Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vấn đề tự lực và tha lực.

22/04/201311:48(Xem: 5362)
Vấn đề tự lực và tha lực.

VẤN ĐỀ TỰ LỰC & THA LỰC

Minh Đức Thanh Lương

---o0o---

Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.

Đứng trước sức mạnh cuồng bạo của thiên nhiên, loài người tự cảm thấy mình nhỏ nhoi yếu đuối, sợ bị tiêu diệt, nên mới phải thần phục sức mạnh của tạo hóa và dựa vào tha lực để an tâm lập mệnh. Đó là cãn bản của bản nãng sinh tồn mang nặng tính chất ỷ lại và vô minh, ngã si và vị kỷ. Nhưng mặt khác, trong con người biết suy nghĩ, lại có sức mạnh tinh thần quật khởi, có ý chí khát khao tự do muốn vươn lên để địi hỏi con người phải ức chế dục vọng để tự cứu mình thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên, nhất là ngày nay khoa học đã tiếp tay giúp loài người đoạt quyền tạo hóa trong mọi lĩnh vực, con người đ?cảm thấy rằng mình đã nhiều phen thoát khỏi sự chế ngự của thiên nhiên.

Giữa hai lập trường trái ngược đó, hoặc là ỷ lại vào tha lực, thường thường là một đấng thần linh cao cả, ban phúc giáng họa cho con người, giao phó tính mệnh của mình vào tay con tạo xoay vần, không còn tin ở tài sức của mình nữa, hoặc là chỉ dựa vào tự lực vùng lên với tinh thần dũng mãnh để tự giải thoát, không cầu mong ở bất cứ ai\. Còn một khuynh hướng thứ ba là dung hòa cả hai phái trên, đi theo con đường "Thần, Nhân hợp tác" hay "Tự, tha đồng hiệp lực" (Synergisme). Trong Phật giáo Đại thừa, vấn đề tha lực và tự lực đã từng được nhiều nhà bình luận cổ kim tranh biện, làm nổi bật hai khuynh hướng tư tưởng khác nhau:

1. Một khuynh hướng thì thừa nhận chúng sinh nào cũng có Phật tính và khả năng thành Phật, do đó phải tìm cách phát huy năng lực sẵn có của mình : đó là lập trường của Thiền tông với chủ trương "trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật", quy tự lực vào một mối nhằm đạt tới Phật tính, chân tâm của mình.

2. Một khuynh hướng thì tin rằng, các vị Bồ tát đã sẵn có lòng từ bi và lập nguyện sâu dày cứu độ chúng sinh, nếu chưa độ tận chúng sinh thoát vịng khổ đau sinh tử, thì các Ngài quyết không thành Phật, cho nên chẳng ai lại dại mà không cầu Phật cùng các Bồ tát có thần lực hơn hẳn mình cứu giúp để được giải thoát :

Đó là lập trường của Tịnh Độ tông và Chân Ngôn tông, quy về nguyện lực của chư Phật và Thánh hiền.

Lập trưòng của Thiền tông là chỉ trông cậy vào chính mình, khắc phục tự tâm để tiến tới giác ngộ, giải thoát. Những người tu thiền phải là bậc thượng căn, hội đủ năm điều kiện thiết yếu sau đây mới mong đạt tới Thánh quả :

a. Giữ giới trang nghiêm.

b. Cãn cơ sắc bén.

c. Thông hiểu giáo lý và phân biệt rành rẽ chân vọng, chánh tà.

d. Có ý chí cương quyết tiến tới mục đích đã định, không chịu l? bước trước mọi chướng ngại trên đường tu.

e. Ngoài ra, còn phải nương cậy vào một bậc Thiền sư dẫn đạo cho mình, tức là vẫn phải đi theo con đường "Tự, tha đồng hiệp lực". Tuy phần lớn nhờ vào ý chí sắt đá của mình để quyết định công phu tu tập, nhưng muốn chứng ngộ thì Thiền sinh phải tùy thuộc vào một yếu tố then chốt gọi là "Thời tiết nhân duyên bất khả tư nghị", nghĩa là dù hành giả có nỗ lực tới đâu mà "thời tiết nhân duyên" chưa tới thì vẫn chưa thể chứng ngộ được. Bởi vì sự chứng ngộ là trạng thái bộc phát bần thần, cũng như hòn than hồng phải được thổi hay quạt vào để cho sức nóng của nó gia tãng tới mức độ cao nhất, mới mong bốc thành ngọn lửa được. Có thể nói đó là một loại "Thần khải" (Révélation). Sự bộc phát bất thần ấy tức là sự "Hốt nhiên khai ngộ" mà ngưòi Nhật Bản gọi là Satori, là giây phút thần diệu, thiêng liêng xảy ra trong trường hợp đặc biệt mà người tu coi là một sự kiện mặc nhiên khai ngộ, siêu việt mọi suy tư, ngôn ngữ. Giây phút thần diệu thiêng liêng ấy chỉ đến với Thiền sinh vào lúc hành giả ở trong đại định hay quán tưởng chín muồi và chỉ riêng người chứng ngộ ấy tự biết mà thôi, cũng ví như người uống nước trà mới thưởng thức mùi vị đậm nhạt, thơm ngon và nóng lạnh của chén trà mình vừa mới uống. Như trên đã nói, tuy sự hốt nhiên khai ngộ là kết quả chủ yếu của công phu tu luyện bền gan lâu dài của hành giả, nhưng dù cho khắc phục, gian nan khổ luyện tới mức nào cũng vẫn chưa đủ, mà còn phải đợi "thời tiết nhân duyên" bất khả tư nghị kia tới với mình mới thành tựu được việc lớn hằng ước mong. Bởi thế, cái "thời tiết nhân duyên" ấy đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong sự thành công của hành giả. Câu nói : "Hữu cầu tất ứng, hữu cảm tất thông" thường được d?g đến có nghĩa là Thiền sinh phải đợi tới lúc thời tiết nhân duyên đến với mình. Và câu "Thôi trác đồng thời" nghĩa là tình trạng quả trứng khi sắp nở, chim non ở trong quả trứng thôi thúc muốn thoát ra ngoài thì ngay lúc đó chim mẹ phải mổ vào vỏ trứng, làm cho cái vỏ đó rạn nứt mới giúp cho chú chim con phá được vỏ trứng vây bọc nó mà chui ra ngoài. Cảnh chứng ngộ của Thiền sinh cũng vậy, phải do nỗ lực song phương của hành giả phối hợp với tha lực và thời tiết nhân duyên, trong ngoài nhất trí mới mong đạt tới giây phút thiêng liêng của sự Đại ngộ. Như vậy thì tự lực vẫn cần phải có tha lực, nhưng ở vào mức độ có giới hạn, không ỷ lại quá đáng vào tha lực mà thôi.

Xét về chủ nghĩa tha lực, nhgĩa là không tin ở tài sức của mình mà chỉ trông cậy vào sự giúp đỡ của một thế lực ngoại lai, thường là một đấng thiêng liêng nào đó, nhưng nếu không diệt được tự ng? tức là không từ khước được ý chí tự kỷ một cách triệt để thì không thể hướng vào tuyệt đối được. Cũng ví như người đi biển gặp nạn đắm thuyền, cố bám vào một mảnh ván trôi lênh đênh giữa bể khơi trong cơn giông tố, nghĩa là ở trong cảnh tuyệt vọng tột đỉnh chờ chết, không còn tin vào sức mình để được cứu thoát nữa, nếu không thiết tha mong cầu thần lực của những thế lực siêu nhiên thì khó lòng thoát khỏi thủy tai\. Muốn được cứu thoát, tất phải nỗ lực xả kỷ và tinh tấn cầu nguyện lực của Phật để được giải thoát mà không tinh tấn diệt trừ vọng niệm, cùng những nết xấu tật hư, chỉ niệm Phật suông mà thôi, trong khi vẫn cứ buông thả cho lục dục, thất tình của mình làm càn thì tất nhiên không thể đạt được nguyện vọng. Cũng ví như người sắp chết đuối, chỉ cịn cái phao để bám vào, nếu không biết giữ gìn cái phao cho tốt, lại còn phạm lỗi hủy hoại cái phao đó thì tha lực cũng khó lòng cứu nổi\. Cuối cùng, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng, tự lực vẫn phải nhờ vào tha lực và trong tha lực vẫn có tự lực hàm chứa\. Tha lực với tự lực chẳng qua chỉ là sự bất đồng trên mặt danh từ mà thôi, chứ thực chất thì không có sự tách biệt gì trong vấn đề đó cả. Trong tự có tha, trong tha có tự, không n? câu nệ danh ngôn để tách biệt tự lực và tha lực. Pháp môn niệm Phật trên cả hai đường lối Sự trì danh và Lý trì danh hiệu Phật A Di Đà, đều địi hỏi phải có sự nỗ lực quyết tâm vượt bậc và vững tin ở tài sức của mình và cũng tin cậy vào cả nguyện lực của chư Phật gia hộ nữa. Có tự lực dũng mãnh lại thêm được tha lực gia hộ thì tự lực ấy càng vững mạnh, tăng lên gấp bội và trở thành một sức mạnh vô biên. Như vậy thì bất luận dựa vào tha lực hay tự lực, danh từ tuy khác nhau, song đều đưa tới kết quả là diệt trừ được phiền n?, nhiễm ô, được giác ngộ, giải thoát và chung cuộc, nếu dựa vào tha lực lấy việc niệm danh hiệu Phật làm nhân, sẽ được hái quả vãng sinh Tịnh độ, nghĩa có Định thì có Tuệ, do đó mới nói rằng : Vãng sinh Tịnh độ tức là thành Phật hay trở về với chân tâm, Phật tính của mình.



Source : Nguyệt San Giác Ngộ, số 66/2001

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/08/2014(Xem: 11242)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
26/05/2014(Xem: 5626)
Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ Tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sanh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy) và Hán Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.
14/05/2014(Xem: 5935)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 9263)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 7425)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 8121)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
03/02/2014(Xem: 6626)
* Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con
26/12/2013(Xem: 10492)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 20261)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 12734)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567