Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

XIX. Quân-phân Xá-lỵ

17/05/201313:16(Xem: 9518)
XIX. Quân-phân Xá-lỵ

Kinh Đại Bát Niết Bàn [1]

XIX. Quân-phân Xá-lỵ

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Đông Tấn, Sa Môn Thích Pháp Hiển

Khi ấy, vua A-Xà-Thế (Ajàtasatru) con bà Vi-Đề-Hy (Vaidehi) nghe thấy phái Lực-sĩ kia, thu Xá-lỵ Phật, đặt trên lầu cao, nghiêm-bị bốn loại binh để phòng-vệ, thủ-hộ, tâm rất buồn-rầu, áo-não, lại phẫn-nộ với những người phái Lực-sĩ kia, nhà vua liền cho người đưa tin đến bảo phái Lực-sĩ kia rằng: “Đức Thế-Tôn tại thế, cũng là Thầy của ta, khi ngài nhập Niết-Bàn ta ân-hận không tới yết-kiến được; vả lại, họ ta và họ Thế-Tôn đều thuộc dòng Sát-lỵ, nay sao các ông, riêng thu Xá-lỵ Ngài đặt trên lầu cao, nghiêm-bị bốn loại binh, để phòng-vệ, thủ-hộ, mà không chia cho người khác? Các ông nên đem một phần cho ta, ta muốn tại nước ta, xây một ngôi tháp quý, sắm mọi thứ cúng-dàng để cúng-dàng Ngài. Các ông nếu thuận cho, thời hai nước thông-hảo mãi, bằng các ông không thuận, ta sẽ dấy binh sang đánh nước các ông!”
Và, bảy Quốc-vương kkhác cùng các người phái Ly-xa, thành Tỳ-da-ly…, cũng đều sai sứ sang với phương-pháp như thế. Ngay cả đến Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ, cũng đều sai sứ đem tin sang nói với phái Lực-sĩ rằng: “Đức Thế-Tôn cũng là Thầy chúng tôi, mong các ông thương-xót tới, cho chúng tôi một phần Xá-lỵ Ngài!”
Khi, sứ-giả của các nước đến chỗ phái Lực-sĩ, tuyên-ngôn đầy-đủ ý của các Quốc-vương của họ.
Phái Lực-sĩ nghe rồi, mang tâm bất-bình lắm, đáp các sứ-giả rằng: “Đức Phật lại nước chúng tôi. Ngài nhập Niết-Bàn, Xá-lỵ của Ngài tự-nhiên thuộc chúng tôi. Nếu các người muốn xây tháp trang-nghiêm cúng-dàng trên quốc-giới mình, việc ấy không thể được. Khi nào tháp ở đây hoàn-thành, mặc ý các ông cùng lại đây cúng-dàng lễ-bái vui-vẻ với chúng tôi. Còn nếu các ông muốn dấy-binh, hướng về nước này, thì quân-chúng nước này cũng đủ để chống-chọi với nhau!”
Bấy giờ, các sứ-giả của các nước kia, đều trở về nước mình, mỗi người mỗi người đều hướng lên Quốc-vương mình, nói rõ công việc như thế. Các Quốc-vương nghe rồi, càng mang lòng sân-phẫn, đều nghiêm-bị bốn loại binh đi công-phạt nước kia. Và, phái Lực-sĩ kia cũng nghiêm-bị chiến-cụ, để chống-chọi với kẻ địch lại đánh.
Trong thành Cưu-thi-na, có một người Bà-la-môn tên là Đồ-lô-na, là người thông-minh, đa trí, thâm-tín Tam-Bảo, tâm tự suy-nghĩ: “Tám Quốc-vương kia cùng các người phái Ly-xa… thân-lực tráng-kiện, quân-chúng tinh-nhuệ; vả lại, sức dũng-mãnh của Lực-sĩ khó đương nổi, nếu họ giao-chiến, quyết không lưỡng-toàn được!”
Ông liền bảo các người Lực-sĩ kia rằng: “Các ông tuy dũng-nhuệ, quả-cảm, nhưng tám Quốc-vương kia đồng-lực, đồng-tâm, nhân-chúng tập-hợp, quân-trận hùng-mạnh, nếu các ông chiến-đấu, lý không lưỡng-toàn, giáo nhọn đã giao tranh, quyết-định có sự thương-hại. Vả lại, Như-Lai tại thế, dạy người ta làm lành, ngày nay bỗng dưng đi chém giết nhau! Vậy các ông không nên sẻn-tiếc chút Xá-lỵ, các ông nên chia cho các nước, cùng phái Ly-xa…; mỗi nơi đều ở nước họ, xây tháp cúng-dàng; không những hợp với lời dạy của đức Thế-Tôn xưa kia, lại làm cho các ông đều được phúc-lợi!”
Các người phái Lực-sĩ, nghe lời nói ấy rồi, tâm ý giải-ngộ, liền đáp lời ông ấy rằng: “Lời ông nói thực hợp lý, chúng tôi xin theo như lời ông nói!”
Ông Bà-la-môn kia, thấy những người phái Lực-sĩ đều giải-giáp, ông liền đi ra ngoài thành, nói truyện với các Quốc-vương rằng: “Nay các Ngài vì pháp, sao lại dấy binh?”
Các vị Quốc-vương đáp: “Chúng tôi vì pháp, nên từ nơi xa đến đây cầu Xá-lỵ, chúng tôi thấy họ chống cự, không chịu chia cho chúng tôi, nên nay chúng tôi phải cùng nhau dấy binh tại đây!”
Khi ấy, ông Bà-la-môn kia, lại nói với các Quốc-vương rằng: “Tôi đã cùng họ giải-hòa, các người phái Lực-sĩ kia đều vui lòng chia phần Xá-lỵ cho các ngài, vậy các ngài mang bình báu vào, tôi sẽ vì các ngài mà phân chia Xá-lỵ!”
Tám vị Quốc-vương hoan-hỷ, xin trao bình vàng cho ông. Ông Bà-la-môn kia nhận các bình vàng rồi, cầm đem về, ở trên lầu cao phân chia Xá-lỵ, đem cho tám quốc-vương.
Lúc đó tám vị Quốc-vương, được Xá-lỵ rồi, hớn-hở đội lên đầu, trở về nước mình, đều xây tháp báu. Các người phái Lực-sĩ… lấy một phần và ở nơi hỏa-đàn, vun những tro than thừa, xây-dựng tháp cúng-dàng. Như thế là cả thảy có mười nơi xây tháp.
Thế là, trước khi đức Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn, cùng sau khi nhập Niết-Bàn cho đến việc hỏa-táng, xây các tháp, việc ấy như thế!
Và, sau đó Tôn-giả Ca-Diếp cùng ông A-Nan và các Tỳ-Khưu kết-tập Tam-tạng ở thành Vương-xá. [33]

TOÁT-YẾU


Khi phái Lực-sĩ thu Xá-lỵ Phật để lên lầu cao rồi, vua A-xà-thế cùng 7 Quốc-vương khác, đều sai sứ sang xin mỗi nước một phần về xây tháp cúng-dàng. Và, nếu phái Lực-sĩ không cho, các nước sẽ đem binh sang đánh.
Cả phái Ly-xa thành Tỳ-da-ly cùng các Bà-la-môn, trưởng-giả, cư-sĩ… các nước cũng đều cho người sang xin.
Các sứ-giả tới nơi Lực-sĩ, nói rõ ý-định của các Quốc-vương của họ. Phái Lực-sĩ bất-bình, nhất định không cho và nếu đánh nhau thì đánh.
Thế là 2 bên chuẩn-bị chiến-tranh.
Khi ấy, có một người Bà-la-môn thông-minh, đa-trí, thâm-tín Tam-Bảo tên là Đồ-lô-na, đến bảo phái Lực-sĩ: “Các ông không nên đánh nhau, nên đem phân-chia Xá-lỵ cho các nước xây tháp cúng-dàng. Một là không thương-tổn sinh-mạng, vì nếu các ông chống-cự với 8 nước cùng những phái khác, thế tất không lợi. Hai là, làm vậy trái với lời dạy làm lành của đức Phật, các ông không được phúc-lợi.
Phái Lực-sĩ nghe lời. Ông Đồ-lô-na đi giảng-hòa và đứng ra quân-phân Xá-lỵ cho 8 nước, cho phái Lực-sĩ đem về xây tháp cúng-dàng.
Sau đó, phái Lực-sĩ lại vun tro nơi hỏa-đàn xây thêm một cây tháp nữa, thế là cả thảy có mười nơi xây tháp.
Cách thời-gian ngắn, Tôn-giả Ca-Diếp, ông A-Nan cùng các vị Tỳ-Khưu, kết-tập Tam-Tạng tại thành Vương-xá.
Trước, sau sự nhập Niết-Bàn của Phật như thế!
HẾT



Chú thích


[33] Đến đây là hết quyển hạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5478)
Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong vườn, cây của ông Kỳ-Đà và ông Cấp-Cô-Độc, nước Xá-Vệ, cùng với chúng Đại-Tỳ-Khưu tám vạn bốn nghìn người, như ngài Xá-Lỵ-Phất, Ngài Mục-Kiền-Liên v.v... Các vị vây quanh trước, sau Phật, nghe Phật thuyết kinh.
04/04/2013(Xem: 5746)
Chính tôi được nghe: một thời kia Đức Phật ở trong vườn Lộc-mẫu, khu vườn phía Đông nước Xá-Vệ, cùng với 500 chúng Đại-Tỳ-Khưu. Rằm tháng bảy đức Phật trải tọa cụ ngồi nơi đất trống các vị Tỳ-Khưu-Tăng vây quanh trước sau Phật. Đức Phật bảo Ngài A-Nan rằng: Nay nơi đất trống này, ông mau đi đánh kiền-trùy đi.
04/04/2013(Xem: 11636)
Chính tôi được nghe: (2) một thời kia đức Phật ở trong tinh-xá họ Thích, nước Ca-Duy-La-Vệ (Kapilavastu), cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Khưu. (3) Với bản-nguyện cúng trai của các đàn-việt (4) trong tháng chín, nhất thời trọn đủ, đức Phật từ trong Thiền-thất bước ra, đi đến rặng cây của ông Kỳ-đà trong khu vườn của ông Cấp-Cô-Độc (5) nước Xá-Vệ (Sràvasti).
28/03/2013(Xem: 541)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau lìa ba nẻo ác Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Nguyện con mau dứt tham sân si
27/03/2013(Xem: 4002)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát Rộng phát Tâm Từ Bi Công hạnh sâu như biển Quay ngược thuyền Từ
16/12/2012(Xem: 883)
Nhìn sâu ngũ uẩn tướng là không Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cũng không. Biết rõ rằng không không khác sắc...
27/10/2012(Xem: 4963)
Với kiếp sống của con người thì chỉ hiện tại là có thực (tương đối). Sống có nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại; hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực. Than thở tiếc nuối quá khứ, hay mơ ước tương lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là, cái hiện tại sống động, mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể hiện tại là vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục (xóa tan ý niệm về thời gian).
26/07/2012(Xem: 4816)
Chính tôi được nghe (2): Một thời kia đức Phật ở chốn Long Cung: Sa Kiệt La (3), cùng với tám nghìn chúng Đại Tỳ kheo và ba vạn hai nghìn vị Đại Bồ tát. (4) Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Long Vương rằng: “Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
04/07/2012(Xem: 4404)
Một thời đức Phật đu hóa đến rừng Y Xa nước Câu Tát La cùng với 1250 Tỳ Kheo; Rừng Y Xa thuộc làng Y Xa Măng Già La rất lớn và giàu có, được Vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ phong cho Bà La Môn Phất Già La Ta La giữ phần cúng tế Phạm Thiên Bà La Môn Phất Gia La Ta La là dòng dõi 7 đời có cha mẹ đều chân chính, là người thông suốt Kinh sách Phệ Đà (Ấn Độ giáo) về tướng pháp, về tế tự, v.v... Ông có 500 đệ tử mà người đứng đầu là A Ma Trú, A Ma Trú cũng có nguồn gốc và thông suốt Kinh sách như vị thầy, và cũng có rất nhiều đệ tử.
27/05/2012(Xem: 8540)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567