TRÍ TUỆ VÀ PHƯƠNG TIỆN HỢP NHẤT
~*~*~*~*~*~*~*~
Hãy phát khởi động lực và hành vi đúng đắn, nghĩ rằng tôi phải tạo lợi lạc cho tất cả chúng sanh bao la như không gian, tôi phải thành tựu giác ngộ vô song và hoàn hảo. Người ta phải nghĩ rằng mục tiêu chánh của việc lắng nghe giáo pháp là để tu tập. Hơn nữa, ý nghĩa của việc tu tập là để giúp tâm thoát khỏi phiền não hay vọng tưởng, và đó là ý nghĩa của việc thực hành Pháp. Vì vậy, động lực tích cực và hành vi tích cực là điều cần thiết ở đây, bởi vì khi càng có động lực và hành vi tốt đẹp hơn, thì việc tu tập Pháp sẽ trở nên hữu hiệu hơn.
Động lực có nghĩa là cách suy nghĩ đúng đắn, và hành vi đúng đắn nghĩa là hành vi thích hợp. Tác phẩm Ngũ Thập Kệ Tụng Sùng Mộ Bổn Sư (Fifty Verses of Guru Devotion) có nói rằng, “Hãy ngồi ở phía trước với tâm quy phục, ăn mặc chỉnh tề, quỳ gối và chắp tay, thỉnh cầu thầy thuyết pháp ba lần.”. Điều này cũng tương tự như lời Lama Tsongkhapa đã nói, “Hãy ngồi trên tọa cụ thấp, lắng nghe với niềm hoan hỷ lớn lao, rồi uống cam lồ bất tử.”. Hành giả nên cung kính ngồi trên tọa cụ thấp, ăn mặc chỉnh tề, tâm không phóng dật, rồi nếu như có khả năng, thì phải quỳ gối trong khi lắng nghe giáo pháp, để không tỏ ra bất kính. Hành giả cũng lắng nghe Pháp với lòng hoan hỷ lớn lao, nghĩ rằng mình thật may mắn khi được nghe thuyết Pháp. Không được lắng nghe với tâm giãi đãi và hôn trầm. Nếu có được cam lồ bất tử, thì con sẽ cẩn thận uống nó một cách vô cùng hoan hỷ, và cam lồ của giáo pháp cũng là cam lồ có thể tiêu diệt tử thần vi tế, để thành tựu Phật quả, nên hành giả phải vô cùng hoan hỷ uống cam lồ giáo pháp một cách cẩn thận. Đây là tất cả những điểm nói về động lực và cách hành xử thích hợp.
Điều chúng ta sẽ nói ở đây là trạng thái mà mình phải thành tựu, sự hợp nhất của trí tuệ và phương tiện. Đức Phật đã dạy 84 000 pháp môn, và nếu nói về khía cạnh dựa trên nền tảng Đại thừa, thì còn có nhiều pháp môn hơn nữa. Theo truyền thống Đại thừa thì Đức Phật đã giảng dạy vô số giáo pháp, và nếu gồm thâu tất cả các giáo pháp này, thì chúng được tóm gọn trong trí tuệ và phương tiện. Rồi nếu câu hỏi được nêu ra là tại sao cần có trí tuệ và phương tiện, đó là vì để có được đứa con, thì phải có cha mẹ, nên cả hai khía cạnh tu tập trí tuệ và phương tiện đều cần thiết.
Ý nghĩa của trí tuệ là phân biệt đối tượng, hay phân tích đối tượng. Nếu con phân tích đúng đắn, thì điều này sẽ trở thành trí tuệ không lầm lạc, và nếu con phân tích đối tượng một cách lầm lẫn hay sai lầm, thì trí tuệ ấy được gọi là trí tuệ si mê. Ở đây, cần có trí tuệ không lầm lạc, trong sự hợp nhất của trí tuệ và phương tiện.
Khi chúng ta sử dụng trí tuệ phân biệt các đối tượng, thì nó sẽ phát huy mãnh lực của trí tuệ, dù đó là trí tuệ si mê hay trí tuệ phong phú. Chẳng hạn như nhờ làm thí nghiệm mà các nhà khoa học đã chế tạo ra vũ khí hạt nhân làm hại người khác, và loại trí tuệ đó là trí tuệ méo mó, vì bản chất nguy hại của nó. Mặt khác, họ cũng sản xuất ra thuốc men và dụng cụ y khoa, làm lợi lạc cho tất cả, đó là trí tuệ phong phú.
Vì vậy, nếu muốn trưởng dưỡng hành vi công đức, thì trí tuệ rất quan trọng, tựa như nhà vua trị vì vương quốc, thì phải dựa vào các thượng thư khôn ngoan. Ở đây cũng vậy, trí tuệ đóng vai trò của vị thượng thư khôn ngoan, để trưởng dưỡng hành vi công đức.
Người ta nói rằng phương tiện không có trí tuệ là ràng buộc, và trí tuệ không có phương tiện cũng là ràng buộc. Phương tiện đi đôi với trí tuệ là giải thoát, và trí tuệ đi đôi với phương tiện cũng là giải thoát. Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là trí tuệ mà không có phương tiện, thì không thể giúp con thoát luân hồi, và phương tiện không có trí tuệ cũng không thể giải thoát con khỏi luân hồi. Nếu có cả hai trí tuệ và phương tiện, thì con sẽ có thể thoát khỏi luân hồi, và đó là điều được nêu ra trong Kinh điển.
Vì sao chúng ta cần cả hai, trí tuệ và phương tiện? Đó là vì trí tuệ giống như vũ khí tiêu diệt cội nguồn luân hồi. Nếu muốn có khả năng sử dụng vũ khí mạnh mẽ như trí tuệ, thì cần có một cái bệ vững chắc để đặt vũ khí, hay người cầm vũ khí đó, và ở đây, phương tiện đóng vai trò của cái bệ, hay người cầm vũ khí, và vũ khí thì tựa như trí tuệ. Đó là lý do mà chúng ta cần cả hai yếu tố, trí tuệ và phương tiện.
Trong bài tán thán Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ba lần mỗi ngày có nói:
Đấng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Đấng Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu vô song, Thiên Nhân Sư, đấng Giác Ngộ và Thế Tôn.
Ở đây, minh và hạnh nghĩa là tam vô lậu học giới, định, tuệ. Minh nghĩa là trí tuệ vô lậu. Hai tu tập còn lại, tu giới và tu định, thuộc về phương tiện. Vậy thì minh có nghĩa là trí tuệ, và hạnh nghĩa là giới và định. Ví dụ như một người có kiến thức rộng, nhưng lại bị khuyết tật, vì không có đôi chân, thì không tạo ra được bao nhiêu lợi lạc.
Hơn nữa, Kinh điển Tiểu thừa có nói, “Tri kiến tánh Không có thể giúp con giải thoát, và những tư tưởng còn lại dành cho mục tiêu bổ sung”, nghĩa là trong giảng giải về Tứ Diệu Đế có mười sáu thuộc tính, mỗi chân đế có bốn thuộc tính. Trong mười sáu thuộc tính thì điểm chánh là vô ngã, có thể mang lại giải thoát cho con, và mười lăm thuộc tính còn lại là những điểm bổ sung, nhằm nâng cao sự hiểu biết của con về tri kiến vô ngã. Nói tóm lại, tri kiến chứng ngộ vô ngã là trí tuệ thật sự để giải thoát, và mười lăm thuộc tính còn lại là khía cạnh phương tiện.
Theo quan điểm Đại thừa thì hành giả sẽ không thành tựu giải thoát, trừ khi họ trực tiếp chứng ngộ tánh Không. Tri kiến tánh Không là pháp đối trị thật sự để đoạn trừ nguồn gốc của luân hồi, và phần còn lại đều là khía cạnh phương tiện, đó là pháp tu bổ sung. Chẳng hạn như trong lục độ ba la mật thì bát nhã ba la mật là khía cạnh trí tuệ, và năm ba la mật còn lại là khía cạnh phương tiện. Vì vậy, bản văn nói rằng Đức Phật đã giảng dạy tất cả những chi này, để trí tuệ phát sinh.
Như Thầy đã nói trước đây, pháp chữa trị cứu cánh để đoạn trừ cội nguồn luân hồi là trí tuệ, và phương tiện là để phát huy mãnh lực của trí tuệ, rồi nhận thức bằng trí tuệ phân biệt là điều quan trọng. Thậm chí, trong pháp thiền quán về bồ đề tâm thì hành giả phải sử dụng kiến thức phân biệt, bởi vì người ta nói sự hiểu biết xuất phát từ kiến thức phân biệt thì mạnh mẽ và lâu dài. Do đó, nếu như cần có kiến thức mạnh mẽ và lâu dài thì người ta phải có trí nhận thức sáng suốt về vấn đề này. Đối với hoạt động thế tục thì cũng tương tự như vậy. Ví dụ như tâm luyến ái với một người nào đó. Nếu như chú tâm và tìm kiếm vẻ đẹp của người mà con luyến ái, thì tâm luyến ái đó sẽ gia tăng và trở nên mạnh mẽ, và sẽ tồn tại một thời gian dài. Đối với tâm sân thì cũng giống như vậy. Nếu không thích ai thì con sẽ tìm hiểu những điểm xấu của người này, và cố tìm ra nhiều lý do để chứng minh rằng người đó xấu, và kết quả là lòng sân hận sẽ gia tăng. Đối với hoạt động thiện hảo thì cũng tương tự như vậy. Do đó, cần phải quán sát theo nhiều cách, để phát huy mãnh lực trí tuệ của mình.
Khi Phật giáo phát triển lần đầu tại Tây Tạng thì một nhà sư Trung Quốc đã đến Tây Tạng. Ông nói rằng người ta không nên tu tập pháp thiền phân tích, bởi vì nếu như phân tích vấn đề thì vọng niệm sẽ gia tăng. Ông đã nêu ra ví dụ, nói rằng dù đó là mây trắng hay mây đen thì nó vẫn che khuất ánh sáng mặt trời. Tương tự như ở đây, dù là niệm thiện hay bất thiện, thì nó sẽ trở thành nhân của luân hồi. Ông nói rằng hành giả nên hành thiền không có bất cứ đối tượng nào, để cho tâm hoàn toàn vắng lặng. Ông đã đưa ra cách hành thiền này. Nhiều người không có công đức đã tu tập theo ông. Đó là chỉ giáo sai lầm, và người ta không nên hành thiền như vậy. Dường như cho đến ngày nay, vẫn có các vị thầy dạy thiền giảng dạy cách hành thiền này. Cách hành thiền này sẽ không có lợi lạc. Người ta nên áp dụng sự phân tích được thẩm định bằng trí tuệ. Kinh Giải Thâm Mật (Samdhinirmocana Sutra) có nói rõ là nếu không áp dụng trí tuệ phân biệt hay phân tích, thì hành giả sẽ không thể nào đoạn diệt được ô trược. Nhà sư Trung Quốc này không chấp nhận Kinh Giải Thâm Mật thật sự do Đức Phật thuyết. Có một câu chuyện như thế. Vì chúng ta có niềm tin nơi Đức Phật, và Ngài đã bác bỏ pháp thiền không suy niệm gì cả.
Nếu muốn thành tựu giải thoát, th́ phải có trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Theo đường tu Đại thừa thì con đường trí tuệ nói về trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Con có thể nói đường tu thậm thâm, trí tuệ hay sự tích tập trí tuệ siêu việt, tất cả đều đồng nghĩa, là trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Rồi các giai đoạn tiệm thứ của đường tu quảng đại, các giai đoạn tiệm thứ của đường tu hiển bày các pháp quy ước và khía cạnh phương tiện của đường tu đều đồng nghĩa.
Nhị đế được gọi là nền tảng của thực tại. Chúng còn được gọi là đường tu quảng đại và thậm thâm. Đường tu quảng đại là khía cạnh của thực tại quy ước rộng lớn, và đường tu thậm thâm là bản tánh cứu cánh. Vì có hai thực tại ở mức độ nền tảng, nên có hai đường tu phải được thực hành; đường tu hiển lộ khía cạnh rộng lớn của thực tại, và đường tu hiển lộ bản tánh cứu cánh của vạn pháp. Đường tu hiển lộ bản tánh cứu cánh thậm thâm của tất cả được gọi là tích lũy trí tuệ, và đường tu hiển lộ bản tánh rộng lớn hay đa dạng của tất cả được gọi là tích lũy phương tiện.
Đâu là kết quả của việc tu tập hai đạo lộ này? Nhờ tu tập khía cạnh quảng đại của đường tu (phương tiện), mà tạm thời, hành giả sẽ đạt được tái sinh hoàn hảo cao hơn, và cuối cùng, sẽ thành tựu Rupakaya, tức sắc thân của Phật. Rồi dựa vào đường tu thậm thâm (trí tuệ) mà hành giả phải thành tựu Pháp thân, tức chân thân của Phật. Không phải là chúng ta có nói đến điều này trong bài cầu nguyện hồi hướng hay sao? Nhờ công đức này, nguyện cho tất cả chúng sanh tích lũy trí tuệ và công đức, nhờ tích tập công đức và trí tuệ, nguyện cho chúng sanh thành tựu hai thân Phật. Việc tích tập công đức chủ yếu là nhân cho sắc thân của Phật, và việc tích tập trí tuệ chủ yếu là nhân cho chân thân của Phật. Hai đạo lộ là hai chánh nhân cho hai thân sau cùng, không có nghĩa là hành giả không cần đạo lộ kia. Chánh nhân của sắc thân của Phật là sự tích tập công đức, kết hợp với trí tuệ, và chánh nhân của Pháp thân, chân thân của Phật là trí tuệ, kết hợp với việc tích lũy công đức. Một thân duy nhất không thể được thành tựu, nếu như thiếu vắng đạo lộ kia.
Tuy nhiên, đây là diễn dịch chung theo quan điểm Đại thừa, khi nói về khía cạnh phương tiện của đường tu, thì chủ yếu nên được hiểu là tâm đại bi và bồ đề tâm. Đức Phật nói rằng, “Bồ đề tâm tựa như hạt giống của toàn bộ giáo pháp của Phật đà”. Hạt giống ở đây nói về tinh dịch của người cha. Rồi tiếp theo là, “trí tuệ chứng ngộ tánh Không giống như người mẹ.”. Điều này có nghĩa là cả hai yếu tố bồ đề tâm và trí tuệ chứng ngộ tánh Không đều quan trọng, và đó là phương tiện và trí tuệ hợp nhất.
Nếu như giải thích ý nghĩa của phương tiện và trí tuệ hợp nhất một cách tóm tắt, thì đó là trí tuệ chứng ngộ tánh Không được ấp ủ với bồ đề tâm, và bồ đề tâm được ấp ủ với trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Ở đây cũng vậy, ý nghĩa của chữ ấp ủ là ví dụ như nếu có một bà mẹ nhân từ mất đi đứa con trai duy nhất, dù bà có thể có nhiều ý nghĩ và hoạt động khác trong thời gian đó, nhưng toàn bộ ý tưởng của bà đều trộn lẫn với nỗi buồn vì mất đi đứa con trai. Tương tự như vậy, chúng ta ai cũng trải qua thời gian khó khăn trong đời, và suốt thời gian đó, tâm ta tràn ngập lo âu và băn khoă