa gì với bạn hay không. Nhờ hiểu được những giới hạn và sự chân thành của tôi trong việc chia sẻ các giáo lý và lời khuyên mà tôi đã nhận từ Garchen Rinpoche, xin lượng thứ nếu tôi có làm điều gì sai lầm.

Đạo hữu tốt lành Mee Kuen đã cho tôi biết về cuộc Vận động Cam kết Trì tụng 100 Triệu lần Thần chú Mani. Xin bấm vào những link dưới đây để biết rõ chi tiết:

http://www.thedailyenlightenment.com/temp/103.jpg
www.TheDailyEnlightenment.com/temp/104.jpg
Kim
olifang@singnet.com.sg
Dịch từ “H.E. Garchen Rinpoche’s Advices”
http://tenzinlobsang.spaces.live.com/blog/cns!61295A696AD02956!269.entry

Chú thích:

(1) Drubwang Konchok Norbu Rinpoche (1921-2007) sinh tại Drikung, Tây Tạng năm 1921.

Ngài gia nhập Học viện Phật giáo Drikung Nyima Changra khi còn rất nhỏ. Sau khi tốt nghiệp, Drubwang Konchok Norbu Rinpoche trở thành đệ tử của một trong những Đạo sư nhập thất đương thời lỗi lạc nhất của Dòng Drikung Kagyu, ngài Drubwang Pachung Rinpoche (1901-1988). Dưới sự dẫn dắt của vị Thầy này, Drubwang Konchok Norbu đã nhập thất trong nhiều năm.

Trong một khóa nhập thất 10 năm, Drubwang Konchok Norbu Rinpoche đã kinh nghiệm sự thấu suốt siêu việt về Mahamudra (Đại Ấn). Trong linh kiến của ngài, ngài đã nhìn thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma nhiều lần. Đã có vài lần Drubwang Rinpoche báo trước là ngài sẽ rời bỏ thế giới này vì lợi lạc của tất cả chúng sinh.

Theo thỉnh cầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Drubwang Rinpoche đồng ý lưu lại thế gian thêm vài năm nữa, và vào tháng Chín năm 1999, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã soạn một lời cầu nguyện trường thọ cho Rinpoche theo thỉnh cầu của Đức Drikung Kyabgon Chetsang Rinpoche, Đồng-Lãnh đạo Tối cao của Dòng Drikung Kagyu của Phật giáo Tây Tạng. Drubwang Konchok Norbu Rinpoche không ban những quán đảnh Mật thừa hay giáo lý cao tột về Mahamudra (Đại Ấn) hay về Mahasandhi (Đại Viên mãn). Bởi lòng bi mẫn sâu xa, ngài khuyến khích và truyền cảm hứng cho mọi người thực hành những tu tập Giáo Pháp đơn giản nhất, đó là lòng từ bi rộng lớn, và trì tụng các thần chú Om Ma Ni Pad Me Hung (Thần chú Mani, Lục Tự Đại Minh), và Om Vajra Guru Padma Siddhi Hung (Guru Mantra).

Drubwang Rinpoche thị tịch tại Nepal vào tháng Mười hai năm 2007.

Theo: http://www.drikung-kagyu.org/index.php?option=com_content&view=article&id=38&Itemid=77
Xin tham khảo thêm: Nhập thất Trì tụng Một Trăm triệu Thần chú Sáu-Âm
/nhapthattritungthanchu.htm

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4628)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5658)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5314)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9307)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4461)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3470)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6303)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6852)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10609)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567