Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát Hiện Nếp Áo Tiểu Thừa Trên Tượng Trần Nhân Tông

23/06/201100:38(Xem: 660)
Phát Hiện Nếp Áo Tiểu Thừa Trên Tượng Trần Nhân Tông


PHÁT HIỆN NẾP ÁO TIỂU THỪA

TRÊN TƯỢNG TRẦN NHÂN TÔNG
Trần Ngọc Linh

- Thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại Thừa vậy nếp áo Tiểu Thừa của đệ nhất tổ một dòng thiền Đại thừa mang ý nghĩa gì?
tuongtrannhantong
Tượng Trần Nhân Tông tại Tháp tổ Huệ Quang.

700 năm sau ngày mất của đức Trần Nhân Tông, tìm về Yên tử để chiêm bái thêm một lần pho tượng của ngài hiện đặt trong tháp tổ Huệ Quang. Tương truyền pho tượng đó cho chính vua Trần Anh Tông cho tạc ngay sau một năm ngài mất. Pho tượng được tạc bằng đá xanh Ninh Bình, chia ra làm 2 phần, một phần ngai có bốn mặt hổ phù đặt rời phần bệ và tượng.

Bệ và tượng được tạc trên cùng một khối đá, hoa văn bệ tượng đơn giản viền ngoài là hoa cúc đời Trần, lớp trong là hai con rồng chầu hoa sen. Chỉ cần đọc những lớp mã ý nghĩa ở phần bệ tượng thôi cũng là cả một điều thú vị.

Phần ngai bốn chân hổ phù bắt buộc phải rời khỏi phần bệ vì Trần Nhân Tông là vị vua xuất gia đi tu; ở phần bệ gắn liền với tượng có trang trí hoa văn hoa cúc vốn là biểu tượng văn hóa của triều đại nhà Trần; rồng chầu hoa sen (không phải là rồng chầu mặt nguyệt, hay hỏa châu) cho thấy vào đầu triều đại nhà Trần đến đời vua Anh Tông, Phật giáo chính là quốc giáo của Đại Việt, hình tượng con rồng biểu tượng cho quyền lực của nhà vua chầu một đóa hoa sen được cách điệu là biểu tượng của Phật giáo. Sách Thánh đăng ngữ lục còn chép lại: Mùa đông năm Giáp thìn (1304), vua Anh Tông dâng biểu xin thụ Bồ tát giới tại gia.

Nhưng mã văn hóa không chỉ nằm lại ở phần bệ tượng mà dồn cả vào pho tượng vua Trần Nhân Tông. Pho tượng cao khoảng 50cm, vua Nhân Tông trong tư thế của một vị thiền sư ngồi kiết già, hay tay đặt lên đầu gối, tay phải bắt ấn, tay trái đặt buông gần đầu gối, vua ngồi thiền mở mắt, ánh mắt được các nghệ nhân dân gian điểm nhã trông hiền từ, pho tượng đẹp giản dị toát lên một vẻ thoát tục.

Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng được nhìn tận mắt pho tượng đức Nhân Tông ở trong tháp tổ về chất liệu và kỹ thuật điêu khắc về pho tượng trong tháp Huệ Quang cho biết: “Chỉ riêng cánh tay của pho tượng, với kỹ thuật chế tác đá trên chất liệu như thế và thời bây giờ phải thợ lành nghề phải làm hết ba tháng”. Nghệ nhân Nguyễn Tiến Dũng đã về thử làm một phiên bản như vậy trong sự hỗ trợ rất nhiều của máy móc hiện đại trong vòng một tháng hoàn thành được tác phẩm chỉ đạt được độ chính xác 70% so với mẫu trong tháp.

Trước đó một nhóm họa sĩ của Vụ Mĩ Thuật cũng tiến hành dựng phiên bản bằng thạch cao trong dự án dựng tượng vua Trần Nhân Tông trên đỉnh An Kỳ Sinh sau thời gian tương đương như thế đã nặn một phiên bản khác nhưng không một nét nào mang hình ảnh của Trần Nhân Tông.

Tượng vua Nhân Tông trong tháp tổ Huệ Quang quả là công trình tuyệt mĩ về mặt mĩ thuật, nhưng đặc biệt hơn cả là pho tượng đó tồn tại trong đó những bí ẩn mà mãi cho đến ngày nay chúng ta mới đặt câu hỏi và bắt đầu trên con đường khám phá: Đó chính là nếp áo tiểu thừa mà những người thợ chế tác cùng thời khoác cho bức tượng.

Như chúng ta đã biết rõ ràng thiền phái Trúc Lâm nằm chung trong hệ thống Phật giáo Đại Thừa vậy nếp áo Tiểu Thừa của đệ nhất tổ một dòng thiền Đại thừa mang ý nghĩa gì?

Tìm lại một chút lịch sử các pho tượng cổ vua Nhân Tông, ngoài pho tượng đặt trong tháp Huệ Quang ra còn có một số pho tượng khác vua cũng mặc áo tiểu thừa: hệ thống ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ ở Côn Sơn; ba pho Trúc Lâm tam tổ đặt thờ trong chùa Đồng cũ được xây dựng đầu thế kỷ 20… còn lại đa phần các pho tượng khác vua vẫn mặc áo Đại Thừa.

Giở lại một số sách sử chép về cuộc đời bắt đầu khi vua xuất gia tu hành đến đắc đạo thành Phật ta thấy có một số sự kiện sư sau:

Sách Thánh Đăng Ngữ Lục chép: “ Năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ 7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà”

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: “Tháng 8 (năm kỷ hợi) Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”

Sách Thánh Đăng ngữ lục chép lại: Khi mất vua Nhân tông được tôn hiệu Đại thánh Trần triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Huệ Điều Ngự Tổ Phật.

Như vậy có một điều khẳng định là vua Trần Nhân Tông đã tu hành theo pháp giới hạnh đầu đà thuộc Tiểu thừa để rồi sau này đắc đạo thành Phật

Sau khi vua vào Yên Tử tu tập, vẫn theo sách Đại Việt Việt Sử Ký Toàn Thư thì tháng 3 năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng Nhân Tông đi sang Chiêm Thành, và chính chuyến đi này ngài đã làm một nước cờ chính trị vô cùng khôn khéo là dàn xếp cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm Chế Mân lấy công chúa Huyền Trân nhà Trần để đổi lấy hai châu Ô, Lý mà không mất một mũi tên hòn đạn. Cuốn sử trên cũng ghi chép khá rõ ràng diễn biến cuộc hôn nhân này:

Rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), sau chuyến đi Chiêm về, Thượng hoàng mở Pháp hội vô lượng bố thí tiền bạc cho dân nghèo tại chùa Phổ Minh; tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng tiếp một vị sư tu theo lối Du Già ở Chiêm Thành sang nước ta; Tháng 2 năm Ất Tị(1305) nước Chiêm sai Chế Bồ Đài mang phẩm vật bàn chuyện hôn sự; tháng 6 năm Bính Ngọ(1306) tổ chức đám cưới cho công chúa Huyền Trân và vua Chiêm là Chế Mân; tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Chế Mân mất cũng chính ngài là người sai Trần Khắc Chung đem quân lừa đưa được công chúa về tránh cảnh con gái mình phải thiêu cùng vua Chiêm.

Như vậy có thể nói chỉ có thời gian từ tháng 8 năm 1299 đến tháng 3 năm 1301 trong sử không thấy chép gì những chuyện của vua Nhân Tông trong thời gian ở Yên Tử, chứng tỏ trong thời gian này ngài ở Yên Tử và tu tập rốt ráo trong thời gian gần 2 năm. Tuy vậy sau 2 năm tu hành ngộ đạo, tính từ khi ngày xuống núi có buổi thuyết pháp đầu tiên giảng về Khóa Hư Lục tại chùa Vĩnh Nghiêm thì những việc đối ngoại quan trọng của đất nước trong đó có chuyện lấy hai châu Ô, Lý chính là do một mình vua Nhân Tông chỉ đạo.

Sau một thời gian xuất thế để tu đạo, cả một quãng thời gian dài sau thời điểm chứng đắc ngộ đạo Trần Nhân Tông đóng vai trò là một thiền sư nhập thế. Suốt từ năm 1301 cho đến cuối đời thái độ xuất thế và nhập thế của vua Trần Nhân Tông luôn có sự biến đổi. Lúc ngài trong hành trạng của một vị khất sĩ ngay trong kinh thành của nước Chiêm; có lúc ngài như một thiền sư Lâm Tế trong buổi giảng về thiền tại chùa Sùng Nghiêm vào năm 1304 theo lời tả trong sách Thánh Đăng Ngữ Lục; có lúc ngài nhập thế như một nhà Nho khi tính nước cờ chính trị vô cùng sáng suốt để đổi lấy hai châu Ô, Lý... Chính thái đội hành tàng xuất xử của ngài làm cho nhiều người tìm hiểu về cuộc đời của ngày như lạc vào trong một mê cung và có lẽ chính từ đây câu chuyện về Thiền Phái Trúc Lâm mới được bắt đầu giở sang một trang mới.

Cuối tháng 12 vừa rồi, có dịp đi lại trên con đường rất nhiều khả năng đó chính là con đường cổ xích tùng mà vua Trần Nhân Tông đã đi vào Yên Tử để tu khổ hạnh. Cuối con đường chúng tôi vô cùng ngạc nhiên về một rừng tùng cổ thụ mở ra trước mắt, những thân cây lớn độ hai người ôm mọc thành rừng với số lượng khá nhiều, bên cạnh là một rừng trúc, những thân trúc to bằng cổ tay mọc thẳng đứng rắn rỏi, mỗi cơn gió len được vào nơi đây đều làm những lá trúc reo lên trên những tay trúc mảnh dẻ, rồi bất chợt một vài chiếc là vèo rụng như nhắc nhở du khách về kiếp phù sinh của đời người.

Một vị thiền sư chỉ cho tôi mé bên kia của rừng Tùng, rừng Trúc này là một rừng Mai vàng. Rừng mai mọc ở bên đằng thác vàng chạy dọc từ chùa Hoa Yên xuống vị trí ga cáp treo bây giờ, vào những tháng xuân, du khách hành hương rợp ngợp trước một rừng mai vàng trên triền núi Yên Tử, đoạn từ am Thiền Định sang Thác Vàng vốn ít khách qua lại đến ngày tết trong không khí lành lạnh của những ngày đông đang còn vương vấn, ngắm hơi núi phả ra những dải sương và cánh mai vàng rơi lác đác trên con đường đá thật không có gì khoái hoạt bằng.

Bất giác tưởng tượng đến cảnh đó, nghĩ đến ngày cuối năm mà nhớ tới câu thơ của Huyền Quang Lý Đạo Tái: Tuế vãn trung sơn vô lịch nhật/Cúc khai hoa xứ tức trùng dương (Năm gần hết, giữa rừng không có lịch/ Thấy hoa cúc nở, biết là tiết trùng dương đến rồi); đọc hết câu mới giật mình khám phá ra một điều vô cùng thú vị: Hóa ra ở Yên Tử ngay từ sớm đã song hành tồn tại “tứ quý”: Tùng – Cúc – Trúc – Mai là những vẻ đẹp tượng trưng cho đức hạnh của người quân tử theo mĩ học Nho giáo.

Một thánh địa của Phật giáo lại chất chứa trong đó những vẻ đẹp biểu tượng cho đức hạnh của người quân tử theo quan niệm Nho giáo thì quả là đặc biệt. Nếu lạm nghĩ thêm một tí nữa thì trước đó rất lâu tượng đá An Kỳ Sinh đã đứng sừng sững gần hai mươi thế kỷ. Và chỉ nghĩ thêm được chừng đó thôi mọi thứ đã gần thông suốt trên quãng đường đi khám phả chỉ một dải núi men sườn dãy Yên Tử đã tồn tại ba vẻ đẹp của ba thứ tôn giáo hòa chung trong nhịp đập mà trái tim chính là Thiền Phái Trúc Lâm.

phathiennepaotieuthua-1

phathiennepaotieuthua-2
phathiennepaotieuthua-3
phathiennepaotieuthua-4

Nhớ lại một câu nói nữa cũng của thiền sư Phù Vân với vua Thái Tông cũng được chép lại trong cuốn sách Thiền tông chỉ nam tự: Sơn bản vô Phật/Duy tồn hồ tâm/Tâm tịch nhi tri/Thị danh chân Phật; Để đến sau này trong yếu chỉ của mình mà chính là của Thiền phái Trúc Lâm với bài phú Cư Trần Lạc Đạo đức Điều ngự giác hoàng đã tiếp nhận một lần nữa lời nói của thiền sư Phù Vân trong câu: Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền. Câu của vua Thái Tông chép lại có nghĩa là: Trên núi vốn không có Phật/ Phật chính nằm trong tâm/ Tâm lặng mà biết được/Đấy chính là Phật thật sự.

Trần Ngọc Linh

TIN LIÊN QUAN
Phát lộ dấu vết am Ngọa Vân- Yên Tử, Trần Ngọc Linh
Phát hiện đường Xích tùng cổ trên Yên Tử,Trần Ngọc Linh

02-06-2008 11:23:12

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2024(Xem: 979)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 564)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3249)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
18/04/2023(Xem: 3490)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2137)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5374)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
21/08/2022(Xem: 3620)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
30/11/2021(Xem: 4142)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 11438)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 5145)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567