Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Tịnh Song Tu.

22/04/201311:54(Xem: 5738)
Thiền Tịnh Song Tu.


Thiền Tịnh SongTu

Ni Trưởng Như Thanh

---o0o---

HỔI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Theo gương Sư trưởng, bằng tấm lòng thiết tha phụng sự Đạo pháp và chúng sanh, đệ tử chúng con đã kết tập những lời chỉ dạy của Thầy về pháp "Thiền Tịnh Song Tu" và ấn tống quyển sách này.

Nguyện cho quyển sách nhỏ này được lưu thông rộng rãi và pháp Thiền Tịnh song tu được phổ cập trong đại chúng để mọi người con Phật đều được hưởng pháp lạc, pháp vị và cùng được vãng sanh về Cực Lạc, quê hương muôn thuở.

Nguyện đem công đức này trang nghiêm cõi Tịnh của Đức Phật A Di Đà và hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đều phát đại Bồ đề tâm, viên thành Phật đạo.

Nam mô Công Đức Lâm Bồ-tát.

-ooOoo-

THAY LỜI TỰA

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch Giác linh Thầy,

Thầy đã đến như một vầng mây ngũ sắc, Thầy ra đi như một làn mây bạc nhẹ nhàng tan trong gió:

"Ngày về Phật là ngày thoát hóa,
Xác thân này tan rã còn chi!
Có Không, Không Có ra gì,
Như làn mây bạc, tan đi nhẹ nhàng…"

Qua những vần thơ di chúc, qua những chứng tích vãng sanh mà Thầy đã thị hiện, đệ tử chúng con có thể minh định rằng khi chùa Huê Lâm vắng bóng Thầy là lúc đóa sen nơi Liên Trì Hải Hội vừa nở. Đức Phật A Di Đà cùng bao Thánh chúng hoan hỉ đón một đệ tử, một bạn hữu vừa trở về sau thời gian hành Bồ-tát Đạo nơi cõi Ta-bà nhiễu nhương ngũ trược:

"Ngày về Phật thênh thang nhẹ gót...
...Như người cất bước dặm trình quê xưa

Kính bạch Giác linh Tôn sư,

Sau hơn 60 nãm hành Đạo hóa đời, Thầy đã để lại một đạo nghiệp lớn lao gồm đủ vô vi và hữu vi, đã nâng cao trình độ tu học của đại đa số Ni chúng miền Nam, thành lập Ni Bộ Bắc Tông, chỉnh đốn kỷ cương lề lối, nghiêm trì giới luật nhằm đào tạo những người con Phật đầy đủ phẩm chất đạo hạnh để gánh vác Phật sự, đảm đương vai trò sứ giả Như Lai.

Hơn ai hết, là đệ tử của Thầy, không luận là xuất gia hay tại gia, tất cả chúng con đều được hưởng thâm ân giáo dưỡng, lại được thấm nhuần hạnh giáo vô ngôn mà Thầy đã thể hiện qua cách hành xử của một Bồ-tát suốt đời vì Đạo quên thân.

Thầy đã đi vào sinh tử để cứu nguy sinh tử. Lẽ nào chúng con vô tâm như những người con của vị trưởng giả, cứ mải mê vui chơi trong ngôi nhà lửa đỏ vây quanh?

Chúng con ý thức được mình phải làm gì để tiếp tục hoài bão, kinh dinh đạo nghiệp của Thầy và tự giải thoát ra khỏi khổ đau sinh tử. Một trong những cố gắng của chúng con là in ấn, lưu truyền lại pháp THIỀN TỊNH SONG TU mà Thầy đã truyền dạy cho chúng con từ bấy lâu nay, do Phật tử Diệu Nga biên soạn lại.

Thực hành và lưu thông pháp "Thiền Tịnh Song Tu", theo thiển ý của chúng con, là phương cách thực tiễn để tự độ, độ tha, giúp mình và người đều có phương tiện thoát ly sanh tử luân hồi.

Nhân lễ Đại tường của Thầy hôm nay, chúng con xin kính dâng quyển sách nhỏ này lên Thầy chứng minh.

Chúng con ngưỡng mong chư Tôn đức từ bi chỉ chính cho những điều sai sót để chúng con có cơ hội học hỏi và làm cho quyển "Thiền Tịnh Song Tu" được hoàn bị hơn.

Chúng con ngưỡng cầu Chư Phật từ bi gia hộ cho những ai có dịp đọc qua quyển sách này đều phát lòng kính tin, ngưỡng mộ và thực hành cho đến khi thành tựu viên mãn pháp môn vi diệu Thiền Tịnh Song Tu.

Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ-tát
Nam mô Từ Lâm Tế chánh tông, đệ tứ thập thế, Sư trưởng Ni Bộ Bắc Tông, Huê Lâm đường thượng, Tỳ-kheo-ni Hòa thượng thượng Như hạ Thanh, liên tòa chứng giám.

Hàng đệ tử xuất gia và tại gia đồng kính lễ tam bái.

-ooOoo-

LỜI NÓI ĐẦU

Trong mười tông phái chính của Phật giáo thì Thiền tông và Tịnh độ tông được phổ cập nhiều nhất, trải qua mấy ngàn nãm nay. Thiền xuất hiện sớm, từ thuở Sơ tổ Ca Diếp ở Ấn Độ được Đức Phật Thích Ca truyền tâm ấn đã phát triển rực rỡ ở Tây Thiên với sự tiếp nối truyền thừa của 28 vị Tổ. Vị Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma, đã vâng lời Sư phụ là Bát Nhã Đa La (Tổ thứ 27) rời Thiên Trúc sang Đông Độ (nãm 520) để truyền trao mạch Thiền.

Ngài Bồ Đề Đạt Ma trở thành vị Tổ thứ nhất của Trung Hoa. Liên tục đến đời thứ sáu thì Thiền Trung Hoa chia làm hai nhánh, ngài Huệ Nãng ở phương Nam chủ trương đốn tu đốn chứng, ngài Thần Tú ở phương Bắc thì dạy tiệm tu tiệm ngộ.

Từ đó, nguồn Thiền lan rộng không chỉ ở Trung Hoa mà còn sang các nước ở vùng Đông Nam Á tạo thành nhiều hệ phái tùy theo sắc thái đặc biệt của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Mặc nhiên, mọi người đều xem Thiền tông là phái quan yếu lưu truyền mạng mạch Phật Pháp.

Tịnh độ tuy cũng được Đức Bổn Sư Thích Ca giảng nói và kinh sách Tịnh độ cũng được kết tập rõ ràng sau khi Phật nhập diệt, nhưng sự phát triển ở bước đầu không đáng kể. Điều đáng ghi nhận là Bồ-tát Mã Minh (vị tổ thứ 12 của Ấn Độ) trong Khởi Tín Luận đã ca ngợi pháp môn niệm Phật cầu sanh Tây phương và chính Ngài cũng phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực Lạc. Đến đời Tổ thứ 14 là ngài Long Thọ (100 – 200 TL) với Trúc Tỳ Bà Sa cũng hết lời tán thán cảnh Tây phương và tôn sùng pháp môn niệm Phật.

Tuy nhiên pháp môn này không phát triển ở Ấn Độ. Mãi đến về sau, ở Trung Hoa, đời Nam Tống, nhờ Tổ Huệ Viễn hết lòng xiển dương mà pháp môn Tịnh độ bắt đầu đơm hoa kết trái, thành tông phái rõ ràng, được sự tiếp nối tổng cộng đến 13 vị Tổ mà ngài Ấn Quang là vị sau rốt. Từ ấy đến nay, tuy không có vị Tổ nào xuất hiện, nhưng pháp môn Tịnh độ đã đi sâu vào quảng đại quần chúng từ nước Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu đến Nhật Bản và Việt Nam. Vô số người được vãng sanh với chứng tích đầy đủ rõ ràng.

Vì hay có sự chống đối luận biện, đả kích giữa hành giả tu Thiền và Tịnh nên nhiều người cho rằng Thiền và Tịnh đối nghịch mâu thuẫn nhau như nước với lửa. Thực ra, trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền. Hai pháp môn này bổ sung cho nhau một cách tuyệt hảo, cho nên từ đời Tổ Liên Trì Đại Sư ở Trung Hoa, Ngài đã đề xướng lý Nhất tâm đế hội thông Thiền Tịnhđể hòa dung Thiền và Tịnh. Từ đó khai sinh pháp Thiền Tịnh song tumà kết quả bảo đảm được Tổ Vĩnh Minh Diên Thọ xác nhận như sau: "Người nào vừa tu Thiền vừa tu Tịnh độ cũng như cọp có thêm sừng. Đời này làm thầy người, đời sau sẽ thành Phật, tác Tổ."

Trong khuôn khổ của bài này, chúng tôi xin trình bày thế nào là Thiền Tịnh song tu, từ lý giải đến sự hành trì. Chúng tôi tuy chỉ là đám cỏ non dưới gốc cây đại thụ, nhưng vì sự lợi ích thực tiễn của pháp tu Thiền Tịnh, xin mạo muội trình bày cùng quý Phật tử khắp nơi để chúng ta chung hưởng Pháp lạc.

Bài tiểu luận này gồm những đề mục sau đây:

1. Những điểm dị biệt và tương đồng giữa Thiền và Tịnh.

1.1 Những điểm dị biệt
1.2 Những điểm tương đồng

2. Thiền và Tịnh bổ sung cho nhau

2.1. Trong Tịnh có Thiền
2.2. Trong Thiền có Tịnh
2.3. Tự lực và tha lực phải đầy đủ

3. Thế nào là Thiền Tịnh song tu?

3.1. Lý giải
3.2. Hành trì

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2010(Xem: 3868)
Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thế nhưng sự vận hành này tuy tự nhiên nhưng không phải hoàn toàn phóng túng, bừa bãi, vô tổ chức…mà có chọn lọc. Chúng ta có thể ví lỗ tai (nhĩ căn) của chúng ta giống như một chú lính. Khi nhận được một tín hiệu, một thông điệp, một tin tức nào…thì chú vội vàng báo ngay cho chủ tướng của mình – không ai khác hơn là chính Ta. Mà cái Ta này chính là cái Tôi hay cái Ngã do Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tị (Mũi), Thiệt (Lưỡi), Thân, Ý (Ý thức) kết hợp lại mà thành.
12/09/2010(Xem: 4638)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5667)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5331)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9315)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4467)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3474)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6307)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6861)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567