Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình Cha

10/04/201317:24(Xem: 4481)
Tình Cha

canh dep

Tình Cha

 


Sau ngày cha mất, lũ con chợt khám phá ra tình mẹ dành cho cha quá đậm. Như cây cổ thụ xum xuê một ngày bật gốc, để lại người nép bóng phận đời chới với. Ngày ngày đưa tay quơ tìm giữa khoảng không còn lại.
"Má bầy trẻ" và "ba thằng Đ" là cách xưng hô hàng ngày. Có lần giữa bữa ăn, em gái út tinh nghịch hỏi: Hồi mới gặp, ba má gọi nhau bằng gì? Có bao giờ ngọt ngào qua hai tiếng anh em? Rồi khi mới cưới, chưa có con để trở thành má bầy trẻ hay ba thằng cu, thì gọi bằng gì? Anh em tôi bật cười, và câu hỏi vẫn còn là nỗi thắc mắc - ít ra với em tôi. Mẹ tôi giải thích, mà như không giải thích được gì, qua câu: "Chưa cưới về đã bao giờ gặp nhau đâu mà nói chuyện, xưng hô". Bé út la lên. Trời ơi! Không ai bạo như Má, dám lấy người chỉ thấy một lần. Không nói chuyện, không biết người ta ra sao mà dám nhắm mắt gởi phận. Mẹ cười, thì phước ai nấy hưởng. Vậy thôi. Có gặp, có hiểu, có tìm thì cũng lầm cũng lẫn như thường. Tụi mày nay được tự do chọn lựa, mà nhiều cuộc hôn nhân có đi đến nơi về đến chốn đâu..
Dù gia đình khá giả để cha tôi có cơ hội được học chữ quốc ngữ cùng chữ Nho. Nhưng dường như ông không hưởng được hồn nhiên của tuổi thơ. Nhìn cảnh nhà trên đà phá sản vì sự vung tay quá trớn của ông tôi, đứa con trai duy nhất là cha nhận ra cả một thê lương sắp chụp xuống đời ông. Có lẽ nghĩ mình không thể chôn cuộc đời nơi cánh đồng trơ trọi ở quê nghèo, cha tôi lặng lẽ theo đoàn người trong nhóm mộ phu vào Nam. Vùng trời thăm thẳm, xa xôi chưa biết là đâu. Chỉ nghe người ta nói nơi đó đất trời êm dịu, hiền hòa. Khí hậu không khắc nghiệt, đất đai trù phú.
Con trai tôi, dẫu đã 15 tuổi, vẫn còn được mẹ làm thức ăn trao tận tay. Mẹ nhắc đã quá giờ rồi phải lo tắt máy, nhớ đánh răng rồi đi ngủ. Mẹ hớt tóc, lo từ tấm áo tới miếng thuốc rữa mặt. Vậy đó. Cho nên làm sao mà không ngậm ngùi khi biết không là trẻ mồ côi mà cha tôi nếm mùi sương gió vào năm tuổi mới 15. Có lẽ mảnh đất cằn với đời này tiếp nối đời kia với bao nước mắt mồ hôi đổ xuống vẫn không thể nào làm đất thêm mầu mỡ. Những bàn tay nhỏ nhoi, bất lực, làm được gì cho thoát kiếp nghèo. Đất nhẫn chịu nuôi người nhẫn chịu, để thêm gì ngoài cảnh sống càng ngày càng lầm than.
Giã từ quê nội Thái Bình, cha tôi trở thành ngưòi phu đồn điền nhỏ tuổi xuôi Nam, nhưng mang ý chí dù chưa bao giờ nếm mùi nhọc nhằn. Khi những rừng cao su bạt ngàn lớn vội, cũng là khi cha đủ ngấm sâu những tủi cực lầm than. Ông không còn e ngại cuộc đời bên ngoài, len lỏi tách mình ra khỏi những giòng sữa trắng ,chảy từ thân cây có hòa chung nước mắt, mồ hôi của đám người tha phương. Ông xin vào học nghề thợ máy ở một ga ra sửa xe nơi tỉnh nhỏ. Học nghề không phải tới trường, không đóng học phí nên phải đổi lại bằng muôn ngàn cay đắng. Được chủ nuôi cơm và sai vặt suốt ngày đêm, từ chuyện có liên quan tới nghề cho tới chuyện của tên đầy tớ, kèm theo những mắng chưởi không ngừng. Đôi khi được kèm theo bằng những cái tát tai, những cú đấm như người ta đấm kẻ thù. Cho tới khi cha tôi làm có tiền lương và có dịp xuôi ngược tới vùng quê nghèo bên ngoại. Tính thâm trầm, điềm đạm thêm ảnh huởng của nho gia nên cho dù có dáng vẽ của một người khắc khổ, cha tôi có lẽ hơi đặc biệt trong đám người chân lấm, tay bùn. Khi nghe chị em tôi ca cẩm, ba độc tài, vô lý gì đâu! Cấm lũ con hát xướng đàn ca. Anh chị tôi thường phải trốn sang nhà hàng xóm để hát ca với bạn bè cho đỡ phần nào ấm ức trong lòng. Mẹ tôi cười cười, tiết lộ điều này. Hồi đó ổng cũng đờn ca hát xướng như ai. Dân Bắc kỳ mà đờn vọng cổ thiệt mùi, đến nỗi chinh phục được luôn người đẹp. Tưởng là có kết cuộc vui. Ai dè nhà gái hồi hôn vì chê ông phiêu bạt ngheo nàn, không xứng với người ta. Từ đó ông quăng đàn không ca hát nữa. Anh em tôi xúc động, bùi ngùi. Thì ra không phải vì câu "xướng ca vô loại".
Tôi không ngạc nhiên khi nghe chuyện kể không thứ tự, về cuộc đời của cha tôi những lúc mẹ vui. Thừa hưởng từ cha tính nhẫn nhịn, siêng năng, chừng mực, có pha chút dí dõm, nên dù có hay không dáng dấp, phong lưu các anh em trai của tôi dường như thường thu phục cảm tình của người khác phái dễ dàng. Phải nói cha tôi là một người đàn ông chẳng đẹp trai. Lại là người đàn ông "Bắc kỳ" duy nhất trôi giạt về vùng quê ngoại. Trong khi mẹ tôi là con nhà nghèo, nhưng được bao người, theo đuổi ước mơ vì đức hạnh và dịu dàng cùng xinh xắn. Khi cha hỏi cưới mẹ, đã nhờ người mà mẹ tôi từ chối làm dâu đứng ra đại diện nhà trai. Bà nhận lời nhưng xa xót thở than. Tưởng con dâu của mình, ai ngờ giờ lại đứng ra hỏi cưới về làm dâu người khác. Nghe chuyện hấp dẫn, ly kỳ chị em tôi hỏi tới thêm. Bà mẹ có vẻ là người nhân hậu. Còn ông đó là ai? Lý do nào người ta đi dạm má lại chối từ? Mẹ tôi bùi ngùi. Ông ta là công tử con nhà giàu, đi học ở Saigon. Cứ 3 tháng hè về quê, mặc bộ pyjama, xách cây đờn lủi thủi đi theo sau những buổi má gánh hàng đi bán. Bán ế trở về ông chận đường nài nỉ đòi mua cho bằng hết. Má thấy người ta giàu lại học hành cao. Mình nghèo quá không chữ nghĩa làm sao xứng, nên từ chối. Má lấy chồng, làng quê có tiếng xì xào. Đúng là già kén, chẹn hom. Chê làm dâu nhà giàu, tưởng lấy ai, hoá ra là tên Bắc kỳ nghèo xác xơ.
Người mẹ nhân từ, đức độ thuở xưa, đã trở thành bà nội của anh em tôi khi nối lại liên lạc sau này. Cậu công tử nhà giàu thương mẹ ngày xưa đã lập gia đình và đem người mẹ về phụng dưỡng ở Saigon. Bà mẹ ấy đã thuyết phục ba mẹ tôi đưa anh trai lớn của tôi về Saigon để học trường lớn và kết làm anh em với cháu nội của bà. Anh trai tôi được thương yêu, nuông chiều như cậu ấm con nhà giàu, nên lơ là chuyện học hành. Vài năm sau anh bị cha tôi triệu hồi về mái nhà xưa. Ngày "bà nội" qua đời, cũng như ngày người cha không duyên nợ với mẹ tôi vĩnh viễn ra đi, ba mẹ tôi từ tỉnh nhỏ về Saigon đưa tiễn như tiển đưa một người thân. Khi đủ tuổi để hiểu rõ về sự liên hệ giữa ba mẹ tôi với người bà nội nhân từ, thương từ mẹ tôi cho tới ba tôi và luôn cả đàn con, chưa kể mối tình si ngày cũ biến thành tình thương bất diệt, chỉ biết cho đi mà không so đo người nhận là ai. Anh em tôi vừa cảm phục , vừa biết mình có phước nhiều. Chợt nhận ra tình của người xưa cao cả quá.
Mẹ về với cha chưa được bao lâu, khi anh trai lớn nhất ra đời cũng là lúc bà ngoại tôi mất đi để lại đàn con nhỏ mồ côi. 19 tuổi mẹ tôi vừa làm mẹ, vừa thay bà ngoại cùng cha tôi bảo bọc đàn em 4 đứa, bởi sau đó không lâu ông ngoại tôi cùng người cậu lớn tham gia chống Pháp, đã bị hành hình quăng xác xuống giòng sông nơi quê ngoại. Vì lẽ đó mà người em trai ông ngoại, đã mang nỗi hờn riêng theo tiếng gọi non sông. Tình yêu nuớc thương nhà bị dẫn dắt lạc đường. Phải đến mấy mươi năm sau ông mới trở về gặp lại gia đình, và mẹ tôi ra sức báo hiếu như báo hiếu người cha vắng bóng, mà khi sinh tiền mẹ quá đỗi nghèo không cách gì đáp đền ơn dưỡng dục sinh thành. Quê ngoại không còn là nơi êm ả thái bình, cha tôi dắt díu vợ con và đàn em nhỏ tha phương tiếp tục. Với vốn liếng nghề nghiệp sẵn có, cha tôi xin vào làm tài xế cho chủ đồn điền người Pháp. Một người dì của tôi cũng được cha dẫn dắt đi cạo mủ cao su. Thời chiến tranh Pháp Nhật sinh mệnh người dân nghĩ quá mong manh. Một lần sau cuộc càn quét, chém giết điên cuồng của Nhật, cha tôi thất thểu, lang thang đi tìm xác người dì vắn số, trong những xác ngập đầy nơi gốc cao su. Nghĩ là chỉ còn biết vác xác đứa em gái nhỏ mang về, cùng mẹ tôi đào đất lấp chôn. Nhưng cha tôi bỗng giật bắn người, bởi lúc ông vừa cúi xuống thì dì tôi ngồi bật dậy. Anh Hai ơi, em còn sống đây mà. Thấy họ chém, em sợ quá giả bộ nằm xấp, nín thở như đã chết, úp lên chiếc nón lá cho đỡ sợ, đỡ run. Nhờ vậy mà họ tưởng em đã chết cho nên mới thoát. Hai anh em đưa nhau trở về nhà, cũng chỉ là tiếp tục sống quãng đời tăm tối cũ. Trãi qua thời sinh tử cận kề, cha tôi như cây đại thụ tỏa bóng mát che đời mưa nắng. Dì tôi đôi khi bày tỏ niềm thương kính dành cho cha tôi nhiều hơn cả với mẹ tôi. Tiếng anh Hai ngọt ngào trân trọng, như nói lên tấm lòng của dì đối với nguời anh rễ, không khác một người cha. Khi dì lớn khôn cũng chính cha tôi gã chồng cho một người đàn ông từ đất Bắc vào Nam.
Mẹ tôi kể đám chủ Tây luôn cho mình là giai cấp cao sang. Tất cả tài xế, bồi bếp và nhân viên phục vụ dưới mái nhà bị đối xử như hàng nô lệ thấp hèn. Sau bữa cơm tối của hai vợ chồng người chủ đồn điền, đám bồi bếp cùng cha tôi và tất cả vợ con dọn xuống nhà sau, đèn tắt hết mọi người ăn trong bóng tối. Mẹ nói cha thiện lành đến dường nào mà đã bật lên tiếng chửi oán than. Sáng hôm sau ông bỏ việc dắt díu gia đình tha phương cầu thực. Trước khi rời ngôi nhà tủi nhục ê chề, ngưòi chủ Tây đã lục xét hành lý từng người. Cha tôi nghĩ quyết định của mình thật đúng, dù trước mặt là khoảng tối đen đời chưa biết sẽ về đâu. Để tránh những nơi chiến tranh loạn lạc, cha đem vợ con về Saigon, chen chân vào xóm Bàn Cờ. Ở đó cha đi làm tài xế, rồi dành dụm mua một chiếc taxi. Cũng vì cảnh khó nghèo không nương tựa được vào ai. Người anh cả của tôi qua đời năm lên 10 tuổi vì bị bệnh thương hàn, không có tiền chạy chữa thuốc thang. Mẹ tôi đem chôn anh ở nghĩa trang Gò Vấp. Sau này khi thoát ra khỏi cảnh hàn vi. Mẹ xa xót, quặn lòng nhắc chuyện anh tôi. Nó thông minh lắm. Còn nhỏ mà đã biết giang tay bảo bọc, lo lắng cho em từng chút. Nó dặn dò má để ý khi con đi học, đừng cho em ra chơi với những đứa hàng xóm gần nhà. Tụi nó không đi học nên chơi tệ lắm. Nó sẽ đánh em, không có con ở nhà làm sao bênh vực cho em. Đôi khi anh tôi nói thèm ăn kem ở hãng gần nhà. Nhưng thôi má đừng mua vì ở đó bán mắc hơn ông bán dạo. Nhà mình nghèo con nhịn cũng không sao.
Có lẽ chán cảnh bon chen nơi đô hội, cha tôi quyết định đem gia đình về vùng cao su đất đỏ miền Đông. Tôi và 4 đứa em sau ra đời ở nơi này. Cũng ở nơi đây cha tôi tạo nên sự nghiệp và phủi tay gởi lại như chưa từng đến và đi. Dù vậy những tháng năm tôi ra đời và dần khôn lớn nơi này, đã để lại những dấu ấn sâu đậm chuyển đổi cuộc đời cha từ đó
Không còn đường để quay về khi đã có khả năng bảo bọc người thân, cha tôi đau xót ngập lòng ngày nhận tấm bưu thiếp lần đầu cũng là lần cuối vì Bắc nam không còn liên lạc thông thương. Bà tôi mất trong trận đói năm Ất Dậu. Ông tôi kéo lê chuỗi ngày tàn trong khó nghèo không một nguời thân ruột thịt ở cạnh bên, bởi cha là đứa con duy nhất đã lìa xa. Dù có thể ngồi nhà để điều hành công việc kinh doanh với mẹ tôi, đồng thời vẫn coi sóc được những chiếc xe hàng và xe chở khách có thuê tài xế, nhưng cha tôi vẫn miệt mài làm việc không ngừng. Ông như sợ phải đối diện với những giờ phút thảnh thơi, nhàn rỗi. Dù cực nhọc, dù hằng ngày vẫn giao tiếp với đủ hạng người bao gồm những nguời không mấy hiền lành, nhưng trước sau cha tôi vẫn là người trầm lặng như thuở trước. Ông kể thuở còn ở Saigon, những buổi trưa mướn ghế bố nằm nghĩ chờ đến chuyến của mình, từ phòng bên cạnh là tiếng kêu dọc tẩu của những bàn đèn thuốc phiện mà dân ghiền lui tới mỗi ngày. Trên vách, những con thằn lằn kéo ra hít khói vì hình như chúng cũng nghiện theo, trong khi cha tôi thản nhiên nằm đếm thời gian. Sòng bạc là nơi ông xa lánh, bởi nỗi đau thầm lặng ngày xua, chưa kịp lớn đã chứng kiến điều bi thảm mà lẽ ra không xãy tới, nếu như ông tôi không có máu đỏ đen, bán hết gia sản ông cha để lại nơi sòng bạc. Cha tôi dạy con rất đỗi nghiêm. Không chấp nhận bất cứ lời nói khiếm nhã nào, sẽ phạt rất nặng chẳng chừa ai, nếu như một trong mười anh em tôi phạm lỗi. Không muốn bất cứ đứa con trai nào bén mãng đến gần những lá bài, dù chỉ là trò chơi đánh bài, đặt bằng những cọng dây thung hay bao thuốc lá không.
Căn nhà mới cất nằm trên con dốc, có ngôi tịnh xá thật gần. Hình ảnh những vị sư đầu đội trần, chân đạp đất xếp hàng dài đi khất thực trong ánh nắng như thiêu đốt trên con đường nhựa, đã làm cha tôi xúc động, bồi hồi. Từ đó luật lệ dành cho anh em tôi bỗng như thắt chặt thêm, sau khi cha tôi tìm đến ngôi tịnh xá tìm hiểu và học Phật từ nơi những vị sư thường lặng lẽ khép mắt bước đi trên những con dốc có nắng vàng và bụi đỏ ngập đầy. Cho mãi đến mấy mươi năm sau tôi mới nhận ra, từ thuở nhỏ anh em tôi đã được cha dạy hạnh nhẫn nhục từ nơi cách sống của ông và áp dụng luôn cho cả đàn con. Không nhìn lỗi người, chỉ ráng thấy lỗi mình. Nhịn mà không thấy nhục vì đó là cách mình chọn để sống với mọi nguời, những người cũng có niềm vui, nỗi khổ như mình, chỉ vì nghiệp quả khác nên hình tướng khác. Còn lại ai ai cũng ước mong được hạnh phúc, bình an. Đã mong hạnh phúc thì đừng bao giờ gieo đau khổ cho ai, dù họ đối với mình có ra sao đi nữa. Anh em tôi đã một thời uất ức tủi buồn. Nghĩ cha bất công, chỉ biết lo cho con đầy đủ ấm no mà thiếu tình thương, bởi quá nghiêm khắc, đòi hỏi con phải làm người lớn khi tuổi còn thơ dại. Chỉ cần người anh nghịch ngợm nhất nhà phạm lỗi, là cả đám anh em bị nằm xếp hàng nhận lãnh những ngọn roi từ một cọng mây. Cha bảo nếu như anh tôi không chơi chung với đám nghịch phá thì hàng xóm không tới phiền hà, dù sự thật lần đó anh không góp mặt. Người ta tức bực những người bao che, bênh vực con hư nên tìm tới cha tôi cho hả dạ , vì biết cha sẽ xử tội anh tôi không cần biết những lời cáo buộc kia có đúng như sự thật hay không. Lần đó, tôi chưa đủ tuổi để lãnh quả chung với anh tôi nên ngơ ngác kêu lên khiến chị tôi điếng hồn luôn. Chị vốn sợ đòn roi nên ráng thật ngoan. Vậy mà vẫn bị cha tôi ra lệnh tất cả chịu đòn chung như luật lệ đã ra. Chị cuống quýt tuột ngồi thụp xuống cạnh bên chiếc đi văng. Chụp cái giỏ đi chợ của mẹ treo gần đó lên đầu mong cho cha tôi không để ý. Sau lần đó, cha tôi tội nghiệp, đã tha không bắt lũ con gái chịu đòn chung .
Còn rất nhỏ đã được huấn luyện thật nghiêm như trong quân đội, cho nên tính ra anh em tôi ít bị đòn roi. Người nào cũng lo giữ thân mình, cũng chính là giữ gìn cho người vô tội khác trong nhà. Phải có đàn con đông, phải gánh oằn vai trách nhiệm vật chất lẫn tinh thần và luyện rèn đạo đức cho con, mới thấu hiểu tấm lòng của người cha yêu kính nhất trên đời ngày đó. Bên cạnh việc để mắt uốn nắn và dạy dỗ khắt khe, cha tôi không nói gì về tâm từ, nhưng chúng tôi học hai chữ từ bi, bằng chính cách sống của cha và mẹ mỗi ngày ở trong đời. Cha cho thiếu hoặc không lấy tiền vé xe đò với đám học sinh con nhà nghèo đi trọ học xa nhà. Cha đem về cho ngủ qua đêm những người thiếu nữ hoặc đàn bà lỡ đuờng không có người thân. Một trong những người thiếu nữ lạc loài, hoạn nạn đã trở thành con dâu của cha mấy năm sau, dù lúc đó anh trai tôi đã vào quân ngủ lâu rồi, không có mặt trong đêm định mệnh. Đúng là duyên và nợ buộc vào nhau. Qua đêm tá túc ở nhà tôi, người thiếu nữ trở về miền Tây và tìm gặp anh tôi sau khi biết anh đang đóng ở đây. Mẹ tôi nhiều lần xót dạ, vì sau một đêm khách lạ ra đi mang theo quần áo hay một vài món đồ quý giá của mẹ tôi. Cha tôi nghe phàn nàn chỉ cười trừ. Thì họ lâm cảnh khốn cùng coi như mình bố thí. Mà đã bố thí thì đâu còn màng đến việc cho và nhận ra sao. Cha tôi bắt đầu ăn chay niệm Phật và thỉnh về những bộ kinh để tụng hằng đêm. Căn gác nhỏ trở thành giang san riêng biệt. Mỗi tối và khuya, giờ chuông mõ tụng kinh, trong nhà là tôi một khoảng vắng im. Tiếng nói chuyện thì thào. Radio, tivi vặn nhỏ xuống hay tắt hẳn, dường như không có âm thanh nào trong căn nhà rất nhiều người. Có lẽ không chịu nỗi không khí u trầm tĩnh lặng, nên những chị hai giúp việc sau một thời gian, lặng lẽ rút lui với cùng một lý do. Ở đây buồn quá, dù con được đối xử như các em trong nhà, hơn bất cứ nơi nào con đã vào làm. Mẹ tôi cực nhọc nhiều hơn mỗi lúc "mất" chị hai. Nhưng dù mẹ tôi có người phụ việc hay không, cả hai đấng sinh thành vẫn đều đặn đón tiếp và lưu lại vô thời hạn những người bà con xa gần, tới ở chơi hay chữa bệnh dài ngày. Khi về ai cũng có quà là bánh trái, thuốc men kèm với ít tiền.
Không tranh cãi hơn thua, cho rằng mình đúng người sai. Không để mắt vào chuyện người khác và lặng lẽ rút lui khi người gây hấn. Đám anh em tôi đã đi vào đời bằng những bước nhẹ nhàng. Một đôi khi người anh hiền nhất thở than. Sống chân thật, nhường nhịn không hơn thua với bất cứ ai, đôi khi mình giống như ngu khờ dưới mắt mọi người. Tôi an ủi anh tôi. Khờ mà ăn ngon, ngủ yên. Thêm bạn, bớt thù cũng hạnh phúc rồi. Hãy nói cho em nghe, xưa nay anh có kẻ thù không? Anh tôi cười hiền, bỡi thừa hiểu những gì nhận được qua cách sống của cha tôi. Không cần nói gì nhiều, vẫn làm cho người giao tiếp thân cận cảm nhận sự tin tưởng, bình an. Anh có thêm nhiều những người anh, người chị trong đời bên cạnh gia đình vốn lớn sẵn rồi. Đó là những người khách hàng, cảm mến và mở rộng vòng tay đón nhận anh như một người thân.
Tôi nhớ thời trung học ở Saigon, có nhiều buổi sáng trước sân trường tôi bỗng dưng ao ước tình cha. Hình ảnh cô bạn học ngồi vòng tay ôm người cha trên chiếc vespa, ngó sao ngọt ngào, đầm ấm, dễ thương. Xe dừng lại trước cổng trường. Cô nhỏ bước xuống ôm vai cha và nhận lại gói quà sáng người cha đặt vào tay con gái, xiết nhẹ và ân cần dặn nhỏ điều gì. Tôi thường được Tuyết Dung bạn tôi chia chung quà sáng của cha. Là chiếc bánh bao còn nóng, hoặc gói xôi, khúc bánh mì.... mua đâu đó trên đường chở con đi học. Một lần, tôi đến nhà Dung. Hết sức ngạc nhiên khi nhìn thấy bạn tôi- cô tiểu thư xinh đẹp, hiền ngoan và học giỏi đang trãi tình thương cho lũ heo con. Căn nhà ở ngoại ô thành phố với khu vườn cây ăn trái, đất rộng mênh mông, phía sau còn có một chuồng heo. Nhìn bạn tôi vừa tắm cho lũ heo con, vừa nâng niu đùa giỡn như đang chơi đùa với lũ em thơ. Tôi nhận ra những gì Dung đón nhận từ cha, cô đem chia lại cho đàn heo mọi đen thui, bé bỏng. Chợt biết, mình hay khao khát được thương yêu nhưng dường như quá ích kỷ. Chỉ mong đón nhận hơn là cho ra những gì mình có thể, dù đó là thứ càng cho đi, càng thấy giàu thêm. Những bài học từ bi cha tôi một đời không ngừng dạy bằng ngay cách sống của người. Vậy mà tôi cứ thấy cha là cha và tôi là tôi, cho nên vẫn luôn thầm khao khát tình cha.
Cha tôi ra đi đã 4 năm. Mẹ tôi vẫn hụt hẫng sau khi đã nép bóng bên người 61 năm dài. Riêng tôi luôn cảm nhận cha hiện diện mọi lúc mọi nơi, quanh tôi. Cha ở trên khuôn mặt chị tôi với những vết đồi mồi. Cha ở trên vầng trán cao cương nghị, trong giọng nói hiền ấm của những người anh. Cha ở trong tình thương mà mẹ tôi tiếp tục trải dài từ quê hương mới bên này tới quê hương bên kia. Từ ngôi chùa lớn cho tới mái lá nghèo nuôi trẻ mồ côi ở Việt Nam. Cha còn mãi qua lời an ủi, trong những giờ phút sau cùng tôi quanh quẩn cạnh cha ở nhà thương. Con ơi, không phải chỉ người dư giả, giàu sang mới có cơ hội bố thí, cúng dường. Nếu biết cho ra không suy tính đắn đo những gì đang có sẵn nơi con, là tình thương và sự hiểu biết, thì hạnh phúc của người cũng là hạnh phúc của con. Gia tài cha để lại, không thấy gì nhưng trùm khắp quanh đây, chở che từng bước. Vậy mà ngày xưa tôi đã ngây ngô ao ước tình cha.

Vu Lan 2007
Nguyên Thảo
http://quynhmy.blogspot.com/



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/09/2024(Xem: 690)
Tại sao lại nói “ruột đau chín chiều”? Đó là những chiều nào, hướng nào? Hay đó là chín buổi chiều? Có bao giờ chúng ta tự hỏi tại sao ruột đau không phải ba bốn chiều hay tám chiều mà lại “chín chiều” ?
11/09/2024(Xem: 804)
Vào lúc 09:30 am ngày 08 tháng 9 năm 2024, chùa Đại Bảo Trang Nghiêm tọa lạc tại số 2553 Darwin Street, thành phố Hayward, tiểu bang California đã trang nghiêm tổ chức Lễ Vu Lan Báo Hiếu năm 2024, Phật lịch 2568. Hòa thượng Thích Từ Lực, Viện chủ chùa Phổ Từ (Hayward), thiền viện Phổ Thiên (Castro Valley) và trung tâm tu học Phổ Trí (Vacaville) quang lâm Chứng minh và ban Đạo từ.
09/09/2024(Xem: 672)
Lễ Vu Lan PL 2568 (8/9/24) tại Chùa Bảo Minh, Vic, Úc Châu (Photo: Thiện Hưng) | quangduc.com
07/09/2024(Xem: 909)
Sáng ngày 30 tháng 7 Giáp Thìn (02/9/2024), nhân ngày Khánh đản đức Bồ tát Địa Tạng, chùa Bửu Long ở thôn Lễ Thạnh, xã Diên Thọ, huyện Diên Khánh đã trang nghiêm tổ chức đại lễ Trai Đàn Chẩn Tế - Kỳ Siêu Bạt Độ, trên là để báo đáp Tứ Trọng Ân, dưới là để cứu vớt những âm linh bị đọa vào Tam Đồ Khổ (ba đường ác lụy: gươm đao, nước và lửa), đồng thời cũng cầu siêu hồi hướng cửu huyền thất tổ, cầu nguyện quốc thái dân an, thiên tai ôn dịch tiêu trừ
04/09/2024(Xem: 400)
Chùa Pháp Tạng là 1 trong 6 ngôi chùa thuộc Tổ chức Quốc tế Bồ Đề Quang - BLI (Bodhi Light International, Inc.) được Thầy Thích Vĩnh Hóa sáng lập, căn bản là Phật giáo Đại thừa Trung Hoa được điều chỉnh cho phù hợp với văn hóa và cảm nhận của thời đại mới.
02/09/2024(Xem: 599)
Lễ Vu Lan PL 2568 (1/9/24) tại Tu Viện Kim Cang, Victoria, Úc Châu (Photo: Thiện Hưng) | quangduc.com
01/09/2024(Xem: 528)
Lễ Vu Lan PL 2568 (31/8/24) tại Chùa Pháp Vân, Melbourne, Úc Châu (photo: Quảng Diệu Trí) | quangduc.com
28/08/2024(Xem: 475)
Vào lúc 09:30 am ngày 25/8/2024, chùa An Lạc tọa lạc tại số 1647 E. San Fernando Street, thành phố San Jose, tiểu bang California đã trang nghiêm tổ chức Lễ Vu Lan Báo Hiếu tại Chánh điện và Lễ Trai đàn Chẩn tế Bạt độ chư Hương linh tại tháp linh cốt.
26/08/2024(Xem: 432)
Lễ Vu Lan Báo Hiếu Phật Lịch 2568 (25/8/24) tại Chùa Thiện Minh, Lyon, Pháp Quốc
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com