Anh Lạc Sang Tàu
(Bút ký hành hương Trung Quốc)
Kỳ II |
Thiện Anh Lạc
Khoảng sáu giờ ba mươi sáng, xe lửa đến sân ga Đại Đồng. Nghe nói nơi đây thiếu an ninh, có nhiều thổ phỉ nên tôi hơi sợ, đề phòng, nhưng tôi chỉ thấy người dân địa phương có gương mặt hơi man rợ vì khí hậu khắc nghiệt làm nước da họ đen sạm, vậy thôi. Họ xúm lại, tò mò nhìn chúng tôi đang đứng giữ hành lý, chờ xe buýt đến đón ở một khoảnh đất, trước sân nhà ga.
Chẳng bao lâu, xe và hướng dẫn viên địa phương đã đến, họ đưa chúng tôi về khách sạn ăn sáng. Thành phố tấp nập, hỗn độn người, xe qua lại, nhà lầu, nhà trệt, cửa hàng, khách sạn khắp nơi trên đường. Hai bên lề, có những người trả? đại tấm ni lông xuống đất, bày bán vài thứ rau đậu trái cây, có những chiếc xe ba bánh chở đầy trái cây, rau cải nằm cả xuống đường, lấn một khúc ra đường cái. Còi xe inh ỏi liên hồi báo hiệu những chiếc xe đạp tránh xa xe vận tải, xe buýt. Tôi thấy cả sự chênh lệch lạ kỳ trong thành phố khi một toà cao ốc khách sạn quốc tếđứng ngất ngưởng bên cạnh một ngôi nhà nhỏ, mái ngói, phên gỗ đen thui, ọp ẹp, tiêu điều. Cả một ngày hôm qua lang thang ngoài đường, một đêm ngủ trên xe lửa. Chúng tôi mong có nơi để làm vệ sinh cá nhân cho sạch sẽ, khoẻ khoắn, phấn khởi trước khi đi lễ bái, thăm viếng thánh tích. Không có chỗ, chúng tôi đành ở bẩn mà lên đường.Khách sạn quốc doanh miền núi nấu thức ăn thật "khiêm nhường" như khung cảnh. Sau một đêm ngủ chập chờn, người ngợm rít chịt, mệt mỏi làm chúng tôi không thiết chi ăn uống, chỉ dùng qua loa rồi lên đường đi thăm viếng thánh tích nơi đây.
Nơi đây thiếu nước trầm trọng nên dân địa phương có khi cả năm không tắm giặt… Nhìn ra ngoài cửa, tôi thấy một lớp bụi mỏng bay toả trong hư không, những người lam lũ, mặt mủi lem luốc đang lúi húi trồng trọt chút rau đậu, những trẻ em chạy nhảy, vui đùa khắp nơi. Không có nước, họ cũng cố công trồng trọt được chút cây xanh tô điểm bên đường. Nhìn thấy đời sống của họ như vậy, tôi hết bức rức bị ám ảnh hai ngày qua không tắm gội, dùng ngoại cảnh để đối trị căn bịnh chấp trước này rất hiệu quả, tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thư thái hẳn lên.
Chúng tôi phải leo lên nhiều bậc tam cấp mới đến cổng tam quan của chùa, mua vé xong, lần lượt từng người vào bên trong. Trước khi viếng hang động, phái đoàn bước vào một ngôi chùa làm lễ. Chùa nhỏ, bằng gỗ, có mái ngói ống nhiều màu ngả thành màu chết đẹp tuyệt.
Tôi thăm viếng, chiêm ngưỡng, lễ lạy từng vị Phật trong mỗi hang lớn nhỏ. Có hang to,cả đoàn vào được hẳn bên trong như những hang đầu tiên, có đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bênphải Ngài là Ngài trưởng lão Ma Ha Ca Diếp, bêntrái là Ngài A Nan, tường xung quanh khắc hẳn thành ba bực, đều có hình Bồ Tát, chư thiên. Trên trần hang khắc hình những hoa sen và những vật cúng dường.
Có hang chỉ được đứng bên ngoài nhìn vào vì nhỏ hay là nguy hiểm. Tôi đi viếng hết tất cả các động này trong lòng rất buồn, tất cả tượng đều bị tàn phá bởi chủ nghĩa, hành động quá khích gọi là" Cách Mạng Văn hoá " trong thế kỷ qua. Nhìn thấy những tượng Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp bị cụt tay, móc mắt, vạt mặt, thẻo mũi mà lòng tôi đau sót tựa hồ như người thân yêu của mình bị lâm nạn. Có nhiều tượng được bàn tay Phật Tử rờ vào đến độ nhẵn thín, bóng láng vì thương cảm quá đổi. Phải mất hàng mấy trăm năm, người xưa mới hoàn tất được những công trình to tác như thế, Vậy mà, chỉ đập phá trong chốc lát, công trình xây dựng ngàn đời đã trở nên hoang phế. Tôi ngậm ngùi than tiếc với một vị Đại Đức và hỏi Thầy rằng quả báo ra sao khi làm thân Phật ra máu như thế ? Tôi thầm nghĩ mặc dù không ra tay trực tiếp, nhưng đã hô hào, khuyến khích quần chúng tàn phá như thế thì cũng mắc tứ trọng tội do giáo tha tác rồi. Vị Đại Đức cho tôi biết người này đã bị điên loạn, quằn quại trước khi qua đời.
Động số 6 chạm nổi về lịch sử đức Phật, từ sơ sinh đến xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn.
Động số 7 chạm tam thế Phật - Thích Ca, Di Đà, Di Lạc - Tượng Phật Đa Bảo. Trên trần chạm những thiên thần trổi nhạc cúng dường. Hoàn tất trong 600 năm.
Động số 8 chạm Phật Di Lạc rất đẹp ở giữa, trên trần chạm tam thế Phật.
Từ động số 9 -> 13gọi là Ngũ Hoa Động - Động số 9 bên ngoài đã đục xong, nhưng bên trong chưa có gì. Những công trình vẫn chưa hoàn tất vì chinh chiến.
Động số 11 Chạm đức Phật A Di Đà, đứng hai bên là Ngài Quán A? và Thế Chí.
Chạm từ năm 470 - 493 thời Bắc Ngụy - năm Thái Hoà thứ 7 (483)
Động số 12 không có hình Phật, Bồ Tát, chỉ có hình tượng chư Thiên thổi sáo, đàn ca để cúng dường chư Phật trên trần,
Động số 13 chạm Phật Di Lạc cao 13 m
Động số 16 có tượng Phật đứng, cao đến 13.5 m. Có gương mặt giống Vua Đạo Vũ để hậu thế nhớ ơn.
Động số 17 chạm Phật Di Lạc cao 15.6 m.
Động số 18 chạm tam thế Phật cao 15.5m. Đặc biệt là trên y đức Phật có chạm 1,000 tượng Phật do Vua Thái Vũ cho tạc để cầu nguyện tiêu tai ách.
Động số 19 chạm Phật Thích Ca cao 16.8 m , gương mặt tạc hình vuông.
Động số 20 chạm Phật cao 13.7 m. Sắc diện khác hẳn vì được tạc sau này.
Rời Vân Cương Thạch Động hơi trể sau vài giờ thăm viếng, trể nải vì một số quí vị trong đoàn mướn chụp hình nhưng chưa trả tiền, hình chưa xong nên họ bu lại níu xe lại không cho đi.Một số người trên xe đã đồng ý dân vùng này có tiếng đồn là dữ. Tôi trái lại không đồng ý, tôi thấy họ làm vậy cũng phải, vì họ quá nghèo, lâu lâu mới có mối lợi sống qua ngày, họ đâu có chịu bị thua thiệt. Khách du lịch giàu có hơn họ nhiều, sao khôngchịu trả tiền cho họ trước đi rồi hẳn đi đâu thì đi.
Chùa hạ Hoa Nghiêm:xây cách đây 1500 năm vào Thái Hoà năm thứ 8, 484 sau Tây Lịch. Một tượng Phật lộ thiên bằng đồng bày giữa sân chùa. Có lẽ trước đó được thờ trong chính điện. Tượng Phật, chùa, chuông đồng … đều dãi dầu sương gió, mưa nắng nên trông thật thê lương.
Chùa xưa quá mà không được trùng tu lại nên trông xiêu vẹo, âm u, hầu hết tượng trong chùa bằng đồng, đã lên màu xanh, là mhững món đồ cổ rất quí. Sân gạch đã mòn, mái ngói rêu phong, cột kèo mục nát, nơi thờ phượng lại tối om, các vị Phật và Bồ Tát đứng ngồi thầm lặng trong bóng tối trông thật tang thương. Chúng tôi không ở lâu, chỉ lễ Phật rồi lui ra vì thời giờ có hạn.
Chùa có bảo tàng viện lớn nhất trưng nhiều đồ đồng, đồ đá rất quý, giá trị mấy ngàn năm lịch sử. Đặc biệt là những ngà voi hoá thạch rất lớn.Bảo tàng viện tươm tất, lịch sự, tân kỳ vì có người chăm nom cẩn thận, tôi thấm mệt nên không đi hết.
Chùa thượng? Hoa Nghiêm:đang trùng tu, không được phép vào.
Ngũ long bích:Trên tường có chạm 5 con rồng. Đây là bức tường thứ hai có chạm rồng từ đời Chu Nguyên Chương - nhà Minh. Ở cố cung cũng có một bức.
Thành phốlúc nào cũng mờ mờ phủ màu đen do bụi than đá đem lại. Tuy nhiên, thành phố khá tươm tất cho khách ngoại quốc đến thăm viếng.
Gọi là chùa cho long trọng, chứ thật ra chỉ là những điện thờ nhỏ chừng vài thước vuông như một cái hang, trong có tượng đã bị tàn phá đến đau lòng người Phật Tử.
Có điện đóng hẳn cửa từ cầu thang, không cho vào vì nguy hiểm. Có điện chỉ cho đứng ngoài nhìn vào, và có điện được vào hẳn bên trong, trước bàn thờ, dưới đất có gối và manh chiếu để lễ. Không một tượng nào còn nguyên vẹn,phần lớn bị cụt tay, móc mắt, xẻo mũi, cà mặt trông thật tội nghiệp. Thương tâm nhất là tượng đức Bổn Sư bị cụt tay, hai bên, hai Ngài Ca Diếp và A Nan bị phá hủy hình hài, nhưng sao tôi thấy từ các vị nơi đây, vẫn cón phát ra được tướng hảo trang nghiêm, một vẻ đẹp thù thắng, bất sinh, bất diệt. Tôi leo lần lên ngôi điện cuối, cao chót vót trên không, nơi đây vắng vẻ, ít người lui tới nên tĩnh mịch, ngôi điện đầu khá to nên tôi vào hẳn bên trong lễ Phật. Tâm hồn bình lặng, nhìn xung quanh, bất giác tôi an lạc không ngờ khi nhìn thấy cảnh giới Tây Phương Cực Lạc được trình bày trong ngôi điện này. Điện có rất nhiều tượng bị đập phá sơ sơ nên vẫn còn nét đẹp thanh thoát, trang nghiêm cõi tịnh độ. Trên trần là chư Thiên trổi nhạc, rải hoa cúng dường chư Phật, Bồ Tát. Đứng hẳn bên ngoài bàn thờ Phật có hai vị Hộ Pháp to lớn như người thật. Tất cả những tượng chùa này làm bằng đá hay đất nung sơn phết màu sắc sặc sở, có tượng được mặc áo hay choàng khăn. Trông thô sơ,mộc mạc, chân chất, phản ánh rõ rệt tâm hồn người dân vùng này vào những thế kỷ trước.
Lễ lạy xong, tôi cẩn thận leo hay … bò xuống, lạ quá, người xưa xây bao lơn đi xuống sao mà dốc ngược ra phía ngoài, sơ ý rất dễ mất thăng bằng mà lộn nhào.
Tưởng rằng đi đã hết, bất giác, tôi đi ngang qua một điện nhỏ có Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đứng trong đó làm tôi chú ý bước vào. Tượng thật trang nghiêm và hảo, nhưng hơi buồn tủi vì đóng cáu bẩn như khung cảnh xung quanh. Bên cạnh tượng là chiếc bàn gỗ đầy bụi bên trên có phích nước, vài cái ly uống nước cùng cái ấm nhôm, có một hai chiếc ghế. Tôi ngửi thấy mùi thịt cá nấu chín bay lên nồng nặc, nhìn sang bên điện kia, có chiếc võng đong đưa, một vài người trong ấy nhìn lại tôi. Thì ta, họ đã biến điện thờ ở từng trệt thành nơi trú ngụ,không chừng, họ là những người trông nom, quét tước Chùa này. Tôi thương Ngài Địa Tạng phải ở đấy, nhưng chợt nhớ Ngài còn vào tận địa ngục nữa là … xá gì nơi đây.
"Xuống núi", chúng tôi mua sắm, nghỉ ngơi, thư dãn một chút rồi lên đường đi núi Ngũ Đài. Đường đi từ đây đến chân núi Ngũ Đài mất khoảng bốn giờ nên chúng tôi phải chuẩn bị tinh thần ngồi xe. Xe chạy dần dần lên núi cao, một bên thung lũng, một bên vách núi cheo leo, đường xá khá tốt nên xe chạy êm ru. Dưới thung lũng, vườn tược xanh tươi với những ruộng lúa, luống rau tươi, xanh mướt như ngọc, lác đác vài mái nhà tranh, vách đất. Vách núi, cây dại mọc đầy lởm chởm, cây non xanh biếc, cây già vàng úa,những cụm mây thấp trôi lơ lững giữa hư không tạo nên cảnh giới huyền ảokhi trời chiều buông xuống êm đềm…..