Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 7

25/04/201319:10(Xem: 4166)
Quyển 7

Long Thơ Tịnh Độ

Dịch giả: HT Thích Hành Trụ

--- o0o ---

QUYỂN BẢY

CHỨC QUỐC HỌC TẤN SĨ

ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU SOẠN

LỜI ÔNG VƯƠNG NHỰT HƯU NÓI

Người tham thiền phần nhiều không tin Tịnh độ, nói tu Tịnh độ là chấp tướng. Muốn chỉ ngay tâm người thấy tánh thành Phật mà thôi.

Lời ấy rất hay, nhưng không dễ gì được, trở thành tệ đó lắm vậy. Nên nay tôi (Vương Nhựt Hưu) giảng rõ cái tệ của người tham thiền và dẫn sự tích làm pháp chứng, cho các người tu hành, không biết chỗ cốt yếu của Tịnh độ, cũng xin giảng nói luôn đây, cho nên quyển này gọi là quyển “CHỈ MÊ QUY YẾU”.

ĐỜI TỐNG ÔNG THANH THẢO ĐƯỜNG THÂN ĐỜI SAU CỦA ÔNG, LÀ ÔNG TĂNG LỖ CÔNG

Triều nhà Tống, có ông Thanh Thảo Đường. Lúc ông còn sống tuổi ngoài chín mươi, có người đàn bà nhà họ Tăng, thường tới lui trai cúng và bố thí y, vật cho Hòa thượng. Hòa thượng Thanh Thảo Đường cảm ơn kia, bèn nói Lão tăng này sẽ làm con trai cho phu nhân.

Ngày qua tháng lại Xuân mãn Thu sang, một hôm người đàn bà ấy sinh đặng đứa con trai, nhớ lại lời trước kia, liền sai người đến thăm ông Thảo Đường thì ông ấy đã tọa hóa rồi vậy. Đứa con trai bà sinh kia bèn đặt tên Tăng Lỗ Công vậy.

Do đời trước Lỗ Công làm ông thầy, từng tu phước, tu huệ, nên nay tuy rằng tuổi nhỏ mà thi đỗ khoa cao, sau làm quan đến chức Tể tướng, thấy trong thế tục xem đó không ai hơn vậy.

Song tuy như vậy nhưng đó cũng là một sự sai lầm. Vì sao ? Vì trong thế cuộc phú quý này không lâu dài, hưởng hết phước thì là không. Lại phải theo nghiệp duyên mà đi luân hồi không có khi nào dứt. Chẳng bằng niệm Phật sinh ngay về Tây phương, thấy Phật dứt sinh tử là việc lớn, rồi trở lại làm Tể tướng cũng không muộn gì.

Cho nên tuy vào trong thai bào thọ sinh, nhưng mà một tánh linh mình đây không muội. Sở dĩ tuy ở trong cảnh giới luân hồi, đã không chịu luân hồi, mà tới lui trong đường sinh tử vẫn được tự như vậy. Nay chưa đặng dứt sinh tử, bèn bo bo nhớ ơn nghĩa, vì người làm con, thời không khỏi tâm thân ái hằng ở luân hồi, thật là thất kế lắm vậy.

GIỚI THIỀN SƯ HẬU THÂN ĐÔNG PHA

Chùa Ngũ Tổ ngài Giới Thiền sư, là thân đời trước ông Đông Pha, việc ứng nghiệm chẳng phải một. Do đời trước của ông tu hành, nên đời nay được thông minh hơn người. Do vì tánh ưa quen năm món độc (ngũ dục lạc) chứa trừ, nên đời nay, ý hay diệu lời thi thơ, ngoài chịu sự đày trách (trấn nhậm xứ ngoài sáu năm). Đây cũng là một sự lầm to vậy.

Nếu đời trước làm ông thầy tham thiền mà gồm tu Tây phương nữa, thời ắt đặng sinh Tịnh độ thành tựu đại phước đại huệ đâu còn sinh lại cõi này, chịu nhiều khổ não ư ?

Song nghe ông Đông Pha một hôm đi trấn nhậm phía Nam có mang theo một bức tượng Phật A Di Đà. Người hỏi cớ chi vậy ? Ông đáp Bức tượng này là việc công cứ của ta sinh Tây phương vậy.

Nếu quả như thế, thời ông Đông Pha đến đây mới là đắc kế, đó cũng là thiện căn gieo trồng đời trước, nên nay sáng ngỏ hơn người, và mới ngộ được lý này cớ vậy. 

Ta (Vương Nhựt Hưu) nghe ông Lỗ Trực, đời trước làm người đàn bà tụng kinh Pháp Hoa. Do công đức tụng kinh, nên đời nay thông minh có chức quan. Đây cũng là theo nghiệp duyên mà đến cõi này vậy.

Nếu sinh về Tây phương thì đâu có như vậy mà thôi ư!

TRIẾT LÃO HẬU THÂN ĐA ƯU KHỔ

Có ông Triết Lão thiền sư, trụ trì chùa Đại Sát đất Kinh sư, bốn mươi năm không ngủ, ngồi thiền định khổ như thế. Khi qua đời cũng ngồi và thị tịch, sau khi đem áo bằng giấy thiêu đốt, ra ngọc Xá lợi. Có ông quan trong triều đem 30 ngàn mua một cái áo giấy ấy. Vì áo kia có Xá Lợi cớ vậy.

Ôi! Sự hiệu nghiệm tham thiền của ông đã như thế, nếu ông tu Tây phương, thì chắc được bậc bất thối chuyển địa Bồ Tát, đường sinh tử vẫn tự như. Rồi trở lại thế giới này tế độ chúng sinh, có chi chẳng đặng. Vì không biết tu pháp này, nên mới sinh trong nhà đại phú quý, một đời chịu nhiều sự ưu khổ khá thương vậy ư. Dẫu cho hưởng đại phú quý, rốt cuộc có khi hết, y cựu luân hồi.

Hoặc có người hỏi Sự tu hành tinh tấn của ông Triết Lão như thế, vì lẽ gì mà đời nay phải chịu nhiều sự ưu khổ vậy ?

Ông Vương Nhựt Hưu đáp Đức Phật có nói

Dã linh bá thiên kiếp

Sở tác nghiệp bất vong

Nhân duyên hội ngộ thời

Quả báo hườn tự thọ

Nghĩa là

Dù cho trăm ngàn kiếp

Chỗ tạo nghiệp không mất

Khi nhân duyên gặp gỡ

Quả báo lại mình chịu.

Ngài Vĩnh Gia đại sư cũng nói Dứt sinh tử thời nghiệp chướng xưa nay không, bằng chưa dứt lẽ phải thường nợ trước. Do ông Triết Lão, chưa từng dứt được sinh tử là việc lớn, đời nay tuy sinh trong nhà đại phú quý, chính là tâm nguyện của ông đời trước vậy, cho nên phải chịu nhiều điều ưu khổ, đó chính là lúc nhân duyên gặp gỡ, và phải trả nợ đời trước tới nghìn trăm đời lận. 

Nếu ông sinh Tây phương, thời nợ trước chẳng cần trả vậy. Vì sao ? Vì sinh tử tự như, cho nên tuy vào trong tất cả cõi sinh tử chúng sinh, làm việc tế độ to tát. Nhưng mà một chân tánh của ta không hề mê muội, được siêu thoát ngoài ba cõi, đâu còn phải trả nợ đời trước ư.

Vả luận ông Triết Lão tu hành tinh tấn, còn không thể siêu thoát ngoài ba cõi, đâu chẳng phải ba cõi quá cao, biển khổ kia quá rộng, lượng sóng ba đào kia quá gấp, cho nên không dễ gì siêu thoát được. 

Tu Tây phương mà được siêu thoát ngoài ba cõi là nhờ sức Phật vậy. Đã có sức Phật hộ trì mà không nương tựa, khác nào người bần cùng đói rét, thấy bậc giàu sang mà không nương cậy.

Nhựt Hưu này thương lắm.

CỔ LÃO HẬU THÂN ĐAM PHÚ QUÝ

Có ông Huệ Cổ trưởng lão, trước trụ trì chùa Thái Bình đất Thư Châu, sau qua ở chùa Đại Sát đất Triết Đông, cũng là hàng tôn túc trong sơn môn vậy.

Sau khi chết đầu sinh trong nhà Tể tướng, tuy tuổi nhỏ mà đỗ khoa cao, đời rất là vinh hiển. Song đây cũng là một sự thất kế rất lớn. Vì sao ? Đời trước trai giới, đời nay ăn thịt, ắt nói sự ăn thịt là ngon a ? Đời trước thanh tu đời nay gần sắc dục, ắt nói sự sắc dục là đẹp nhỉ ? Đời trước thiền định, đời nay hưởng phú quý ắt cho phú quý là phải sao ? Ví như voi lớn sa lầy, bước một bước càng lún sâu một bước, khốn sao mà khốn thế!

Kinh Lăng Nghiêm nói Tai nghe và tiếng nghe hết, cái nghe hết cũng không trụ. Tâm giác và cảnh bị giác không, tánh giác không đã viên mãn.

Nghĩa là Sự bị nghe tột rồi, tâm nghe tột cũng không trụ, cho nên nói, tuy hưởng sự khoái lạc trong đời, khác nào cái không trụ nói trên. Cái không trụ trước, đã không trụ thời là quá khứ. Quá khứ thì không được lâu vậy.

Lại có tâm năng giác và cảnh trần bị giác, thì rốt cuộc cũng quy về nơi không. Không thời là chẳng thật vậy. Thiệt đặng nơi đây, không mà giác đó, thời tánh chân giác cực viên, mà không còn sa đọa vậy.

Giả sử ông Cổ Lão mà ngộ đặng lý này (chân giác) thì quyết không sinh trong nhà Tể tướng.

Dầu chưa đặng tỏ ngộ chân tánh, vả tu Tây phương mau thoát khỏi luân hồi cung đặng vậy.

Kinh Lăng Nghiêm nói Người tu hành trong thế gian như lóng nước đục. Lóng đó tuy trong, nhưng chưa gạn bỏ cặn đục, khuấy đó đục lại, là nghĩa nói ông Cổ Lão vậy.

Bằng sinh Tây phương thấy Phật đắc đạo, trở lại sinh thế giới này, thì cũng như gạn bỏ cặn đục, thuần đặng một thứ nước trong, mặc dầu khuấy đó cũng không đục nữa, vậy cho nên dù là hàng tôn túc, mà chưa ngộ được nhân tánh, thời cũng chẳng khá chẳng tu Tây phương. Xem sự tích ông Cổ Lão này cũng đủ làm gương cho lớp sau vậy.

TÂY PHƯƠNG NHƯ HIỆN THỌ QUAN

Ví như người có chức quan nhỏ mà không chịu, ắt muốn tu học làm quan to (trạng nguyên) chí kia vẫn tốt vậy. Song chức Trạng nguyên không thể chắc đặng, vẫn không bằng lãnh liền chức quan nhỏ, một mặt tu học, bằng thi đậu chức quan to thời như trên gấm thêu hoa. Bằng chẳng đặng đó, cũng không mất phần làm quan.

Người tu Tây phương dụ như người lãnh liền chức quan nhỏ vậy. Một mặt tu học là dụ cả tu Tây phương, gồm tu pháp tham thiền nữa vậy. Chẳng đặng chức quan to là dụ kẻ tham thiền chưa tỏ ngộ vậy. Không mất kia, người làm quan là dụ chóng khỏi luân hồi, hưởng sự khoái lạc lớn vậy.

Đã sinh Tây phương, thấy Phật nghe Pháp, đâu có lý nào không đại ngộ ư. Cho nên cái thuyết Tây phương không nên bỏ vậy.

BA BỒ TÁT TU ĐÂU SUẤT

Trong bộ Thập Luận Nghi của ngài Trí Giả có dẫn sự tích ba vị Bồ Tát tu pháp niệm Phật cầu sinh về cung trời Đâu Suất.

1 - Vị tên Vô Trước 

2 - Vị tên Thế Thân

3 - Vị tên Sư Tử Giác 

Ba vị Bồ Tát đây, giao ước với nhau rằng Trong ba người chúng ta, hễ ai sinh về Đâu Suất trước thấy Phật Di Lặc rồi, lập tức trở về báo tin cho biết.

Khi đó vị Sư Tử Giác chết trước vài năm không nghe tin tức. Kế vị Thế Thân tịch, ba năm mới về báo tin nói rằng Tôi sinh về Đâu Suất, lễ Phật Di Lặc, nghe Ngài thuyết pháp, mới được một ngày, lật đật trở về báo tin cho hay đây. Lạ thay cõi trời Đâu Suất một ngày, mà ở cõi nhân gian ba năm vậy.

Vị Vô Trước hỏi Còn ngài Sư Tử Giác thế nào ?

Thế Thân đáp Sinh ngoại viện Đâu Suất đắm trước nhạc trời, tức không thấy được Phật.

Vả chăng ba vị Bồ Tát, tu về Đâu Suất, còn có tham trước không được thấy Phật, ấy là cội gốc luân hồi. Cho nên biết rằng Đâu Suất khó tu và có sa đọa, không bằng Tây phương dễ tu, mà không sa đọa vậy.

Ngài Trí Giả lại nói Có người thấy Phật Thích Ca mà không đắc đạo, còn người tu Tây phương thấy Phật A Di Đà, không có một ai mà không đắc đạo. Thế thì đủ biết rằng Đức Phật Thích Ca, cùng Phật A Di Đà, nguyện lực, công đức, oai thần kia, lớn nhỏ vẫn không đồng vậy.

Cho nên đức Đại Từ Bồ Tát nói rằng Mười phương ba đời Phật A Di Đà là thứ nhất. Niệm danh hiệu Ngài, tiêu tất cả tội liền đặng sinh Tịnh độ là phải vậy.

PHÁP HOA NI HẬU THÂN TÁC QUAN KỶ

Ông Âu Dương tên Vĩnh Thúc làm chức Tri huyện đất Vĩnh Châu, có một con hát nhà quan trong miệng thường bay hơi thơm hoa sen. Khi ấy có ông Tăng biết túc mạng của cô mà rằng Cô này đời trước làm cô ni tụng kinh Pháp Hoa mười năm, vì một niệm tưởng lầm, bèn đến nỗi như thế này.

Ông Tăng lại hỏi Vậy cô có nhớ tụng Kinh Pháp Hoa không ?

Đáp rằng Từ khi thất thân đến nay có rảnh đâu mà tụng. 

Ông Tăng lấy bộ Kinh Pháp Hoa đưa cho thì cô đọc tụng như nước chảy, lấy kinh khác đưa cho, thời cô đọc không đặng. Do đây mà biết lời nói của ông Tăng đáng tin vậy. 

Giả sử, cô ni này biết tu pháp môn Tây phương thì thượng phẩm thượng sinh chắc đặng vậy. Vì không biết nên phải sa đọa đến nỗi làm con hát khá chẳng thương ư! Do đây mà biết, hay đem pháp môn Tây phương này dạy người tu tập, công cứu giúp kia rất lớn vậy, phước đức há dễ lường ư ?

PHẦN TỰ LUẬN

Từ lúc mới sinh cho đến khi xuống mồ, chúng ta chơi vơi như những cái bóng đi tìm chân lý, mà chúng ta tin rằng có. Vừa sinh ra đời chúng ta đã khóc và cũng còn khóc nữa khi ta phải lìa đời. Bị thúc đẩy bởi một sức mạnh vô hình, chúng ta chen vai thích cánh trên đời để làm những cử chỉ hời hợt. Thế nên Phật dạy

Trên bước đường tìm lẽ thật, các ngươi chỉ tin cái gì mà chính các ngươi tự mình sau khi suy luận, nhận là đúng, là hợp với lẽ phải, không trái với lòng mình, và ăn khớp với hoàn cảnh hiện tại. Sử sách, thánh hiền không đủ bảo đảm nếu chính lòng mình không cho, hoặc chưa cho là đúng.

Ngay đối với giáo lý của Phật cũng thế, cốt là các ngươi cố gắng tìm tòi mãi mãi, và một ngày mai kia, nếu các ngươi vỡ lẽ thêm ra, nhận thấu có điều gì đúng hơn, thì đừng ngại ngùng mà không dứt bỏ, những gì mà hôm nay các ngươi đã tin.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

QUYỂN BẢY HẾT

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2022(Xem: 2835)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản, và niệm Phật là con đường nhanh nhất để thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ của cõi Ta Bà. Thường thì bắt đầu vào tuổi thu đông nhiều người mới tập trung tinh thần vào Niệm Phật. Có người thường cho rằng pháp môn Tịnh Độ chỉ mới bắt đầu khi có kiết tập kinh điển lần thứ 3, 4 và về sau này khi Đại Thừa phát triển mạnh.
05/12/2021(Xem: 5003)
Chấp hai tay cúi đầu miệng niệm Phật A Di Đà chào chúc thật cao sâu Khỏe sáng suốt cùng chân lý nhiệm mầu Được trường thọ thăng hoa trong cuộc sống… Sống trong một thế giới vô thường biến đỗi, với đầy sự nhiễu nhương, tang thương, chết chóc, do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, xảy ra trước mắt hằng ngày, gây lắm khổ đau, điển hình như Covid-19 (với đầy ác khí) như hiện nay, cũng khiến cho nhiều người lo sợ, khủng hoảng và thức tĩnh. Thấy rõ được rằng, mọi cơ sở vật chất, với nhiều năm đầu tư xây dựng, chỉ một cơn động đất, sóng thần hay bão lửa, lũ lụt nổi lên, sẽ tan tành theo mây khói. Một đời người với biết bao nhiêu lo toan, tính toán, hy vọng, ước mơ, một cơn đại dịch xảy ra, đành âm thầm ra đi trong tức tưởi, không một người thân đưa tiễn, tất cả tài sản bao năm gầy dựng, phải bỏ lại, không mang theo được gì!
30/11/2021(Xem: 4168)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 11550)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 5186)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
03/09/2021(Xem: 30995)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 8942)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 8449)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
01/08/2021(Xem: 9929)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
30/08/2020(Xem: 5709)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567