Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài thứ tư : nt

03/05/201319:10(Xem: 16842)
Bài thứ tư : nt

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Khóa Thứ IX

DUY THỨC HỌC VÀ NHƠN MINH LUẬN

--- o0o ---

TẬP BA 

DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI

Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận 
Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải.

BÀI THỨ TƯ 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã lược nêu 6 loại Tâm sở tương ưng nay xin nói rõ hành tướng (hành vi và tướng trạng) sai khác của các loại Tâm sở này; vậy 2 loại Tâm sở đầu tiên thế nào? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Sơ biến hành: Xúc đẳng 
Thứ Biệt cảnh vị: Dục 
Thắng giải, Niệm, Định, Huệ 
Sở duyên sự bất đồng. 

Dịch nghĩa

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Hai loại Tâm sở, đầu tiên là Biến hành, có năm món: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư; loại Tâm sở thứ hai là Biệt cảnh, cũng có năm món: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ. Công việc duyên cảnh của năm món Biệt cảnh không đồng nhau. 

LƯỢC GIẢI

Biến hành Tâm sở:Tâm sở này đi khắp tất cả: 

1. Đi khắp tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai). 
2. Đi khắp tất cả không gian (ba cõi, chín địa) 
3. Đi khắp tất cả tánh (thiện,ác và vô ký). 
4. Đi khắp tất cả thức (tám thức tâm vương). 

Năm món Biến hành là: Xúc, Tác ý, Thọ, tưởng và Tư. Trong bài nói về thức Sơ năng biến ở trước, đã có nói về hành tướng của năm món Biến hành Tâm sở rồi, nên bài này chỉ nói về năm món Biệt cảnh. 

Biệt cảnh Tâm sở:Tâm sở này có năm món, mỗi món duyên mỗi cảnh giới khác nhau, không thể đi khắp tất cả như năm món Biến hành. 

Năm món Biệt cảnh là: Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. 1. Dục:Muốn; như phát tâm muốn lìa trần tục, hoặc muốn học Phật v.v ..., 2. Thắng giải:Hiểu biết rõ ràng; như học Duy thức, hiểu biết được rõ ràng, 3. Niệm: Nhớ nghĩ; như ngày trước học giáo lý, hôm nay nhớ lại, 4. Định:Chăm chú; như chăm chú nghe hoặc học Duy thức, tâm không loạn động, 5. Huệ:Trí huệ; nhơn định nên sanh trí huệ. 

Vì năm Tâm sở này, mỗi món duyên mỗi cảnh và hành tướng khác nhau; cũng như năm người, mỗi người ở mỗi chỗ và làm mỗi việc không đồng, nên bài tụng trên nói "Sở duyên sự bất đồng": Công việc duyên cảnh của năm món Tâm sở này không đồng. 

Biệt cảnh: 

1. Dục Tâm sở duyên cảnh bị mong muốn 
2. Thắng giải - đã rõ ràng 
3. Niệm - nhớ lại 
4. Định - chăm chú 
5. Huệ - quán sát 

CHÁNH VĂN

Hỏi: - Trên đã nói hai loại Tâm sở biến hành và biệt cảnh; còn hành tướng của Thiện Tâm sở thế nào? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Thiện, vị: Tín, Tàm, Quí 
Vô tham đẳng tam căn 
Cần, An, Bất phóng dật 
Hành xả cập Bất hại. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Thiện Tâm sở có 11 món: Tín, Tàm, Quí và ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si với cần, an, bất phóng dật, hành xả và bất hại. 

LƯỢC GIẢI

11 món Thiện Tâm sở này, cũng như các vị Trung thần trong nước, hay người tớ trung thành trong nhà. 

1.Tín:Tin; như tin Tam bảo, 2. Tàm:Xấu hổ; như mình lỡ làm việc có tội lỗi, sanh ra xấu hổ, 3. Quí:Thẹn thùa; như mình làm việc sái quấy, đối với người sanh lòng thẹn thùa. Nói lại cho dễ hiểu: Tàm là tự hổ lấy mình; Quí là thẹn với người, 4. Vô tham:không tham; gặp cảnh tốt đẹp, không sanh tâm tham lam, 5. Vô sân:Không nóng giận; gặp cảnh trái nghịch, không nóng giận, 6. Vô si:Không si mê; đối với tất cả sự vật, tâm không si mê. Ba món tâm sở này (vô tham, vô sân, vô si) là gốc rễ của các pháp lành, nên được gọi là "Tam thiện căn" (ba căn lành), 7. Cần:Siêng năng; gặp việc lành, tâm tinh tấn không thối lui, 8. Khinh an: Nhẹ nhàng sảng khoái; thâm tâm vui vẻ nhẹ nhàng, 9. Bất phóng dật:Không phóng túng; bỏ dữ làm lành, không buông lung theo dục lạc, 10. Hành xả:Làm mà không cố chấp; làm tất cả việc tốt, mà không tham luyến cố chấp, làm với bản tánh tự nhiên, chớ không có dụng công, tâm thường an trụ nơi bình đẳng. Hành tướng của Hành xả, như người đi đường: Phải bỏ bước sau mới tiến tới bước trước. Nếu không bỏ bước sau thì không bao giờ tiến tới bước trước được. Lại nữa, Hành xả với Xả thọ khác nhau: "hành xả" là món Xả trong Hành uẩn, thuộc về pháp lành; còn "Xả thọ" là một trong Thọ uẩn, thuộc về tánh vô ký, 11. Bất hại:Không làm tổn hại tất cả chúng sanh. 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã nói 11 món Thiện Tâm sở, còn hành tướng, (hành vi, tướng trạng) của căn bổn phiền não thế nào? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Phiền não vị: tham, sân 
Si, mạn, nghi, ác kiến. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói hai câu tụng để trả lời rằng: Căn bản phiền não có sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến. 

LƯỢC GIẢI

Phiền não nghĩa là buồn phiền não loạn. Vì 6 món phiền não này làm căn bản để sinh ra các phiền não chi mạt, nên gọi là Căn bản phiền não. 

1. Tham, 2. Sân, 3. Si:ba món Tâm sở này trái ngược với ba món Thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) trong 11 món Thiện Tâm sở. Trong Khế kinh gọi ba món phiền não này là "tam độc" (3 món độc). 4. Mạn,tức là Ngã mạn; đã giải trong bài thức năng biến thứ hai, 5. Nghi:Nghi ngờ; như người nghi ngờ Phật pháp, không tin thuyết nhơn quả luân hồi v.v ...6. Ác kiến:Hiểu biết có tội ác; nghĩa là hiểu biết không chơn chánh tà vạy. 

Ác kiến này, chia ra làm năm món: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, sẽ giải ở sau. 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã nói 6 món Căn bản phiền não, còn hành tướng (hành vi, tướng trạng) của 20 món Tuỳ phiền não thế nào? 

Đáp:- Nguyên Văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Tuỳ phiền não vị: Phẫn 
Hận, Phú, Não, Tật, Xan 
Cuống, Siểm, dữ hại, Kiêu 
Vô tàm cập vô quí 
Trạo cử dữ Hôn trầm 
Bất tín tinh Giải đãi 
Phóng dật cập Thất niệm 
Tán loạn, Bất chánh tri. 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói hai bài tụng để trả lời rằng: Tuỳ phiền não có hai mươi món: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuống, Siểm, Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quí, Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh tri. 

LƯỢC GIẢI

Vì hai mươi món phiền não này tuỳ thuộc vào các căn bản phiền não, nên gọi là "Tuỳ phiền não". 

1. Phẫn:Giận, khi gặp nghịch cảnh sanh tâm giận giỗi. 

2. Hận:Hờn, sau khi giận rồi lưu lại trong tâm không bỏ. 

3. Phú:Che giấu, che giấu tội lỗi của mình không cho ai biết. 

4. Não:Phiền, sau khi giận rồi buồn phiền nơi lòng. 

5. Tật:Ganh ghét, thấy người hơn mình sanh tâm đố kỵ. 

6. Xan:Bỏn xẻn, có tiền của mà rít rắm không bố thí. 

7. Cuống:Dối gạt, vì muốn đặng danh lợi nên dối gạt người. 

8. Siểm:Nịnh, bợ đỡ nịnh hót với người để xin danh vọng quyền lợi. 

9. Hại:Tổn hại, trái với "bất hại" trong Thiện Tâm sở. 

10. Kiêu:Kiêu cách, giống như mạn tâm sở, song "Mạn tâm sở" là kinh dễ lấn lướt người, còn "Kiêu tâm sở" là ỷ tài năng của mình mà khinh ngạo xem thường người. 

11. Vô tàm12Vô quí, trái với Tàm và Quí trong Thiện tâm sở. 

13. Trạo cử: Chao động, làm chướng ngại tu Chỉ; trái với Định tâm sở trong vị Biệt cảnh. 

14. Hôn trầm:Tối mờ, làm chướng ngại tu quán; trái với Huệ tâm sở. 

15. Bất tín:Không tin, trái với Tín tâm sở trong 11 món thiện. 

16. Giải đãi:Trễ nải, trái với Cần tâm sở trong 11 món thiện. 

17. Phóng dật:Buông lung; trái với "Bất phóng dật" trong Thiện tâm sở. 

18. Thất niệm:không nhớ; trái với "Niệm tâm sở" trong vị Biệt cảnh. 

19. Tán loạn:Rối loạn, tâm lăng xăng rối loạn; trái với "Định tâm sở" trong vị Biệt cảnh. 

20. Bất chánh tri:Biết không chơn chánh, khi đối với cảnh hiểu biết sai lầm, làm chướng ngại hiểu biết chơn chánh. 

CHÁNH VĂN

Hỏi:- Trên đã nói 20 món Tuỳ phiền não, còn hành tướng của 4 món Bất định thế nào? 

Đáp:- Nguyên văn chữ Hán 

Tụng viết: 

Bất định, vị: Hối Miên 
Tầm Tư nhị các nhị 

Dịch nghĩa 

Luận chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Bất định là Hối Miên và Tầm Tư, mỗi món lại chia làm hai (là bốn). 

LƯỢC GIẢI

Bất định là không nhứt định thiện hay ác. 

1. Hối:Ăn năn, nghĩa là ăn năn những việc nên làm mà không làm, hoặc ăn năn những việc không nên làm mà lại làm. 

2. Miên:Ngủ nghỉ, làm cho thân tâm không tự tại. 

3. Tầm:Tìm kiếm, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó làm cho tâm thô động gấp gáp. 

4. Tư:Rình xét, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó khiến cho tâm tế nhị mà gấp gáp. 

Lại nữa, bốn món Tâm sở này, mỗi món đều có hai tánh: hoặc thiện hoặc ác không nhứt định, nên gọi là "Bất định". 

--- o0o ---

Trình bày : Nhị Tường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/04/2011(Xem: 6437)
Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết và sức mạnh của lý trí để giải quyết vấn đề tâm linh của con người cùng những vấn nạn của xã hội mà không dựa vào Thần Linh.
29/03/2011(Xem: 9786)
Chúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài. Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả.
01/03/2011(Xem: 4625)
Có một số Phật tử cho rằng khi con người đạt tới giải thoát là lúc họ trở vể với bản thể chân tâm tuyệt đối, hoà đồng vào bản thể của vũ trụ vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu. Nhận định trên đã được dẫn xuất từ nguồn tư tưởng Bà La Môn và từ những nhận xét sai lầm về Phật giáo. Cho nên, để có một cái nhìn rõ ràng hơn về đạo giải thoát của đức Phật, chúng tôi viết bài tiểu luận này nhằm nêu lên sự khác biệt giữa quan niệm giải thoát của Phật giáo và của Bà La Môn giáo. Bài viết được dựa phần lớn vào những tư liệu hiện có, vào kinh điển của Phật giáo và Bà La Môn giáo đang lưu truyền.
21/02/2011(Xem: 12140)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
19/02/2011(Xem: 17791)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
11/02/2011(Xem: 7347)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khí và chịu đựng đầy hoan hỉ...
11/02/2011(Xem: 9150)
Hiện nay, thời khóa mỗi ngày của tôi nhất định phải có là: sáng sớm thức dậy tụng phẩm Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, bài kệ phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa, kinh Phổ Môn, kinh A Di Đà” rồi hoàn kinh niệm Phật. Nếu tụng ra tiếng thì hơn 2 tiếng đồng hồ, nếu tụng thầm thì trên dưới một tiếng rưỡi. Năm nay tôi đã 94 tuổi nên chỉ thực hiện thời khóa bằng cách tụng thầm mà thôi, chứ tụng ra tiếng thì không nỗi nữa rồi. Sở dĩ tôi nói kỹ như vậy để chúng ta biết rõ cách tu tập của mình là phải có sự liên tục hằng ngày. Không nên lúc có, lúc không. Tụng kinh niệm Phật ngoài mục đích chính yếu là vãng sanh Cực Lạc ra, còn có tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy, tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con đường Hiền Thánh giải thoát.
11/02/2011(Xem: 4274)
Bởi ai và như thế nào các vũ khí của địa ngục được tạo ra? Ai đã làm những nền địa ngục nóng rực? Và từ nơi đâu những ngọn lửa của địa ngục? Sakyamuni dạy ‘ Tất cả chúng đều sinh ra từ tâm bị vọng tưởng’ --- Tịch Thiên. Nhập bồ tát hạnh. (Santideva. Bodhicaryavatara)
10/02/2011(Xem: 4604)
Trong khi đánh máy lại quyển sách này Trí Đạt có uớc mong là chỉ cần thấy một người cảm nhận cái hay của nó mà phát tâm hành thiền : Đó là hạnh phúc lớn lao của Trí Đạt.
07/02/2011(Xem: 3809)
Không nhiều người tin, nhưng trước nền văn minh chưa đạt tới “viên mãn” của Trái đất này, có nền văn minh khác đạt đến cực thịnh và đã tàn lụy. Chiểu theo chu trình phát triển vũ trụ thì điều đó thường hằng diễn ra liên tục trong tam giới. Bây giờ ngành khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật minh chứng cho một trình độ siêu việt, có niên đại sau khi trái đất hình thành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]