Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Ngô Thì Nhậm: Thấy và Nghe

05/07/202513:55(Xem: 696)
Đọc Ngô Thì Nhậm: Thấy và Nghe

Đọc Ngô Thì Nhậm: Thấy và Nghe

Nguyên Giác
TONG CHI trang 389

 Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: vùng vằng chống chọi với những cái được thấy và được nghe là chưa biết đạo. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích các đoạn đầu trang 389, nguyên văn như sau:

Việc gì nhìn thấy mà vẫn chưa cho là đúng, nghe mà còn chưa cho là thật, bị che lấp ứ đọng, vùng vằng chống chọi mà không thoát ra được, đó là người không biết đạo vậy. Người biết đạo thì thông, thông thì soi suốt, soi suốt được thì sống. Người không biết đạo thì không thông, không thông thì bị chướng ngại, bị chướng ngại thì chết.

Thần là tính, tính thì không diệt được, cho nên nói ‘sống là thuộc về thần.’ Hình là chất, chất thì có sinh có diệt, cho nên nói ‘chết là thuộc về hình.’ Phật Thích Ca thì diệt độ (*). Khổng Tử thì ngoạ bệnh mà mất. Diệt và mất chỉ là cái hình thôi, còn như ‘minh tâm kiến tính’ và ‘tận tâm tri tính.(**) là hai cái chân truyền của đức Phật và đức Thánh thì vẫn còn mãi mãi ở trong khoảng trời đất, ngàn muôn đời không bao giờ tắt, cho nên Thầy nói rằng: ‘Đạo không can dự vào đấy.’ Tây Ngưu Hạ Châu có Phật Vô Lượng Thọ, Nam Thiệm có đấng vương giả dấy lên. Có cái đạo ấy, tức có con người ấy, không sao mà diệt được, cũng là ý nghĩa ấy.” (ngưng trích)

Có 2 ghi chú trong sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh trong đoạn trên là, nguyên văn:

(*): Diệt độ: Diệt là trừ bỏ mọi phiền não, độ là giác ngộ giải thoát. Diệt độ ở dây có nghĩa là chết.

(**): Minh tâm kiến tính: Danh từ nhà Phật, có nghĩa là nhìn được triệt để bản tính tự tâm. Tận tâm tri tính: Sách Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng: "Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tinh dã, tr kỳ tính tắc tri thiên hỹ." Nghĩa là: Tận lượng tìm hiểu tự tâm thì sẽ biết được tính, biết được tính thì sẽ biết được lễ trời.

 

Chúng ta cũng cần ghi nhận rằng hai ghi chú trên là của các dịch giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, hoàn toàn không phải ghi chú của quý ngài trong dòng Trúc Lâm của Hải Lượng Thiền Sư, bởi vì quý sư viết trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh đều là các bậc danh nho, học Nho giáo từ thơ ấu, sống đời Nho sĩ, làm quan nhiều thập niên, trải qua những cuộc sóng gió binh biến của thời Tây Sơn và rồi cuối đời, vào chùa xuất gia. Quý ngài vừa học rộng cả Kinh Phật lẫn sách Nho, nên không thấy cần ghi chú các chữ như Diệt độ, Minh tâm kiến tính, Tận tâm tri tính.

Chúng ta nơi đây cũng không dám nhận định rằng các ghi chú đó có thích nghi hay không, vì nơi đây chúng ta sẽ nhìn cách khác, soi ý nghĩa dưới con mắt của người tu theo Thiền Tông, không bận tâm các nghĩa của Nho giáo.

Câu đầu trong trích dẫn trên là: “Việc gì nhìn thấy mà vẫn chưa cho là đúng, nghe mà còn chưa cho là thật, bị che lấp ứ đọng, vùng vằng chống chọi mà không thoát ra được, đó là người không biết đạo vậy...”

Những cái đươc thấy và được nghe là gì? Tại sao chưa cho là đúng, mà lại vùng vằng chống chọi? Chư Tổ thường gọi, khi chúng ta đối diện với cảnh (những cái được thấy, được nghe), mà cứ muốn cảnh phải thế này hay muốn cảnh phải thế kia, đó là rơi vào lỗi “đầu thượng trước đầu. tuyết thượng gia sương” (trên đầu lại chắp thêm đầu, trên tuyết lại bồi thêm sương).

Tất cả những ý muốn, rằng cái được thấy phải thế này, rằng cái được nghe phải thế kia, chính là chúng ta đang bạo lực với cảnh, mất hẳn cái bình an của tâm bình thường. Chư Tổ nói rằng hãy giữ tâm bình thường chính là biết sống đạo. Bạn có thể thử nghiệm dễ dàng, khi bạn ngồi trong một thính phòng để nghe nhạc, tới đoạn nhạc này hay tới đoạn nhạc kia, bạn khởi tâm rằng nhạc sĩ lẽ ra phải làm thế này, hay thế kia. Đó là tự bạn làm loạn tâm bạn, làm mất bình an. Đó là bạn tự sân si với chính những cái được nghe.

Tại sao vùng vằng chống chọi cái được thấy và cái được nghe là không biết đạo? Bởi vì đơn giản rằng người đó tưởng rằng có cái thực tướng gì là cái được thấy và cái được nghe, nên khi nắm giữ tướng đó, mới phản ứng bằng cách vùng vằng chống chọi những gì được thấy và được nghe. Đó là chưa hiểu rằng Sắc là Không, chưa hiểu rằng những cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được suy nghĩ tư lường đều là hư ảo, là không thực tướng, đều là duyên sinh, đều là vô ngã, đều là Không, cho nên mới vùng vằng chống chọi.

Trong Kinh AN 4.14, Đức Phật dạy rằng khi thấy hay khi nghe thì đừng nắm giữ tướng riêng hay tướng chung của những cái được thấy hay được nghe. Thí dụ, tướng chung của cô Nguyễn Thị A là hình dáng, tiếng nói của một thiếu nữ có tên đó trong độ tuổi nào đó. Tướng riêng là đặc tướng riêng biệt, những gì làm cho chúng ta thấy đúng là Nguyễn Thị A mà không phải là Lê Thị B. Đừng nắm giữ tướng riêng hay tướng chung có nghĩa là hãy để tất cả những cái được thấy và được nghe trôi theo dòng đời vô thường, không nắm giữ gì hết. Kinh AN 4.14, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì với nhãn căn này không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, sống với sự chế ngự nhãn căn. Khi tai nghe tiếng … khi mũi ngửi hương … khi lưỡi nếm vị … khi thân cảm xúc … khi ý biết pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì ý căn này không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, thọ trì ý căn, sống với sự chế ngự ý căn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành nhiếp phục.” (ngưng trích)

 

Hãy nhớ rằng, thọ mạng của chúng ta, và của tất cả chúng sinh trong cõi này thực sự không phải là năm, hay tháng, hay ngày, hay giờ, mà chỉ là một khoảnh khắc của tâm. Trong Luận thư Niddesa ghi rằng thọ mạng của thân và tâm chúng ta chỉ là một khoảnh khắc tiếp giáp của một hạt đậu xoay tròn trên mũi kim. Như thế, không có khoảnh khắc nào lặp lại. Từng khoảnh khắc trong đời chúng ta đều là độc đáo. Hãy tỉnh thức và sống cho trọn vẹn từng khoảnh khắc trên thân tâm mình. Không có gì (và cũng bất khả) để nắm giữ hay chống chọi những gì được thấy, được nghe.

Có một yếu chỉ của Thiền Tông là, khi Lục Tổ Huệ Năng dạy cho Thượng Tọa Minh rằng, hãy nhìn xem ngay khi tâm không nghĩ thiện và không nghĩ ác, thì cái gì là bản lai diện mục (khuôn mặt xưa nay) của Thượng Tọa. Tương tự, các Thiền sư Việt Nam thường dạy rằng vô tâm chính là đạo. Không khởi tâm gì hết, dù là ưa thích hay chống chọi đối với cái được thấy và cái được nghe.

Trong Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, khi quý ngài viết rằng vùng vằng chống chọi những cái được thấy hay cái được nghe là chưa hiểu đạo, chỉ đơn giản là chúng sinh gây nghiệp vì cứ muốn cái được thấy và cái được nghe phải thế này hay cái kia. Bởi vì, tâm phân biệt cho rằng phải thế này mới phải (thiện, đẹp), khi đã thế kia là trái (ác, xấu). Tất cả những tâm đó sẽ làm chúng ta loạn tâm.

Trong Kinh Bahiya Sutta, Đức Phật nói rằng hãy để cho cái được thấy là cái được thấy, cái được nghe là cái được nghe... thì nơi đó là giải thoát.

Tất cả những cái được thấy và được nghe là gì? Thí dụ, khi chúng ta nghĩ về một người bạn cũ chúng ta từng gặp, từng nói chuyện, hay từng nghẹ bạn này hát ca... Luôn luôn chúng ta nghĩ về bạn này trong một khuôn thời gian nào đó và trong một không gian nào đó. Như hình ảnh bạn này thời 20 tuổi, hay 30 tuổi, hay 70 tuổi... và trong một không gian, như khi bạn này ngồi trong quán cà phê với mình, hay cùng đi chùa với mình... Đức Phật dạy rằng, hãy buông sạch tất cả mọi chuyện trong khuôn thời gian, bất kể là quá khứ, hiện tại hay tương lai. Khi bạn xóa sạch ký ức đó, xóa cả mơ tưởng của tương lai, buông sạch tất cả những gì đang thấy và nghe hiện tại, thì đó là giải thoát.

Trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 348 ghi lời Đức Phật dạy là hãy buông bỏ quá khứ, hiện tại, vị lai thì sẽ qua được bờ giải thoát:

 

348. “Bỏ quá, hiện, vị lai,

Đến bờ kia cuộc đời,

Ý giải thoát tất cả,

Chớ vướng lại sanh già.”

 

Khi Đức Phật nói xong bài Kệ 348, chàng nghệ sĩ gánh xiếc Uggasena đang đứng làm trò xiếc trên cây sào cao liền tức thời đắc quả A la hán. Khi nói buông bỏ cả ba thời, chỉ có nghĩa là thấy cả ba thời là không, thì tâm sẽ không dính mắc nữa.

Trong đoạn trên của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, có nói tới “Tây Ngưu Hạ Châu có Phật Vô Lượng Thọ... có con người ấy, không sao mà diệt được.”

Quý ngài chỉ muốn nói rằng Phật Vô Lượng Thọ là một pháp vô vi, một pháp bất sinh và bất diệt. Nói vô lượng thọ là chưa từng sinh và chưa từng diệt. Nếu không có pháp vô vi này thì không thể giải thoát. Chúng ta hãy hình dung, khi chúng ta thấy và nghe thì gương tâm chúng ta hiện ra vô số ảnh hình và tánh nghe chúng ta nhận ra vô số âm thanh. Tất cả ảnh hình hiện ra rồi biến mất. Tất cả âm thanh tới bên tai rồi biến mất. Chúng ta không níu kéo được. Đó là những khoảnh khắc của tâm nơi điểm tiếp giáp như hạt đậu nhỏ xoay trên đầu mũi kim. Ảnh hình trôi đi, nhưng tánh phản chiếu của gương tâm vẫn không biến mất, và tánh nghe vẫn thường trụ. Cảnh sinh rồi diệt, nhưng tánh nhận biết vẫn không suy xuyển.

Hãy nhớ rằng, giải thoát không có nghĩa là vào hư vô. Đức Phật đã nhiều lần chỉ trích thuyết đoạn diệt (đoạn kiến, hư vô), và ngài cũng chỉ trích thuyết thường kiến. Ngài chỉ nói rằng một một pháp vô sinh, không sanh, và không diệt. Và nếu không có pháp vô vi này, thì không thể có giải thoát. Trong Kinh Udana 8.3, Đức Phật dạy rằng, nơi đây chúng ta dịch như sau:

Này các Tỳ kheo, có một cái không sanh, không trở thành, không bị tạo thành, vô vi (không bị điều kiện). Này các Tỳ kheo, nếu không có cái không sanh, không trở thành, không tạo thành, không bị điều kiện đó, thì các ông không thể biết được sự giải thoát khỏi cái sanh, cái trở thành, cái bị tạo thành và cái bị điều kiện ở đây. Nhưng vì có một cái không sanh, không bị trở thành, không bị tạo thành, không bị điều kiện, do đó các ông biết được sự giải thoát ra khỏi cái sanh, cái trở thành, cái bị tạo thành và cái bị điều kiện.” (hết dịch)

Thiền Tông gọi pháp vô vi đó là Tính, hay Tánh. Nơi đây, quý ngài Ngô Thì Nhậm gọi pháp vô vi đó, cái bất tử đó, cái Niết Bàn đó chính là cái mãi mãi ở trong khoảng trời đất, ngàn muôn đời không bao giờ tắt. Chúng ta cũng gọi đó là Pháp. Mặt khác, Kinh Lăng Nghiêm phân tích rằng, đừng gọi đó là cái gì tách biệt: bởi vì chính phiền não cũng là Niết Bàn. Bởi vì sóng không lìa nước, ảnh không lìa gương.

Ngay khi bạn thấy ảnh hình hiện ra nơi gương tâm, bạn sẽ thấy rằng ảnh hình không lìa tánh phản chiếu, nghĩa là, toàn Tướng tức Tánh. Và toàn Tánh tức Tướng. Ngay khi bạn nghe một âm thanh, bạn sẽ có thể trực nhận rằng âm thanh không rời Tánh nghe, và ngược lại. Thấy như thế, là thấy rằng, Niết Bàn chính là ngay ở đây, ngay giây phút này, ngay khi bạn thấy và nghe mà không níu kéo hay chống chọi tất cả những gì bạn thấy và nghe.

 

THAM KHẢO:

. Kinh AN 4.14. Đừng nắm giữ tướng chung, tướng riêng:

https://suttacentral.net/an4.14/vi/minh_chau

. Kinh Udana 8.3, bản Anh dịch Bhikkhu Ānandajoti:

https://suttacentral.net/ud8.3/en/anandajoti

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2025(Xem: 126)
Lời dịch giả: Bài viết "Bi Và Ái" được Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997) viết, in trong Tạp chí Liên Hoa, số 3, ấn hành cuối tháng 8/1955. Tạp chí Liên Hoa thành lập năm 1955, với Thượng toạ Thích Đôn Hậu trú trì chùa Linh Mụ ở Huế làm chủ nhiệm, Thượng toạ Thích Đức Tâm làm chủ bút, và Ni sư Thích Nữ Diệu Không làm quản lý. Trong bài này, Ni sư ký tên tác giả là Thích Diệu Không. Ni trưởng là dịch giả nhiều kinh và luận, cũng là một nhà thơ xuất sắc.
18/07/2025(Xem: 140)
Namo Buddhaya Người ''biết rõ''.. là người giàu có từ bên trong. ..Người đời thường mải miết theo đuổi những thứ có được: tiền bạc, tài sản, danh tiếng, quyền lực… Họ gọi đó là thành công, là giàu có. Nhưng rồi bao nhiêu người, sau khi có tất cả, lại vẫn cảm thấy trống rỗng?
17/07/2025(Xem: 140)
Cuốn theo tám ngọn gió đời, Tâm ta loạn động, chẳng hồi nào ngơi. Được khen: vui vẻ, tươi cười. Bị chê: sân dậy, giận người chê ta.
17/07/2025(Xem: 113)
Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: Khi tính người tịch diệt, thì tính trời hiển lộ. Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.
16/07/2025(Xem: 128)
Hầu hết các loài trên hành tinh này đều thiếu khả năng trí tuệ để xây dựng hệ thống niềm tin. Ví dụ, mèo và chó không nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của chúng và có xu hướng sống hạnh phúc miễn là chúng nhận được những gì chúng cần ngay tại thời điểm hiện tại. Điều này khiến Loài Người Thông Tuệ (Homo sapiens) trở thành loài duy nhất trên Trái đất có khả năng tham gia vào các quá trình tư duy phức tạp và tạo ra các hệ thống tôn giáo và triết học. Do đó, việc có tôn giáo là một đặc điểm riêng của con người mà không có ở bất kỳ loài vật nào khác.
16/07/2025(Xem: 160)
Trong bốn năm qua, tôi đã viết 17 bài luận về Phật giáo tại Nhật Bản cho trang Buddhistdoor Global. Trong những bài luận này, tôi đã khám phá rất nhiều hoạt động và tín ngưỡng ở Nhật Bản, ở nhiều mức độ khác nhau, có liên quan đến các truyền thống Phật giáo. Những bài luận này có thể gợi lên một hình ảnh, mà tôi nghĩ là khá chính xác, rằng tôn giáo vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản, mặc dù dưới vỏ bọc của một xã hội ở thế kỷ 21.
12/07/2025(Xem: 1387)
Mùa hè năm nay tôi được mời dự lễ Vu Lan ở chùa Quán Âm, Kansas City, tiểu bang Missouri. Khi đến nơi tôi thấy trên bàn của phòng có quyển sách The Art of Living. Ngoài những thời gian thăm viếng các chùa như Phổ Hiền, Pháp Hoa, ...và một vài nơi ở thành phố Kansas như Country Plaza cùng Limestone Kansas City, và thăm một số nhà Phật tử, thời gian còn lại tôi đã dịch ngay chương đầu của quyển sách này (12/08/2011), ngay trong thời gian ở chùa Quán Âm. Sau ba ngày ở Kansas City tôi chia tay với thành phố này và anh Quảng Tịnh Đạt, hội trưởng chùa Quán Âm đã tặng tôi quyển sách này. Thế là tôi mang theo và dịch luôn trọn quyển sách.
12/07/2025(Xem: 1351)
“Nghệ thuật sống hạnh phúc trong thế giới phiền não” được bác sĩ Howard C. Cutter tổng hợp và viết lại từ những lời dạy của đức Dalai Lama tại nhiều bối cảnh thuyết giảng khác nhau. Tác phẩm được trình bày theo một hệ thống gồm bốn phần, ba phần đầu là một tác phẩm độc lập mang cùng tựa đề tác phẩm này và phần 4 cũng là một tác phẩm bỏ túi độc lập, vì có cùng nội dung nên được gộp vào phần cuối của tác phẩm, để độc giả có thể thưởng thức hai tác phẩm trong một của đức Đạt Lai Lạt Ma.
12/07/2025(Xem: 1308)
ĐẠO PHẬT ĐÃ HƯỚNG ĐẠO con đường phát triển của Đức Đạt Lai Lạt Ma – cả nội tại lẫn ngoại tại – và vẫn là một sự hướng dẫn cho cội nguồn thích đáng của nhân loại. Những bài diễn thuyết bao hàm trong sự sưu tập này không đối diện trực tiếp với mục tiêu Giác Ngộ hay Quả Phật. Đúng hơn, chúng soi sáng những chủ đề phổ thông về từ bi; bất bạo động và hòa bình; chủ nghĩa thế tục; một thân thể, tâm thức, cá nhân, và xã hội lành mạnh; và tiềm năng của con người cho hạnh phúc qua sự thực chứng nội tại. Loài người trên thế giới hiện hữu đã sẵn sàng để tiếp nhận tuệ giác xuất phát từ Phật giáo và về Phật giáo vốn trực tiếp che chở chúng ta khỏi khổ đau của chúng ta.
12/07/2025(Xem: 1360)
Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com