Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ Thiền - Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp (bài 3)

20/06/202509:43(Xem: 641)
Sơ Thiền - Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp (bài 3)

Sơ Thiền - Ly dục, ly  bất thiện pháp
nhờ vào việc kính tín, tri ân ân đức, tán thán Đức Phật…
qua việc cung thỉnh, cung tiễn, chiêm bái xá lợi Phật…

Tâm Tịnh
hoasen1

Bất chấp những ngày nắng mùa hè oi bức, những đêm khuya khoắt, trời mưa, đường sá xa xôi, bệnh tật, tuổi già sức yếu vv mà lòng thành kính với Đức Phật của dòng người nối đuôi nhau, vượt lên trên mọi khó khăn, gian nan, trở ngại, nhất tâm một lòng chiêm bái xá lợi Phật trong niềm hân hoan hỷ lạc. Chứng kiến dòng người với hai tay chắp lại cung kính, vừa đi nhiễu quanh, vừa xá lạy tháp thờ xá lợi Phật. Khoảnh khắc thành kính và thiêng liêng này khiến lòng ‘tôi’ xúc động.  Dường như thể, đức tin vào Phật pháp, đang soi rọi trong từng bước chân của người hành hương.
Những lời mỹ từ hoa này của những BT viên truyền hình  được tóm lược (mặc dầu vụng về), là kết quả của những dòng suy nghĩ chơn thiện, được kết thành từ những gì được thấy nghe trong những ngày hành hương của đông đảo bà con trong sự thành kính với Đức Phật.

Đó là biểu pháp của Chánh Ngữ, kết quả của Chánh Tư Duy trên nền tảng của Chánh Kiến, nơi mà Pháp hành Sơ Thiền được ‘gọi tên’, được hiển bày, và nếu khéo ứng dụng, thời thiện Pháp sẽ được tăng trưởng, sung mãn.

Thế nào là sơ thiền? Tại sao phải phải thực hành sơ thiền? Sơ thiền được hiển bày và được duy trì như thế nào trong việc chiêm bái cung thỉnh, cung rước, tôn trí tháp, chiêm bái xá lợi Phật; và ứng dụng sơ thiền vào đời sống tu tập? Đó là những vấn đề mà bài chia sẻ này, tập trung triển khai trên nền tảng lời Phật dạy, được ghi lại trong Thánh Điển Pali, và hy vọng rằng nhờ sự chia sẻ này, quý Pháp hữu, với ý tư duy, hiểu biết và áp dụng để thiện pháp sung mãn, hướng đến giải thoát, niết bàn.

1.                       Thế nào là sơ thiền?

Trong các kinh Nikàya, Đức Phật nói về sơ thiền một cách cô đọng, ngắn gọn, như đoạn trích từ Kinh Trung Bộ Majjhima Nikàya số 52 Kinh Bát Thành sau đây:

Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ…

Để có trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp; thời thiện pháp phải được khéo khởi sự, được huân tập cho đến sung mãn. Muốn vậy phải nhất tâm hướng về một đề mục, một tướng tịnh tín, nhờ đó mà thiện pháp phát sinh, trưởng dưỡng, chẳng hạn: tâm hướng về Đức Phật, tức là  Tầm. Tứ là tư duy về thiện liên quan đến đề mục, đối tượng đó, chẳng hạn: Tri ân công đức vô biên của Đức Phật.

Để tâm không bị sở duyên theo ngoại cảnh, không nhiệt não, không bị phân tán hướng ngoại, hay tâm không bị thụ động, cần phải hướng tâm (Tầm) đến một tướng tịnh tín, như Đức Phật dạy trong Tương Ưng Niệm Xứ (a), Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya. Chương III như sau:

Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giácchánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thân trên thân, hoặc thân sở duyên (kàyàrammano) khởi lên, hoặc thân nhiệt não (kàyasmin parilàho), hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại (bahiddha va cittam vikkhipati); do vậy, này Ananda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín (pasàdaniyenimitta). Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tínhân hoan (pàmujjam: Thắng hỷ) sanh…  

Như vậy, việc nhất tâm hướng về xá lợi Phật trong niềm thành kính vô biên qua việc cung rước, cung tiễn, chiêm bái vv, là một sự hướng tâm đến một tướng tịnh tín kỳ đặc, như lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, như được đề cập ở trên. Nhờ vậy, thiện pháp được phát sinh trong những khoảng khắc thiêng liêng kỳ diệu ấy. Thiện Pháp sẽ tiếp tục được tăng trưởng, khi hành giả khéo tri ân công đức vô biên của Ngài (tức là Tứ: nghĩ về những ân đức của Thế Tôn một cách sâu sắc với lòng biết ơn vô hạn, và lòng thương kính của mình đối với Ngài).  

2.                       Tại sao phải thực hành sơ thiền?

2.1      Ly dục, ly ác pháp (ly bất thiện pháp): thiện pháp được khởi sự, được tích tập cho đến sung mãn (như đã được minh thị ở trên)

2.2      Khi thiện pháp đi đến sung mãn, chứng đạt sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, thời hành giả không còn bị các dục chi phối, như lời xác quyết của Thế Tôn, được ghi lại trong Thánh Điển Pali (được kết tập từ chư Thánh A-la-hán, lậu hoặc đã tận), Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 14 Tiểu Kinh Khổ Uẩn như sau:

 “Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh Đẳng Chánh Giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,’ dầu Ta có thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: ‘Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,’  Ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.

(Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 14. Tiểu Kinh Khổ Uẩn. https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung14.htm)

2.3 Khi chứng sơ thiền, bốn chúng đệ tử của Như Lai (thấu rõ Tứ Thánh Đế bằng trí tuệ), thời sẽ chứng tam quả Bất Lai, A-na-hàm, và nếu khéo xả ly, thời chứng tứ quả A-la-hán (bậc tuệ giải thoát – A-la-hán không có thần thông), hữu kiết sử đã được đoạn tận, gánh nặng đã được đặt xuống, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh giải thoát, niết bàn như lời dạy của bậc Đạo Sư, Thầy của trời người  trong Trung Bộ Kinh Majjhima Nikàya. 52 Kinh Bát Thành, như sau:

Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: "Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử (chứng tam quả Bất Lai A-na-hàm), được hóa sanh, nhập Niết bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này
Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành trì pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.

3.   Sơ thiền được hiển bày và được duy trì như thế nào trong việc chiêm bái cung thỉnh, cung rước, tôn trí tháp, và chiêm bái xá lợi Phật; và ứng dụng sơ thiền vào đời sống tu tập?

Tùy theo mức độ chú tâm, hướng tâm đến Như Lai của người hành hương, hoặc chú tâm đến đề mục thiện khác, thời trạng thái sơ thiền (những suy nghĩ chơn thiện về Đức Phật, về những điều thiêng liêng, được thấy nghe trong không khí chiêm bái, cung thỉnh vv trang nghiêm ấy), sẽ được duy trì tương ưng, và như vậy, thiện pháp (ly dục, ly bất thiện pháp) theo đó sẽ được hiển bày, duy trì, tích tập...

3.1      Với một lòng thành kính chiêm bái xá lợi Phật trong niềm tri ân ân đức bao la của Đức Phật - Tầm: nhất tâm hướng về xá lợi Phật, Tứ: Tri ân- nghĩ về những đức hạnh của ngài trong niềm biết ơn sâu sắc; Như một nội dung  trong bài viết tri ân ân đức của Đức Phật của tác giả Tâm Tịnh, như dưới đây, là một thí dụ của việc ứng dụng sơ thiền; có tầm có tứ ly dục, ly bất thiện pháp

 Với năm vóc sát đất, con xin thành kính đảng lễ xá lợi Phật với tâm trí hân hoan ghi nhớ ân đức như biển cả bao la của Thế Tôn, khi ngài là một đạo sỹ Sumedha (đã chứng 8 thiền và 5 thắng trí (ngũ thông), có khả năng chứng đạo A La Hán, nhưng không vì an vui cho bản thân trong cảnh giới niết bàn, không còn buộc ràng, phiền não khổ đau, mà thay vào đó, ngài vẫn kiên tâm với Đại Nguyện Thuở xưa (đã được thực hành hơn 16 A tăng kỳ kiếp), trở thành một vị Bồ Tátlần đầu tiên được Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) thọ ký, sẽ trở thành một vị Phật toàn giác Gotama (Thích Ca Mâu Ni Phật) sau 4 A tăng kỳ kiếp và 100 ngàn đại kiếp. Thay vì tịch lặng an vui trong cảnh giới niết bàn thanh văn, Ngài hoan hỷ chấp nhận trải vô lượng kiếp tái sinh luân hồi nữa để tu bồ tát hạnh, tích tập thập ba-la-mật tròn đầy, từ bi và trí tuê viễn mãn vì lợi ích và hạnh phúc cho chúng lục đạo hữu tình trong tam giới. (Điển tích này ghi lại trong Thánh Điển Pali, Chánh Giác Tông Buddhavamsa, Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikàya. Phần 2. 28 vị Phật quá khứ).

 “Kính lễ xá lợi Phật – Thành kính tri ân ân đức của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: https://quangduc.com/a78203/kinh-le-xa-loi-phat)

3.2      Chánh ngữ: Lời nói chơn thiện, mỹ từ hoa trên cơ sở của suy nghĩ chơn chánh (Chánh Tư Duy: Chánh Tư Duy về vô sân = lòng từ, Chánh Tư Duy về ly dục, và Chánh Tư Duy về bất hại) từ sự kiện trọng đại linh thiêng và trong niềm kính thương của những người hành hương đối với Đức Phật…

Thật vậy, những lời nói mỹ từ hoa của các BT viên truyền hình, khi chứng kiến những khoảnh khắc thiêng liêng của dòng người thành kính tham gia sự kiện trọng đại hiếm hoi, nghìn năm khó gặp; và nghe những lời từ tâm đạo của những người đi chiêm bái, khiến cho những người làm truyền hình này xúc động, phát ra những chánh ngôn ngữ, những lời ca tụng Đức Phật, tán thán đạo Phật: đạo từ bi và trí tuệ; đạo của tình người hòa ái (chứng kiến những thiện nhơn nhiệt tâm phục vụ hàng vạn người đến chiêm bái ); đạo của hòa bình, là đạo hiếu (khi chứng kiến những người con cõng mẹ, hay dìu dắt Mẹ già, Cha già yếu cùng thành kính đảnh lễ xá lợi Phật) vv

Chính những hình ảnh đẹp khả ái, khả hỷ, khả ý đó đập vào tâm thức, khiến cho những dòng suy nghĩ chơn thiện được kết thành và tuôn chảy thành những lời mỹ từ hoa (Chánh Ngôn Ngữ). Trong kinh Nikàya, có một nam cư sỹ hỏi Thánh Ni A-la-hán rằng: Tầm tứ thuộc về gì? Thánh Ni A-la-hán trả lời: Tầm tứ thuộc về khẩu. Vị nam cư sỹ tỏ ra không hiểu lời dạy này của Ngài, và được Thánh Ni giải thích: phải suy nghĩ trước, rồi mới nói; tức là lời nói là kết quả của tư duy, suy nghĩ.

Lời Phật dạy trong Pháp cú 376, như dưới đây cho thấy, nếu hành giả khéo nói, chơn thiện ngôn trên cơ sở của Chánh Kiến, Chánh Tư Duy: bằng tâm từ, không bằng tâm sân; tâm bất hại (không hại mình, hại người, hại cả hai); không tham dục (ly dục), thời sẽ được an lạc, và nếu kiên tâm thực hành, thiện pháp sẽ được sung mãn, chứng đạt sơ thiền, ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng thái hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp sanh, có tầm, có tứ; và niệm xả ly sự hỷ lạc do sơ thiền viên mãn mang lại, sẽ dứt mọi khổ đau, là bậc A-la-hán.

Giao thiệp khéo thân thiện

Cử chỉ mực đoan trang

Do vậy, hưởng vui nhiều

Sẽ dứt mọi khổ đau.
(Pháp Cú 376. Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikàya. XXV. Phẩm Tỳ kheo)

Hoặc Pháp Cú 232 về việc khéo giữ lời không phẫn nộ (trên cơ sở Chánh Tư Day vô sân) để có Chánh ngữ như sau:

Giữ lời đừng phẫn nộ
Phòng lời, khéo bảo hộ,
Từ bỏ lời thô ác
Với lời nói điều lành.

(Pháp cú 232. Tiểu Bộ Kinh_Khuddaka Nikàya. XVII. Phẩm Cấu Uế)

Chiêm bái xá lợi Phật là một sự kiện trọng đại, sự kiện linh thiêng của hàng triệu Phật tử và bà con trên cả nước. Nhờ đó, thiện pháp được phát sinh, lan tỏa đến nhiều người. Khá nhiều đề mục thiện (tướng tịnh tín) để hành giả hướng tâm, nhưng xá lợi Phật là tướng tịnh tín khả hỷ, khả ý, khả ái, khả lạc nhất, thù thắng nhất, không những vì chỉ một lòng kính tín Như Lai (tâm chánh trực, tâm thanh tịnh), phát sinh chơn thiện pháp vi diệu, mà còn qua sự chiêm bái, kính lễ Ngài, một sự tri ân ân đức của Thế Tôn biểu pháp của Chánh Tư Duy & Chánh Kiến, làm xuất sinh những thiện pháp không thể nghĩ bàn; nếu khéo và kiên tâm thực hành, thời thiện pháp theo đó tăng trưởng; và thường tinh tấn như vậy cùng với hướng tâm đến những tướng tịnh tín khác trong đời sống tu tập (tụng kinh đọc pháp với một sự chú tâm; chú tâm nghe pháp, tư duy pháp vv), thời thiện pháp sẽ sung mãn, đi đến ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng hỷ lạc do ly ác pháp sanh, chứng đạt sơ thiền có tầm, có tứ vv.

Nguyện đem công đức này

Hướng về chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sanh cõi Cực Lạc.

Trong tâm từ,

Tâm Tịnh

09/06/2025 (06/05 Ất Tỵ)

Toowoomba, Queensland, Australia

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2025(Xem: 22)
SỐNG TỐT ĐẸP HƠN Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Sưu tập: Renuka Singh Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
10/07/2025(Xem: 20)
ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ Nguyên tác: Many Ways to Nirvana Nhà xuất bản: Penguin Compass - 2005 Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Sưu tập và hiệu đính: Renuka Singh Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 23/02/2011
10/07/2025(Xem: 26)
SỐNG TRỌN VẸN NHƯ THẾ NÀO Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
10/07/2025(Xem: 31)
BỪNG SÁNG CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ Nguyên bản: Illuminating the Path to Enlightenment - Tác giả: His Holiness the Dalai Lama Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Dịch kệ: Hồng Nhu ***
09/07/2025(Xem: 272)
Năm năm trước đây (2009) Tuệ Uyển đã dịch quyển Bừng Sáng Con Đường Giác Ngộ (Illuminating The Path To Enlightenment) một quyển sách ghi lại sự giảng dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma căn cứ trên Tiểu Luận Con Đường Tiệm Tiến Lamrim (Bồ đề thứ đệ tiểu luận) của Tổ sư Tông Khách Ba Và Ngọn Đèn Cho Con Đường Giác Ngộ (Bồ đề đạo đăng luận)của Tổ sư Atisa. Năm nay (2014) Tuệ Uyển lại có cơ hội để chuyển ngữ Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến Lamrim (Bồ Đề Thứ Đệ Đại Luận) của Tổ sư Tông Khách Ba cũng do sự giảng dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
09/07/2025(Xem: 224)
LỜI GIỚI THIỆU “Ba mươi bảy phẩm trợ đạo giác ngộ” là tuyển tập các bài giảng của đức Dalai Lama do Nyima Tsering dịch tiếng Anh và Tuệ Uyển - Thích Từ Đức dịch tiếng Việt, được xem là cẩm nang tu tập hướng đến sự giác ngộ theo tinh thần Phật giáo Tây Tạng. Tác phẩm gồm ba phần như sau: Phần đầu gồm 37 phẩm trợ đạo, thường được biết đến là Con đường tiệm tiến (Lam Rim) vốn là cẩm nang luyện tâm, chuyển hóa tâm trong tâm lý học Phật giáo Tây Tạng. Khác với 37 phẩm trợ đạo được đức Phật giảng dạy trong kinh điển Pali, 37 phẩm trợ đạo giác ngộ này thực chất là 37 điều tâm niệm, theo đó đức Dalai Lama phân tích ứng dụng cho người tu học Phật. Lời chú giải của đức Dalai Lama rất gần gũi với đời sống thực tiễn, nhờ đó, người học có thể ứng dụng Phật pháp hiệu quả, nhằm vượt qua các bế tắc và khổ đau. Mỗi ngày trải nghiệm một điều trợ đạo giác ngộ, người đọc sẽ thấy tâm mình nhẹ nhõm, thư thái, sáng suốt, điềm tĩnh và tìm ra giải pháp vượt qua các bất hạnh. Ba phương diện của con
09/07/2025(Xem: 226)
Tôi chú ý đến cô ta trong đám đông ngay lập tức. Cô vươn mình ra phía trước, chỉ phía sau làn dây nhung lớn ngăn cách trong phòng khánh tiết nhỏ của lâu đài Prague ( thủ đô Cộng Hòa Czech). Cô là một phụ nữ hấp dẫn, có lẻ trong độ tuổi ba mươi. Khuôn mặt sôi nổi với sự mong đợi.
09/07/2025(Xem: 222)
Ngài tự nhận trọn đời ngài chỉ là một nhà sư đơn giản, nhưng sóng gió tiền định đã đưa ngài vào ngôi vị Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 để gánh vác chức lãnh đạo cả đạo và đời cho dân tộc Tây Tạng từ khi ngài còn thơ ấu.
09/07/2025(Xem: 204)
Lăn qua lộn lại, kéo mền trùm đầu vẫn không sao ngủ được. An ngồi dậy, đi ra đi vào và uống nước mấy lần, tâm trí bất an, song lòng dập dờn như biển, lại thấy nóng như thiêu như đốt. Dẫu biết lo lắng cũng không giải quyết được chuyện gì nhưng không thể không lo lắng. Má An ở quê bị bệnh nghiêm trọng, bác sỹ chuẩn đoán bị ung thư kỳ cuối.
09/07/2025(Xem: 202)
Chẳng khác gì ngày nay, ngay cả vào thời đại của Đức Phật trong châu thổ sông Hằng, cách nay hơn 25 thế kỷ, cũng đã từng có những kẻ điên rồ và những người sáng suốt. Sự tương phản giữa u mê và sáng suốt, giữa hung bạo và yêu thương, giữa vơ vét và chia sẻ, không những là một sự tương phản giữa con người với nhau trong cộng đồng xã hội, mà còn là một trong các nguyên nhân chủ yếu mang lại thật nhiều đổ vỡ trong sự sinh hoạt của con người nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com