Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Ngô Thì Nhậm: Tiếng Không Thành

07/06/202510:38(Xem: 776)
Đọc Ngô Thì Nhậm: Tiếng Không Thành

Đọc Ngô Thì Nhậm: Tiếng Không Thành

Nguyên Giác

 NGO THI NHAM trang 349 350-2

Bài viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh về ý chỉ Thiền Tông: thấy được cái không được thấy, nghe được cái không được nghe. Trong sách này, gọi ý chỉ đó là Tiếng Không Thành – viết theo âm Hán-Việt là Bất Quả Thanh.  

Sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh là một tác phẩm về Thiền Tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do nhiều tác giả trong Viện Nghiên Cứu Hán Nôm biên dịch.

Những lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền Tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền Sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ Thứ Tư của Dòng Thiền Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong tông phong này.  Nơi đây, chúng ta trích vài dòng cuối trang 349 và đầu trang 350, nguyên văn như sau:

“TIẾNG KHÔNG THÀNH (BẤT QUẢ THANH)

(Thanh dẫn Ngô Thì Hoàng]

Bất quả thanh (Tiếng không thành), có lẽ là lấy nghĩa ở Bất quả phong (gió chẳng thành) của quẻ Tốn trong Chu Dịch. Gió đi khắp bốn phương, phát ra ở bốn mùa, thế nào cũng thành (quả), cũng có thể không thành (bất quả). Gió có cái gió chẳng thành (bất quả phong). Như ở đông nam thì nhiều nước, ở tây bắc thi nhiều núi, tuy theo nơi nhận được sự phân chia của gió. Người nào thấy được gió của bốn phương thì biết được sự vận hành khắp mười phương của gió.

Chương này, nghiền ngẫm cho thật chắc về ý nghĩa của chữ "ý," cho rằng, ý trời không phải thật sự là ý, ý người mới thực sự là ý, người nào nghe được "Bất quả thanh" (tiếng không thành), lại càng nên tu dưỡng về cái "ý không thành" (bất quả ý).” (hết trích)

 

Nơi đây, chúng ta không bàn về quẻ Tốn trong Chu Dịch. Các Thiền sư trong sách này có quan tâm về đối chiếu Phật học và Nho học, vì tất cả các ngài đều xuất thân từ Nho học. Họ trưởng thành trong thời phong kiến, phải học các môn cần thiết của Nho giáo để có thể thi ra làm quan. Và quý ngài cũng có quan tâm muốn thuyết phục các Nho gia trong một cách hoằng pháp tế nhị, nên có khi nhắc tới các môn học của nhà Nho. Nhưng, thực sự, quý ngài không bận tâm nhiều về chuyện quẻ Tốn hay bất kỳ quẻ nào khác trong Chu Dịch.

Tiếng không thành -- có nghĩa là âm thanh chưa thành. Như thế nào âm thanh được nhận ra? Do duyên tai và do duyên các tiếng (âm thanh, cái được nghe), khởi lên nhĩ thức (cái nhận biết rằng có cái được nghe). Tương tự, do duyên mắt và do duyên các sắc (cái được thấy), khởi lên nhãn thức (cái nhận biết rằng có cái được thấy). Tương tự với mũi (duyên với mùi hương, khởi lên tỷ thức), với lưỡi (duyên các vị, khởi lên thiệt thức), với thân (duyên các xúc, khởi lên thân thức), với ý (duyên các pháp, khởi lên ý thức). Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.

Khi âm thanh chưa hiển lộ (tức là, chữ các cụ là "bất quả thanh") và nói đơn giản là âm thanh chưa khởi dậy. Như vậy, các pháp khởi dậy gọi là xúc. Như khi nghe một câu nhạc do một ca sĩ hát, hay do một nhạc sĩ trính tấu. Khi âm thanh khởi dậy, bấy giờ mới có ưa thích (thọ lạc), hay không ưa thích (thọ khổ), hay không ưa và không ghét (bất khổ bất lạc thọ). Nếu chúng ta ưa hay ghét đều sẽ hỏng, vì như thế sẽ rơi thêm vào miên viễn luân hồi trong cõi này.

Nếu chúng ta cảm nhận không ưa và không ghét, tức là "bất khổ bất lạc" mà không nhận ra tánh sanh khởi và tánh diệt tận trong các âm thanh đó, tức là không nhận ra tánh vô ngã trong cái được nghe, thì chúng ta lại tiếp tục làm tăng thêm vô minh, thì cũng sẽ hỏng.

Chỗ này, chúng ta có thể dẫn ra hình ảnh gương tâm. Khi ảnh chưa tới, thì không thấy gì trong gương. Khi ảnh hiện ra, nếu chúng ta thích hay ghét hình người (đẹp hay xấu) hiện ra trong gương, thì đều sẽ hỏng, vì các thọ đó sẽ dẫn chúng ta đi mãi trong luân hồi. Nếu chúng ta có thọ bất lạc bất khổ với hình người (dù đẹp hay xấu) trong gương, mà không nhận ra tánh Không (tánh vô ngã), tức là chưa tỉnh giác để thấy tánh sanh khởi và tánh diệt tận của ảnh trong gương, thì đó là nuôi dưỡng vô minh.

Tương tự, khi giọng ca hay tiếng đàn chưa tới, thì chúng ta không nhận ra cái được nghe. Bất quả thanh, hay tiếng không thành, có nhiều nghĩa, và trong nghĩa đầu tiên có nghĩa là âm thanh chưa dấy lên. Khi hoa chưa nở, khi niệm chưa dấy lên, thì cõi này chưa hình thành. Vì lúc đó là tịch lặng, là vô ngôn, là kinh vô tự. Nếu chúng ta chưa nhận ra cái tịch lặng, thì là còn trong vô minh.

Người tu thiền không bận tâm chuyện có âm thanh hay không có âm thanh, mà chỉ bận tâm giải thoát, tức là thường trực sống trong tánh vô ngã, tức là dù gương có ảnh hay không, vẫn liên tục tỉnh thức thấy tánh phản chiếu của gương tâm thực sự là vô ngã, là vô tự tánh. Đối với âm thanh, còn gọi là thường trực nghe đàn không dây, hay sáo không lỗ. Tức là, thường trực thấy tánh Không của tiếng đã thành, và thấy tánh Không của tiếng không thành.

Trong đoạn dẫn trên, các cụ có nói "ý trời không phải thật sự là ý" là để chiêu dụ các Nho gia, rằng nơi đây chúng ta là đề huề Nho-Phật, nhưng các cụ nhấn mạnh rằng "ý người mới thực sự là ý" vì Đức Phật dạy rằng ba cõi chỉ là tâm, và Thiền Tông nói mô phỏng lời Đức Phật rằng ngoài tâm không có pháp. Và do vậy, Thiền Tông còn gọi là Tâm Tông, và  hễ đi đứng nằm ngồi trong cái rỗng rang của tâm này thì tự tương ưng, không cần tu gì khác.

Kinh SN 35.23 Sutta, Đức Phật dạy rằng tất cả thế giới chỉ là tương tác của tâm này, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!” (ngưng trích)

Do vậy, đôi khi Thiền Tông đưa ra những câu hỏi để suy nghĩ. Thí dụ, hôm qua, chúng ta đứng ở góc rừng, chúng ta thấy cây nghiêng, nghe tiếng gió hú, cảm nhận mưa lạnh. Vậy thì hôm nay trận bão chưa qua, vậy thì nơi đó khi vắng mặt chúng ta, ai thấy cây nghiêng, ai nghe gió hú, ai cảm nhận mưa lạnh. Câu trả lời là người tu không bận tâm, không cần nói là hôm nay sẽ có hay không cây nghiêng, gió hú, mưa lạnh. Vì đơn giản, người tu Thiền chỉ bận tâm với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nơi thân tâm mình, trong giây phút này. Còn chuyện hôm nay, cây bị gió bứng ngã cả chục cây, chúng ta không cần biết âm thanh cây đổ có ai nghe hay không. Cũng không bận tâm nói là có hay không.

Như vậy, trong tiếng chưa thành, khi chúng ta tỉnh thức nghe đàn không dây và nghe sáo không lỗ, tức là đang sống với pháp vô vi, vì nơi đây không thấy có tự ngã nào trong âm thanh, không thấy có tự ngã nào trong tịch lặng,  không thấy có tự ngã nào đang đàn, không thấy có tự ngã nào đang thổi sáo, và không thấy có tự ngã nào đang nghe. Tất cả hiển lộ trong tánh Không, dù là ca khúc đó dài 10 phút hay bản hòa tấu dài nửa giờ.

Chính ngay khi bạn nghe bằng cái tỉnh thức với cái vô sanh như thế (nhà Thiền còn gọi là thấy Tánh), chính là đang sống với vô sanh. Trong Kinh Iti 43, Đức Phật dạy, chúng ta dịch như sau:

Này các Tỳ kheo, có một cái vô sanh, một cái không đưa đến hữu, một cái không bị tạo ra, một cái không do duyên mà thành. Này các Tỳ kheo, nếu không có cái vô sanh, không đưa đến hữu, không bị tạo ra, không do duyên, thì không có sự giải thoát nào có thể được nhận ra từ cái được sanh ra, được đưa đến hữu, được tạo ra, do duyên mà tới. Nhưng vì có một cái vô sanh, một cái không đưa đến hữu, một cái không do tạo ra, một cái không do duyên mà tới, do đó có sự giải thoát được nhận ra từ cái được sinh ra, được đưa đến hữu, được tạo ra, do duyên mà tới.” (ngưng dịch)

Trong cái vô vi đó, vốn xa lìa cả thiện và ác. Bởi vì thiện và ác là tác ý của thế giới hữu vi. Trong pháp vô vi, tất cả chỉ là lòng từ bi yêu thương, vì không thấy ngăn cách gì gọi là ta hay người. Thiền sư Tường Quang (1741-1830) thời vua Minh Mạng, có để lại bài thơ, theo bản dịch của Thầy Thanh Từ, như sau:

Người bậc nhất tu pháp vô vi 

Người bậc nhì phước tuệ đầy đủ

Người bậc ba làm thiện chừa ác

Người bậc tư tam tạng tinh thông.

 

Bài thơ Thiền này chia Phật Tử làm bốn nhóm: bậc nhất là những vị buông bỏ vạn pháp, siêu vượt cả thiện ác; bậc nhì là người tu Bồ Tát Hạnh, vun trồng phước và huệ; bậc ba là tu pháp bình thường – làm lành và lánh dữ; và bậc tư là những vị thuộc Kinh Phật mà không tu theo lời Phật dạy.

Chúng ta nên hỏi câu này: Ai đã vượt qua cả thiện và ác? Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật nói trong bài kệ 39 rằng người đã buông bỏ cả thiện và ác thì không sợ hãi gì, nói trong bài kệ 97 rằng người đã phá hủy các nhân duyên cho mọi pháp thiện và ác là người tối thắng, nói trong bài kệ 126 rằng người không trụ vào tất cả pháp thiện và ác thì thành tựu Niết Bàn, nói trong đoạn 267 rằng người đã ném bỏ hết mọi pháp thiện và ác thì được gọi là một vị sư, và nói trong bài kệ 412 rằng người vượt qua sự trói buộc của mọi pháp thiện và ác thì được Phật gọi là một vị Bà La Môn. Hãy từ bi, hãy làm việc thiện, và hãy thấy rằng không có ai đã từng làm bất cứ gì, và rằng không hề có việc gì đã từng được làm.

Hãy nghe Bất quả thanh, hãy nghe tiếng không thành. Hãy nghe sáo không lỗ, hãy nghe đàn không dây. Đó cũng là ý chỉ của Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh.

THAM KHẢO:

. Kinh SN 35.23. Tất cả là tương tác của tâm:

https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

. Kinh Iti 43, giải thoát vì có một cái vô sanh, không do duyên:

https://suttacentral.net/iti43/en/ireland

. Thiền Tông Việt Nam, đoạn 56: Người bậc nhất tu pháp vô vi:

https://thuvienhoasen.org/a34042/phan-6-

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/06/2025(Xem: 43)
Trong màn đêm tối đen như mực vì vô minh, con người sống trong đau khổ, phiền não do ái dục, tham ái chi phối. Con người sống trong nỗi sợ hãi, sân hận, gièm pha, đố kỵ nghi ngờ, tà kiến, kiêu mạn, tranh giành hơn thua lẫn nhau, danh vọng, địa vị, tiền tài, lợi dưỡng vv.
20/06/2025(Xem: 49)
Khi xã hội càng văn minh, con người càng rời xa tâm linh. Chúng ta mãi mê bị mắc lừa bởi ảo giác về thực tại và cái bản ngã rồi chúng ta hụp lặn theo định hướng và kỳ vọng xã hội. Bên cạnh đó, chúng ta bị nhốt trong hai nhà tù lớn: tham dục và tham ái. Đây là hai xiềng xích trói buộc và dẫn dắt chúng ta trôi lăn trong vòng luân hồi.
20/06/2025(Xem: 43)
Khả năng tâm linh là khả năng cảm nhận, liên kết và tương tác với những thực thể, năng lượng hay thông điệp thuộc về thế giới phi vật chất. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân, mục đích sống và mối quan hệ với các chúng sinh khác hay vũ trụ. Đây là một quá trình đòi hỏi chúng ta nhận biết và rèn luyện bản thân. Những người có khả năng tâm linh là những người có thể cảm nhận những hiện tượng siêu nhiên. Một số người có sẵn khả năng đặc biệt này ngay từ còn nhỏ.
20/06/2025(Xem: 45)
Bất chấp những ngày nắng mùa hè oi bức, những đêm khuya khoắt, trời mưa, đường sá xa xôi, bệnh tật, tuổi già sức yếu vv mà lòng thành kính với Đức Phật của dòng người nối đuôi nhau, vượt lên trên mọi khó khăn, gian nan, trở ngại, nhất tâm một lòng chiêm bái xá lợi Phật trong niềm hân hoan hỷ lạc. Chứng kiến dòng người với hai tay chắp lại cung kính, vừa đi nhiễu quanh, vừa xá lạy tháp thờ xá lợi Phật. Khoảnh khắc thành kính và thiêng liêng này khiến lòng ‘tôi’ xúc động. Dường như thể, đức tin vào Phật pháp, đang soi rọi trong từng bước chân của người hành hương.
07/06/2025(Xem: 694)
Trưới tiên chúng tôi xin nhắc lại niêm luật thơ 8 hoặc 9 chữ để quý vị nhớ và không khó chịu khi đọc những đọan thơ lạc vần.
04/06/2025(Xem: 875)
Dòng đời xưa nay vẫn thế, từng đời từng đời nối tiếp nhau, thịnh suy bất định, tụ tán vô kỳ. Kiếp người ở thế gian này trong vòng trăm năm, tuy nhiên thật sự “sống” chỉ vài mươi năm, còn lại phần lớn là thời gian của tượng hình, trẻ nít, bệnh tật, già nua… Có không ít người càng kéo dài tuổi thọ lại càng đau khổ: Đau khổ vì thể xác và cả tinh thần, sống không xong chết không được. Kiếp người ở thế gian này buồn vui lẫn lộn nhưng phần nhiều là buồn hơn vui. Suốt trăm năm ấy sum họp và chia ly cũng khó ai biết trước, sinh ly tử biệt là nỗi đoạn trường ai cũng phải qua. Muốn không được mà không muốn cũng không xong.
04/06/2025(Xem: 1011)
Hôm 02/06/2025, chư Tôn đức Tăng Ni giáo phẩm GHPGVN Đà Nẵng, những đại diện lãnh đạo địa phương, đông đảo quý Phật tử và người dân hành lễ cung tiễn xá lợi Phật trong không khí trang nghiêm và tôn kính . Hàng ngàn Phật tử mặc đồng phục, pháp phục đứng hai bên đường bùi ngùi xúc động cung tiễn xá lợi Phật đến tận sây bay quốc tế Đà Nẵng ‘trở về’ quê hương Ấn Độ, nơi Đức Phật thị hiện đản sanh, giác ngộ, niết bàn, để lại cho đời vô số xá lợi và 84000 pháp môn, chỉ đường dẫn lối cho chúng sanh những cách sống an lạc, hạnh phúc, sống từ bi hỷ xả, được chơn lạc, nhơn thiên, niết bàn.
04/06/2025(Xem: 1058)
- Tu là tập cho mình thói quen quan sát lại chính mình. Cảm xúc đến rồi đi như những con sóng xô bờ. Khi tỉnh thức, bạn sẽ hiểu chúng đến từ đâu và nhận ra bản chất vô thường của các ý nghĩ cảm xúc và cả sự vô thường của vạn pháp. Nếu đang buồn chán, bạn không cần phải bám chặt lấy cảm xúc ấy mà hãy đơn giản để nó trôi đi. Cứ để cảm xúc phát khởi, sinh diệt một cách tự nhiên, bạn không can đè nén nó theo cách này hay cách khác.
02/06/2025(Xem: 1071)
Hàng năm vào tháng 4 âm lịch hoa sen bắt đầu nở, những đóa hoa sen tỏa hương thơm báo hiệu mùa Phật Ɖản lại trở về với người con Phật. Hòa chung niềm vui với Phật tử khắp năm châu, ngày chủ nhật 11 tháng 5 năm 2025 vừa qua, chùa Vạn Hạnh đã tổ chức Ɖại lễ Phật Ɖản Phật lịch 2569 để Phật tử và đồng hương về chùa cùng nhau cung kính đón mừng sự xuất thế gian của Ɖức Thích Ca.
02/06/2025(Xem: 862)
Vô-sanh là đặc điểm của Phật-giáo, là ách yếu của Phật-pháp, hiểu được vô-sanh là hiểu Phật-pháp, tu theo vô-sanh là tu chánh-dạo, chứng được vố-sanh là chứng thánh-quả; vậy cái pháp vô-sanh là thế nào, điều ấy chúng ta cần phải nghiên-cứu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com