Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5: Những biến thái đa dạng của sự kiêu mạn.

15/05/201318:38(Xem: 8380)
Chương 5: Những biến thái đa dạng của sự kiêu mạn.

Tu Tập Hạnh Bồ Tát

Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương

Chương 5: Những Biến Thái Đa Dạng Của Sự Kiêu Mạn

Phạm Công Thiện

Nguồn: Phạm Công Thiện


Tự tin khác hẳn sự kiêu mạn. Tự tin rằng mình có khả năng dẹp bỏ tất cả mọi kiêu mạn; tự tin rằng mình có khả năng vô tận để tiêu diệt tất cả những phiền não; tự tin rằng mình có khả năng vô biên để thành Phật vì lợi ích bao la cho tất cả chúng sinh; tự tin rằng mình có sức mạnh tâm linh mênh mông để giúp tất cả chúng sinh thoát khỏi tất cả nỗi sợ hãi và đau khổ trong cõi luân hồi; tự tin rằng mình không khác gì ảo tưởng phù du và như một giấc chiêm bao; tự tin rằng lúc chết mình sẵn sàng hóa kiếp xuống địa ngục để cứu giúp những kẻ đọa đày bi thảm, vân vân…

Có thể tự tin như vậy, vì thấy hiểu rằng cái "tôi" không có thực, và "mình" chính là tất cả những gì được thấy và được hiểu; chính là tất cả những gì chưa được thấy và chưa được hiểu; chính là tất cả những gì không thể thấy và không thể hiểu.

Còn sự kiêu mạn chỉ là xây dựng tất cả những "thần thoại" và "huyễn thoại" chung quanh ngũ uẩn vô thường. Sự kiêu mạn được thành hình từ vọng tưởng về cái "tôi là thế này" hay "tôi là thế kia", "tôi không là thế này", "tôi không là thế kia", "tôi đã như thế" và "tôi sẽ như vậy", vân vân…

"Mặc cảm tự tôn" chỉ là hình thức khác của "mặc cảm tự ty", và chính "mặc cảm tự ty" lại là hình thức ẩn giấu vi tế của "mặc cảm tự tôn": thấy tưởng rằng mình hơn chỉ là hình thức khác của việc thấy tưởng mình thua, còn thấy tưởng rằng mình ngang hàng với ai hoặc với cái gì đó chỉ là kết quả của sự so sánh, sự đo lường, sự tính toán, sự phân biệt giữa cái này và cái kia, đây là bước đầu phá vỡ sự kiêu mạn.

Từ ba mối đầu của Mạn:

I. Tôi cao siêu hơn kẻ khác (thắng mạn)

II. Tôi ngang hàng kẻ khác (đẳng mạn)

III. Tôi kém thua kẻ khác (liệt mạn)

Chúng ta có thể nhìn thấy bao nhiêu biến thái đa dạng của sự kiêu mạn (gọi chung là "kiêu mạn", nhưng mạn vẫn trọng hơn kiêu và tất cả kiêu đều khởi phát từ mạn, từ ngã mạn); trong kiêu đã hàm ý mạn, do đó, chúng ta có thể diễn giải ba kiêu như sau:

I. Vô bệnh kiêu: tôi lành mạnh hơn kẻ khác;

II. Niên tráng kiêu: tôi trẻ tuổi hơn kẻ khác

III. Hoạt mệnh kiêu: tôi linh động tràn trề sức sống hơn kẻ khác.

Chỉ có chứng nhập pháp vô thường là dẹp bỏ mọi kiêu, mọi mạn, và mọi kiêu mạn. Một người sắp chết khó lòng tiếp tục giữ được tâm kiêu mạn. Sự bất khuất của một anh hùng trước cái chết không phải là kiêu mạn mà là thái độ bất lay chuyển của một người dám hy sinh bản thân cho một cái gì siêu việt cao cả vượt lên trên kiếp người.

Sau đây, cũng nên liệt kê ra những biến thái đa dạng của kiêu mạn để chúng ta dễ nhận những phiền não đã trói buộc mình và khiến cho mình đánh mất trí huệ Bồ Tát:

a) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình hơn kẻ khác;

b) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình bằng kẻ khác;

c) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình kém thua kẻ khác.

Điều kiêu mạn thứ ba ở trên có vẻ mâu thuẫn, sự thực thì sự kiêu mạn càng tăng trưởng qua sự mâu thuẫn bề ngoài: có những sự "khiêm tốn" hay "hạ mình" chỉ là hình thức tế nhị của kiêu mạn; nhận rằng mình thua kém chỉ là lùi lại để nhảy thực xa hơn nữa… Nói một cách văn chương: có sự toàn thiện của cái bất toàn… Hay nói một cách thơ mộng cải lương: "tình chỉ đẹp lúc dang dở…" hay nói một cách triết lý: sự thành tựu của cái gì chưa xong, sự có mặt của cái vắng mặt…

Ngoài ba hình thức kiêu mạn chính yếu trên, có thể nhìn ra những dạng thái phồn thịnh khác của kiêu mạn:

a) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình hơn cả cái hơn của kẻ khác;

b) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình ngang bằng cái hơn của kẻ khác;

c) Mình tưởng rằng mình cao siêu, vì mình cho rằng mình thua kém hơn cái hơn của kẻ khác;

d) Cao siêu, vì hơn cả cái trung bình của kẻ khác;

e) Cao siêu, vì ngang bằng với cái trung bình của kẻ khác;

f) Cao siêu, vì thua kém với cái trung bình của kẻ khác;

g) Cao siêu, vì hơn cái kém của kẻ khác;

h) Cao siêu, vì bằng với cái kém của kẻ khác;

i) Cao siêu, vì thua kém với cái kém của kẻ khác...

Tóm lại, tất cả mọi dạng thái của kiêu mạn đều là trò hý luận chằng chịt của tâm thức vọng động, xô đẩy con người ra ngoài sự tịch lặng của Phật Pháp, khiến cho mình đánh mất trí huệ của Bồ Tát, vì khinh thường chúng sinh, tự tôn tự đại, không tôn trọng Phật Pháp và không tôn kính Đạo sư, chướng ngại cho chúng sinh và chướng nạn cho sự thành tựu Phật Đạo ra ngoài sáu nẻo luân hồi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 5594)
Hệ thống giáo nghĩa Chân Tông được kiến lập qua tác phẩm chủ yếu của ngài Thân Loan (1173-1262) là Giáo Hành Tín Chứng (Đại Chánh Tạng tập 83). Các trứ tác sau này của Ngài chỉ là bổ sung và phát triển quan điểm này từ các phương diện khác. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu kết cấu toàn thể hệ thống giáo nghĩa Chân Tông và các đặc điểm của nó.
22/04/2013(Xem: 5403)
Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độ là hết sức sâu đậm. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm và cần sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xác định truyền thống tu học của người Phật tử Việt Nam, nhằm xây dựng các nguyên tắc tổ chức trong các tự viện nói riêng và đời sống tín ngưỡng.
22/04/2013(Xem: 5246)
Nhìn nhận một cách tổng quát về ý nghĩa giáo lý Đức Phật thuyết Pháp một đời mà nói, nếu rời xa ý nghĩa phương tiện thì không có nội dung tam tạng kinh điển Phật giáo xuất hiện ở thế gian này. Giáo lý là chiếc bè cứu vớt chúng sanh đang khổ đau vô cùng tận trong biển lớn sanh tử luân hồi.
22/04/2013(Xem: 5183)
Ðây là hai câu phú trong bài Cư Trần Lạc Ðạo phú của Sư tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông, vị sáng tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền mang đậm đà bản sắc Việt nam. Có thể nói, hai câu phú trên đã đúc kết được phần nào cách lý giải mà các Thiền giả dành cho pháp môn Tịnh độ. Và đây cũng chính là nội dung của bài viết này muốn đề cập đến.
22/04/2013(Xem: 6128)
Phật pháp là pháp bình đẳng hoàn toàn không có cao thấp, tu tập bất kỳ pháp môn Phật pháp nào, cũng có công đức và cũng có thể thành Phật. Phật pháp vốn không có phân biệt Tiểu thừa và Đại thừa. Phật dạy vô lượng pháp môn, chẳng qua là tùy bệnh mà cho thuốc. Vì chúng sinh nghiệp lực không giống nhau, tâm lượng lại có lớn nhỏ. Phật phương tiện dẫn đạo chúng sinh nên nói Tiểu thừa và Đại thừa. Tất cả các pháp, vốn là không hai, không khác, đồng về một thật tướng.
22/04/2013(Xem: 5864)
Đại thừa Phật giáo đối với việc tự cầu giác ngộ của Tiểu thừa Phật giáo mà nói, thì chẳng những tự độ mà còn chuyên chở hết thảy chúng sinh đến Niết Bàn giác ngạn.
22/04/2013(Xem: 5689)
Những lời thống thiết xuất phát từ lòng từ bi vô lượng của chư Phật, chư tổ chính là kim chỉ nam cho chúng ta cứu vãn, khôi phục và làm rực rỡ nền văn hoá đạo đức truyền thống của dân tộc. Ý nghĩa văn hoá và phương pháp tu trì của Tịnh độ tông chẳng những có thể đáp ứng mong muốn của con người hiện đại ở trình độ cao mà còn có khả năng chữa trị có hiệu quả những căn bệnh của xã hội ngày nay.
22/04/2013(Xem: 5749)
Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.
22/04/2013(Xem: 8507)
Cuốn “Di Đà Huyền Chỉ” ra đời đồng thời với bản dịch Việt ngữ “Thế Giới Nhất Hoa” vào cuối năm 2001. Cuốn “Thế Giới Nhất Hoa” đến nay vẫn còn ở các quày sách. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiền Công án rất khó nuốt.
22/04/2013(Xem: 17782)
Bộ sách này có thể gọi là kinh "Khóa Hư" vì là cả một đời thực nghiệm về chân lý sinh tồn của tác giả. Tác giả là một vị vua khai sáng ra triều đại nhà Trần, oanh liệt nhất trong lịch sử dân tộc, ba phen đánh đuổi quân xâm lăng Mông Nguyên, từng chinh phục thế giới từ Á sang Âu "đi đến đâu cỏ không mọc lên được".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]