Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ sáu : Giải thích các điều nghi

06/05/201312:06(Xem: 13790)
Bài thứ sáu : Giải thích các điều nghi

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN

--- o0o ---

TẬP BA

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận 
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

BÀI THỨ SÁU 

GIẢI THÍCH CÁC ĐIỀU NGHI 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì nội thức làm sao sanh ra các món phân biệt? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Do nhứt thế chủng thức 
Như thị như thị biến 
Dĩ triển chuyển lực cố 
Bỉ bỉ phân biệt sanh 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do các chủng tử trong Tạng thức, trùng trùng biến ra các pháp. Vì sức phát triển sanh khởi của các pháp, nên sanh ra các món phân biệt. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu không có ngoại cảnh làm duyên, chỉ có nội thức thì nội thức làm sao sanh ra các món phân biệt? 

Đáp:- Luận chủ trả lời: Do thức A lại da chứa đựng chủng tử của các pháp, các chủng tử ấy lại sanh ra các pháp hiện hành rồi mỗi pháp hiện hành lại sanh Kiến phần (năng phân biệt) và Tướng phần (bị phân biệt). 

Câu "Như thị như thị biến"; nghĩa là từ khi sanh cho đến khi chín, sự biến đổi phát triển rất nhiều. 

Câu "Dĩ triển chuyển lực cố"; nghĩa là tám thức hiện hành và các Tâm sở tương ưng, nào Tướng phần, nào Kiến phần v.v...đều có cái năng lực hổ trợ cho nhau, nên sanh ra các cảnh giới thế gian (bị phân biệt) và các món phân biệt (năng phân biệt). 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại sao lại có chúng hữu tình sanh tử tương tục? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 

Do chư nghiệp tập khí 
Nhị thủ tập khí câu 
Tiền Dị thục ký tận 
Phục sanh dư Dị thục 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do tập khí (chủng tử) của các nghiệp và tập khí (chủng tử) của hai thủ (năng thủ, sở thủ) chung nhau làm duyên nên thân Dị thục (báo thân) đời này vừa hết, thì lại tiếp tục sanh ra các thân dị thục đời sau và đời sau nữa. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì tại sao hiện nay thấy có các chúng hữu tình sanh tử tiếp nối luôn luôn? 

Đáp:- Do có các nghiệp làm duyên, nên chúng hữu tình sanh tử tương tục. 

Chữ "Chư nghiệp":Nghĩa là nghiệp lành, nghiệp dữ và nghiệp bất động (tu thiền định). 

Chữ "Nhị thủ":Kiến phần (năng thủ), Tướng phần (sở thủ) hoặc Danh (tâm) và Sắc (vật) hay Tâm vương và Tâm sở. 

Chữ "Tập khí": Tức là biệt danh của chủng tử. Như người viết chữ: khi chưa viết thì cái công năng tập quen (tập khí) đó, nó tiềm tàng núp ẩn trong tay, người không thấy được. Đến khi viết chữ, là do cái công năng tập luyện (khí phần) ngày trước đó, nên nay mới viết được. Bởi thế nên "chủng tử" (công năng tiềm tàng) cũng gọi là "tập khí". 

Báo thân của loài hữu tình, gọi là thân Dị thục. Khi thân Dị thục hiện tiền sắp diệt, thì chủng tử của các nghiệp làm sơ duyên và chủng tử của hai món thủ làm thân duyên, tương tục không dứt, nên làm cho sanh ra thân Dị thục đời sau. Bởi thế nên các chúng hữu tình, khi sắc thân này chết đi, thì lại sanh ra sắc thân khác. Do đó mà sanh tử nối luôn, không biết chừng nào cùng tận. 

25phpt09-3-6a






CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu chỉ có thức mà thôi, tại sao rất nhiều chỗ trong kinh Phật nói có ba tánh?

Đáp:- Phải biết ba tánh đó cũng chẳng ngoài thức. 

Hỏi:- Tại sao vậy ? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết 


Do bỉ bỉ biến kế 
Biến kế chủng chủng vật 
Thử Biến kế sở chấp 
Tự tánh vô sở hữu 
Y tha khởi tự tánh 
Phân biệt duyên sở sanh 
Viên thành thật ư bỉ 
Thường viễn ly tiền tánh 
Cố thử dữ y tha 
Phi dị phi bất dị 
Như vô thường đẳng tánh 
Phi bất kiến thử bỉ 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói ba bài tụng để trả lời rằng: Do tánh Biến kế sở chấp, vọng chấp tất cả các vật. Tánh Biến kế sở chấp này, không thật có tự thể. Còn tánh Y tha khởi là do các duyên phân biệt mà sanh. Tánh Viên thành thật, là do trên tánh Y tha khởi xa lìa tánh Biến kế sở chấp mà hiện. 

Bởi thế nên tánh "Viên thành thật" đối với tánh "Y tha khởi" cũng khác mà cũng không khác, vì không thể tách riêng được. Bởi thế nên, nếu không thấy được tánh Viên thành thật, thì cũng không thể thấy được tánh Y tha khởi. Cũng như tánh vô thường v.v...đối với các pháp, cũng khác mà cũng không khác. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu chỉ có thức mà thôi, thì tại sao trong các kinh rất nhiều chỗ, đức Thế Tôn nói có ba món tự tánh: 1. Biến kế sở chấp tự tánh. 2. Y tha khởi tự tánh . 3. viên thành thật tự tánh ? 

Đáp:- Luận chủ trả lời rằng: "Ba món tự tánh Phật nói đó, cũng không rời thức". Song còn e người không tin, nên Luận chủ nói tiếp 3 bài tụng để giải thích nguyên do. 

Tánh Biến kế sở chấpnày là do chúng sanh vọng chấp ức đạc mà có. Như bên Âu châu có nhà học giả thấy bộ xương khỉ giống bộ xương người, nhơn đó họ nghi ngờ và ức đạc rằng: loài khỉ tiến hoá thành loài người; rồi đề xướng lên cái thuyết "Động vật tiến hóa" (Darwin). Từ đó về sau họ mới chủ trương rằng: "Tất cả vật trên thế gian, đều do tiến hoá thành". Bởi thế nên bài tụng nói:"Vọng chấp tất cả vật". 

Vì vọng tưởng ức đạc, chớ chẳng phải thật có, dụ như lông rùa sừng thỏ, nên bài tụng nói:"Tánh Biến kế Sở chấp không có thật thể" ( thử Biến kế sở chấp, tự tánh vô sở hữu). 

Còn tánh "Y tha khởi", là do phân biệt các duyên trong thế gian mà sanh. Thí như người nhặm con mắt, xem hư không thấy có các hoa đốm, rồi khởi vọng tưởng phân biệt: hoa này đỏ hay trắng, tốt hay xấu, giống thật hoa hay không v.v...Họ không biết rằng: Trong hư không chẳng có hoa, do nhặm mắt nên thấy có hoa (Y tha khởi). 

Trong tánh "Y tha khởi" có nhiễm và tịnh; nếu lìa được phần nhiễm ô tức là tánh Biến kế sở chấp, thì đặng phần thanh tịnh, gọi là tánh "Viên thành thật". Cũng như nước và sóng, nếu sóng xao động lặng, thì tánh nước yên tịnh hiện ra. 

Bởi thế nên "tánh Viên thành thật" với "tánh Y tha khởi", không thể nói khác hay không khác, cũng như nước với sóng không hai mà cũng không một. 

25phpt09-3-6b






Câu “Như vô thuờng đẳng tánh”; nghĩa là trong kinh nói: “Tất cả pháp vô thường, khổ và vô ngã v.v…’. – Vô thường, khổ và vô ngã là tánh chung của các pháp; còn các cảnh vật như núi sông cỏ cây v.v… là tướng riêng của các pháp. Vì tánh, tướng không rời nhau, nên vô thường, khổ, vô ngã đối với các pháp, chẳng phải khác và chẳng phải một.

Câu "Phi bất kiến thử bỉ "; nghĩa là nếu không thấy được tánh Viên thành thật đây, thì cũng không thấy được tánh Y tha khởi kia. 

Nghĩa này không những trong đạo Phật, ngay đến người thế tục, nếu không tu theo Phật pháp, để ngộ tánh Viên thành thật, thì cũng không thể thấy được các pháp Y tha khởi của thế gian. 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Nếu đã có 3 tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh?” 

Đáp: - Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Tức y thử tam tánh 
Lập bỉ tam vô tánh 
Cố Phật mật ý thuyết 
Nhứt thế pháp vô tánh 
Sơ tức tướng vô tánh 
Thứ vô tự nhiên tánh 
Hậu do viễn ly tiền 
Sở chấp ngã, pháp tánh 
Thử chư pháp thắng nghĩa 
Diệt tức thị chơn như 
Thường như kỳ tánh cố 
Tức Duy thức thật tánh. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói 3 bài tụng để trả lời rằng: Phật y cứ trên ba món tự tánh này, mà mật ý nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh". 

1. Biến kế sở chấp không tự tánh, vì tướng hy vọng vậy. 

2. Y tha khởi không có tự tánh, vì do các duyên phân biệt sanh, không phải tự nhiên có. 

3. Viên thành thật không có tự tánh, do xa lìa tánh Biến kế hư vọng chấp ngã chấp pháp mà hiện. 

Đây là nghĩa thù thắng của các pháp, cũng gọi là "chơn như", vì tánh nó "thường như" vậy; cũng tức "thật tánh" của Duy thức. 

LƯỢC GIẢI

Hỏi:- Nếu có ba món tự tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh"? 

Đáp:- Luận chủ nói 3 bài tụng để giải thích: "Phật y cứ trên ba món tự tánh, rồi giả lập ba món vô tánh". - Đã nói "Phật giả lập ba món vô tánh" thì biết rằng chẳng phải thật vô. Sở dĩ Phật phương tiện mật ý nói như vậy, chẳng qua để đối trị cái chấp "ba tánh" mà thôi, chớ không phải thật ý. Cũng như dùng ba món thuốc để đối trị ba bịnh. 

Ba món vô tánh là: 1. Tướng vô tánh; nghĩa là tướng Biến kế sở chấp, hư vọng không thật có, 2. Tự nhiên vô tánh; nghĩa là do các duyên sanh, không phải tự nhiên có; nên cũng gọi là "sanh vô tánh", 3. Thắng nghĩa vô tánh; nghĩa là xa lìa cac vọng chấp ngã chấp pháp rồi, mới hiện ra tánh này; nên gọi là "Thắng nghĩa vô tánh". 

Thắng nghĩa vô tánh, cũng tức là chơn như, vì tánh nó chơn thật không vọng, thường như vậy; cũng gọi là "Thật tánh của Duy thức". 

25phpt09-3-6c





--- o0o ---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2015(Xem: 6085)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 6669)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
22/01/2015(Xem: 10099)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
08/01/2015(Xem: 7889)
Nguyện con đến lúc sắp lâm chung Diệt trừ tất cả các chướng ngại Tận mặt gặp Phật A Di Đà Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
07/01/2015(Xem: 8740)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
25/12/2014(Xem: 8086)
Là phật tử không gì quý hơn, vui hơn, an lạc hơn, giải thoát hơn được học hiểu chút chút các kinh đại thừa liễu nghĩa của Đức Phật dạy. Quy y Tam Bảo, tụng kinh nghe kinh, nghe thuyết pháp, đi chùa hơn 37 năm mà không biết kinh Phật dạy có 2 loại : kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa.
01/12/2014(Xem: 11203)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
19/11/2014(Xem: 14689)
Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."
08/11/2014(Xem: 14798)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
07/11/2014(Xem: 11039)
Tôi có một người bạn cùng tu tịnh nghiệp. Ngoài việc làm Phật sự tại các chùa, thường hay niệm Phật cầu sinh Cực Lạc. Bạn tôi rất thích đọc kinh và nghe Pháp, nên tôi cứ nghĩ là anh đã thông hiểu pháp môn Tịnh Độ. Nhưng không dè, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, bạn tôi lại lo lắng than, chưa đạt nhất tâm và sợ sẽ không được vãng sinh Cực Lạc! Là tín đồ Tịnh Độ mà khi chết lại hồ đồ như thế thì thực là đáng tiếc!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567