Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Bửu Thắng (1917-2001)

20/06/201616:59(Xem: 8207)
Hòa Thượng Thích Bửu Thắng (1917-2001)

 

HT Buu Thang

TIỂU-SỬ
HÒA-THƯỢNG THIỀN-SƯ

THƯỢNG BỬU HẠ THẮNG

VIỆN CHỦ CHÙA BỬU MINH THỊ XÃ GÒ CÔNG  TỈNH TIỀN GIANG.


NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT
NAM-MÔ BỬU MINH ĐƯỜNG THƯỢNG  LỊCH ĐẠI
TRUYỀN GIÁO TỔ SƯ TÁC ĐẠI CHỨNG MINH.


CHAO ÔI !


Đường sanh tử như vó câu qua cửa
Chùa BỬU-MINH vắng bặt bóng TÔN-SƯ
Thầy thâu thần lướt nhẹ chiếc thuyền từ
Rời uế độ vào Pháp-Thân Tịnh-Độ.

 

I -THÂN THẾ:


Hòa-Thượng pháp húy Nhựt-Thuận, Tự Thiện Lý hiệu Thích Bửu-Thắng thế danh Huỳnh-Văn-Giác., thuộc dòng LÂM-TẾ đời Gia Phổ thứ 41, là đệ tử của Tổ HỒNG-HOA.

Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại Thị Xã GÒ-CÔNG Tỉnh TIỀN-GIANG. Thân phụ là cụ  HUỲNH VĂN THIỆT, thân mẫu là cụ ĐỖ-THỊ-THẾ. Ngài là con trai độc nhứt trong gia đình khá giả, nên thuở thiếu thời Ngài rất mực phong lưu, cầm, kỳ, thi, họa đều tinh thông nhưng sở trường là môn thi phú.


Nhân một dịp lên Sài-Gòn Ngài được xem vở tuồng về Lịch Sử Đức Phật, tâm hồn Ngài tự nhiên biến chuyển, thường suy tư trầm mặc, hình ảnh Đức Phật Thích Ca luôn xuất hiện trong tâm tưởng Ngài. Nhưng hột giống xa xưa vừa được khơi dậy thì lượng sóng của dòng đời cũng bắt đầu lôi cuốn. Theo quan niệm người xưa, quan trọng việc kế thừa hương quả. Năm 16 tuổi trên gương mặt của người thiếu niên còn rạng rỡ nét hồn nhiên thanh thản, Ngài vâng lệnh nghiêm đường tác thành hôn phối.Trong cuộc sống gia đình, tâm tư Ngài luôn luôn tư duy khắckhoải về cái gì ngoài nếp sống cuốn theo dòng đời. Sự thôi thúc trong tư tưởng mỗi ngày thêm mạnh.


II -XUẤT GIA:

Năm 24 tuổi (1941) Ngài quyết định bước theo chân Đức Phật, sắp xếp an bài gia nội xong. Ngài đến chùa PHƯỚC HỰU Huyện Gò Công Tây, biết duyên đời đã mãn, Hòa-Thượng HỒNG-HOA hứa khả tác lễ thế phát xuất gia.  Vốn bản chất thông minh, có trí nhớ tốt lại tinh tấn tu hành nên Ngài rất được Thầy thương bạn mến, sống trong Tăng chúng Ngài luôn luôn hòa với Huynh Đệ, đồng lao cộng khổ, không nài khó nhọc, bên trong thì miên mật dồi trao trí-tuệ thúc liễm thân tâm.
Năm 1944 Ngài được Hòa-Thượng Bổn-Sư truyền giới Cụ Túc Phương-Trượng ban cho pháp hiệu BỬU-THẮNG và nhận biết Ngài là bậc Pháp-khí nên Hòa-Thượng đặc truyền pháp môn vi diệu Thiền-Trực-Chỉ, pháp môn nầy bị thất truyền gần 200 năm nay, từ khi tổ LIỂU-QUÁN viên-tịch. Khi nghe thuyết giảng, chủng tử sẵn có như được khơi dậy Ngài lãnh hội rất nhanh và chợt bật lên hai câu kệ:


“Trực-Chỉ dừng ngay chỗ vọng sanh
Tức thì khổ hải biến thành Chơn-Như”.


Từ đó Ngài chuyên tâm miên mật không hề sao lãng, sáu năm ròng rã Ngài đã ngộ được tâm yếu của Thiền.
Thiền là vô ngôn là chỗ trực nhận, nhưng qua hai bài kệ lời lẻ  đơn sơ chất phác Ngài đã nương văn tự diễn tả được chỗ thênh thang rỗng lặng của Thiền.


BÀI 1

Trực-Chỉ dừng ngay thiện ác liền
Tức thì Bát-Nhã chiếu vô biên
Diệt sanh sanh diệt do tâm tạo
Khéo chớ dụng tâm Phật hiện tiền.


BÀI 2 

Lân lân lẻo lẻo bặt duyên ngàn
Rần rộ hoa lòng phát trổ quang
Sanh-tử đâu còn lo sợ nữa
Niết-Bàn tợ huyễn hết cưu mang.


Ngay đó Thầy trò tương ngộ, Hòa-Thượng ấn chứng cho Ngài là bậc chân truyền, là người nối truyền mạng mạch Như-Lai và  truyền bài kệ pháp phái.


NGUYÊN bổn cao minh siêu thế tục
LINH  thành đại đạo độ quần sanh
BỬU  truyền lý pháp Tam thiên giới
THẮNG  ý tu hành Bát-Nhã sanh.


Năm 1958 Thượng-Tọa trụ trì chùa Bửu-Lý viên-tịch Ngài được bổ nhiệm về giữ chức Trụ trì, nay là chùa Huệ-Quang ở tại thị xã Gò-Công. Tuy là một Trụ trì nhưng Ngài có một nếp sống rất là đạm bạc, Ngài thường thối thác những đám cúng tụng linh đình, những nghi lễ rườm rà trịnh trọng. Đối với Ngài lấy việc tọa thiền làm cơm áo, lấy trí huệ làm sự nghiệp tiến thân, thập phương tín thí thường gặp Ngài trong bộ đồ vải sờn vai sút gấu, cuộc sống thô-sơ đạm bạc giúp cho Ngài dễ dàng trui luyện đạo tâm.


Năm 1960 Ngài rời chùa Huệ-Quang về ấp Kim Liên thị xã Gò Công tỉnh Tiền Giang cất một thất lá ẩn dật tu hành cho tròn đạo hạnh và chùa Bửu-Minh được Ngài khai sơn từ đó. Cơ duyên lại đến cũng vào năm này. Ngài thâu nhận một người đệ tử đầu tiên Nam giới, từ đó hai Thầy trò tự lực cánh sinh, trong hoàn cảnh thật là kham khó mà Ngài vẫn bền tâm vững chí không một chút sờn lòng. Đây cũng là bước đầu trong giai đoạn hoằng đạo.


III -HÀNH ĐẠO


“Tự lợi là nhà, lợi tha là sự nghiệp” . Đó là phương châm của ngài trên bước đường vào đạo. Năm 1983 Đại-Đức Trụ trì tịnh-xá Ngọc-Thành Chợ-Lách tỉnh Bến-Tre thỉnh ngài về khai thiền, bài pháp ngài nói đầu tiên là :


“LUẬN THỨC CHỖ TU THIỀN”

và từ đó bước chân vân-du của Ngài thường được dừng lại tại các Chùa khác tỉnh Bến-Tre, để thuyết giảng cho những hành giả mến mộ tu thiền. Nội dung của những bài giảng càng sâu-sắc thì sự loan-truyền càng rộng rãi và bước chân của ngài lại cùng khắp.

Năm 1985 ngài được Hòa-Thượng Huệ-Hưng hiệu phó trường cao cấp Phật-học Việt-Nam, Viện-Trưởng Tu-viện Huệ-Quang Đầm Sen Thành-Phố Hồ-Chí-Minh mời về khai Thiền tại Tu-Viện. Đây cũng là điểm Ngài dừng bước vân du khá lâu (từ năm 1985 đến năm 1987) để khai Thiền-Trực-Chỉ. Ngót hai năm dài trong thời gian rất khó khăn vất vả, nhưng với hoài bão hoằng-pháp lợi sanh báo Phật ơn đức Ngài không nản chí sờn lòng. Tuổi đời càng cao, sức khỏe càng kém, đường dài ngót 50 cây số, Ngài phải lặn lội từ đêm khuya giá lạnh đi bộ gần hai cây số xếp hàng mua vé, chỉ vì hạnh-nguyện Bồ-Tát, Ngài vui trong việc làm Xả-kỷ lợi-tha.

Chúng-sanh vô-biên Bồ-Tát thệ nguyện độ, nhưng duyên hợp tan là sự thông thường trong nhân sinh thế thái, bài pháp được tạm ngưng mà bước chân Ngài chưa dừng lại.


Cuối năm 1987 tứ đại bất an Ngài về chùa Bửu-Quang (Hòa Hưng Sài Gòn) dưỡng bịnh, sau hai tháng vừa bình phục thì Ngài tiếp tục vân du, tập hợp những Phật tử mến mộ tu Thiền thành lập Đạo tràng Kim-Cang Bát-Nhã hơn 100 vị. Thầy trò trong niềm hoan-hỷ đạo tình, khóa thiền này được sinh hoạt từ năm 1987 đến năm 1994, đôi lúc gặp chướng duyên trở ngại Thầy trò cùng nhau lách vượt qua.


Đến 1988 Thượng-Tọa Trụ-trì chùa Long-Hưng huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng-Nai thỉnh Ngài về khai Thiền và chứng minh lễ Khánh Thành Tịnh-thất Giác-Quang trong khuôn viên Chùa. Trong thời gian giảng dạy tại đây Ngài đã tùy duyên hóa độ một đệ tử nữ làm lễ xuất-gia tại chùa.


Năm 1991 truyền giới Sa-Di, Sa-Di Ni phương-trượng cho năm vị xuất-gia tại chùa Long-Hưng. Làm hạnh Bồ-Tát vân du hóa tha nhưng Ngài cũng không quên tiếp độ những ai hữu duyên tại trú xứ. Tại Bổn Tự Bửu-Minh Ngài thâu nhận 18 đệ tử xuất gia, 7 Tăng, 11 Ni vào nội viện. Đệ tử Y chỉ gồm có Thầy Thích Thiện Lạc, Thầy Huệ Quang, Thầy Thiện Chánh, Thầy Quảng Thới, Thầy Thiện Tâm. Số ngoại viện Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di nhiều không tính kể.


Năm 1995 nghĩ mình tuổi cao sức kém Ngài dừng bước vân du  trở về trú-xứ tùy cơ hoằng hóa, thường có những buổi tham vấn Ngài dựa vào câu hỏi của Thiền khách mà khai thiền. Những bài giảng của Ngài trong suốt đời hoằng đạo được các
môn sinh gom lại soạn thành sách để làm Pháp bảo trong Tông môn.


Đã soạn: -Sanh tử sự dại, vô thường tấn tốc. -Thiền-Đạo. - Trực-Chỉ-Thiền.


IV –CÔNG HẠNH


Hòa-Thượng là người siêng năng chịu khó, trong sinh hoạt đời sống, ngài không quản gian lao, đem hết sức mình tự lực cánh sinh. Ngài rất thương đồ chúng nhưng luôn luôn giữ hạnh cần kiệm để tránh tiêu pha lãng phí, trong hạnh tu Ngài dùng thân giáo sách tấn Đệ tử, tránh buông lung giải đãi. Trong ngôi cổ-Tự Bửu-Minh Ngài là cội Bách-Tùng cho môn nhơn tứ chúng che mưa đỡ nắng.


Trong hạnh Bồ-Tát lợi tha Ngài luôn chịu kham khổ nhẫn-nại, có dạo Ngài lặn lội từ Gò-Công lên Sài-Gòn đúng ngày giảng quy định, nhưng đến nơi nhơn duyên không thuận thời giảng phải dừng lại Ngài lại quay về ba lần liên tục như thế. Ngài vẫn an nhiên chấp nhận kham nhẫn đợi chờ, tâm Bồ-Tát thể hiện trên khuôn mặt đầy lòng bi mẫn.  Với tâm nguyện độ tha báo đền ơn Phật, Ngài làm việc không
phân giờ giấc, chẳng ngại yếu già, khách ở xa đến tham vấn đạo, Ngài vui lòng tiếp đến quá bữa Ngọ trai, khách ở đêm Ngài tùy duyên khai-hóa đến qua canh Tý. Ngài thường ví mình như con chim Tiều-Liêu mong đem sức nhỏ bé dập tắt ngọn lửa hồng Tamgiới. Công hạnh của Ngài thật quả cao siêu, Ngài là điểm sáng cho đoàn hậu học noi theo.


V –NGỌA BỊNH


Vô thường biến đổi thân tứ đại mõi mòn, lượng ăn uống càng ngày càng giảm thiểu, tháng Chạp năm Canh Thìn (2000) Ngài ngọa bịnh tại sàng, nhận được thân tứ đại huyễn su đã đến lúc không cần nuôi dưỡng nữa, Ngài nói với đồ chúng:


-Thôi đừng ép tôi ăn nữa, đến đây đã viên mãn rồi.


Rồi Ngài bắt đầu tuyệt thực, nằm yên tịnh thần trong tư thế ngọa thiền để đón nhận sự vô thường phân hoại. Đồ chúng sót xa nhìn vị Thầy tôn kính héo mòn trong từng khoảnh khắc.

Ngày mùng 3 tháng Giêng năm Tân Tỵ (2001) Ngài được đưa vào bịnh viện đa khoa Gò-Công để chữa trị. Các Y, Bác-Sĩ tận tình chăm sóc nhưng sức khỏe Ngài vẫn trong tư thế mỏi mòn chờ đợi. Sáng ngày 18 tháng Giêng năm Tân Tỵ Ngài được đưa về  chùa, bốn đại tùy duyên tăng giảm, nhưng trong đôi mắt tinh anh
trong sáng Ngài đã biểu hiện được một sức sống vĩnh hằng.


Sáng ngày mùng 10 tháng 2 năm Tân Tỵ Ngài gọi đồ chúng lại dặn dò sắp xếp cho tang lễ, giọng nói của Ngài mệt mõi rời rạc từ từ .

Đến lúc 2 giờ ngày rằm tháng 2 năm Tân Tỵ Phật lịch 2545 tức ngày 9-3-2001 Ngài thâu thần tịch diệt.

Tuổi đời thọ 85 và được 57 Hạ Lạp.


Trích Bộ sách Từ Điển TRỰC CHỈ THIỀN

 Lưu hành nội bộ  PL - 2546


---

Hôm nay tôi tìm được chân dung Hòa Thượng Thiền Sư Bửu Thắng và gửi kèm theo Tiểu sử của Ngài . Kính mong Trang Nhà Quảng Đức để giúp chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử gần xa biết thêm về hành trạng của Ngài . Rất tiếc là các công trình nghiên cứu về Phật giáo ở trong nước chưa thấy ai đề cập tới Ngài, mong rằng bản tiểu sử này sẽ cung cấp chút ít thông tin khởi đầu để chư vị nghiên cứu.
Thân ái
Phật tử Đinh Khánh Vân
(20-6-2016)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/01/2025(Xem: 638)
Khi lên 11 tuổi, Hòa Thượng được Ngài Thích Nguyên Thần, hiệu Tịnh Thông (vốn là người cậu trong gia đình) dẫn đến Tu Viện Nguyên Thiều, Thôn Đại Lễ, Xã Phước Hiệp, Huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định để xuất gia tu học. Ngày 15 tháng 4 năm 1970 : Cố Hòa Thượng Thích Đồng Thiện, Đệ Nhất Trụ Trì Tu Viện Nguyên Thiều, làm Lễ Xuất Gia chính thức, thế phát cho Hòa Thượng, đặt Pháp Danh là Thị Anh (Hồng Anh), là đệ tử của Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Vị Trưởng Ban Sáng Lập và là Giám Viện của Tu Viện Nguyên Thiều.
15/12/2024(Xem: 959)
Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)
06/11/2024(Xem: 1183)
Vào lúc 08h30 sáng nay, ngày 05/11/2024 (nhằm mồng 5 tháng 10 Giáp Thìn), môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức đại lễ Tưởng niệm huý nhật lần thứ 3 (2019-2024) Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Như Ý, huý Trừng Huệ, hiệu Ấn Bảo, nguyên Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, khai sơn các chùa Linh Sơn Pháp Bảo (X.Vĩnh Ngọc, TP. Nha Trang), Linh Sơn Pháp Ấn (X. Suối Cát, Cam Lâm) và chùa Linh Sơn Phước Điền (X. Phước Đồng, TP. Nha Trang).
30/10/2024(Xem: 819)
Hòa thượng họ Trần, húy Văn Vinh, pháp danh Chơn Phú, tự Chánh Hữu, hiệu Thích Bích Lâm. Ngài sinh ngày 24 tháng 11 năm Giáp Tý (1924) tại phường Đệ Nhị- Nha Trang- Khánh Hòa, thân phụ là cụ Trần Đức Tựu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Đủ. Sớm có nhân duyên với Phật pháp, Ngài được Hòa thượng Thích Phước Huệ, chùa Sắc Tứ Hải Đức cho quy y ngày 19 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932), pháp danh Chơn Phú. Đến ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão (1939), Ngài được Hòa thượng cho thế độ, phú pháp tự là Chánh Hữu, hiệu Bích Lâm. Năm 1945, Ngài thọ Tam đàn Cụ Túc tại chùa Sắc Tứ Hải Đức do Hòa thượng Phước Huệ tái thí, truyền trao giới pháp. Năm 1946 Ngài được đề cử trụ trì Tổ đình Nghĩa Phương.
22/10/2024(Xem: 823)
Hòa Thượng thế danh Lê Đình Nam, sinh năm Mậu Thân (1908) trong một gia đình trung nông, có truyền thống Nho học. ở làng Đại An, xã Kỳ Long (nay là xã Tam Thái, huyện Phú Ninh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Lê Văn Thơ, Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mới. Những năm đầu của thập niên 40, Ngài mới có nhân duyên gặp Phật Pháp và cũng trong thời gian này Ngài cùng với người anh là Lê Trọng Hoàng, em là Lê Tấn Phước cùng với Phật tử Nguyễn Quế phát tâm sáng lập chùa Đại An tại quê nhà vào năm 1944.
21/10/2024(Xem: 740)
Trong đêm dài vô minh, với nổi khổ vô biên của chúng sanh, Chư Phật, Chư Tổ sư, liệt vị Tăng-già đã truyền thắp cho nhau ngọn đèn vô tận để soi sáng cung ma, biến uế độ thành tịnh độ. Trong sự tiếp nối chí nguyện thù thắng đó, Đức Trưởng lão Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Đệ lục Tăng thống GHPGVNTN đã đem bi tâm phổ hóa quần sanh, thắp đèn tuệ dẫn người ra khỏi rừng tà, vận đức dũng giữ nền đạo thống, dựng đứng dậy những gì đã sụp đổ, mang lý tưởng Bồ-tát đạo dưỡng nuôi chánh tín trong lòng tứ chúng.
20/10/2024(Xem: 1088)
Để tưởng niệm, ngày giáp năm của một bậc Tôn Túc mà suốt đời đã phụng hiến cho Đạo Pháp, dân tộc và nhân loại; đã hiến dâng con đường giáo dục tri thức cho nhiều thế hệ hôm nay và mai sau; đã phát nguyện cho công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh được sớm thành tựu viên mãn: “Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.” Dù Hòa Thượng đã chích lý Tây quy, nhưng hình hài và âm hưởng vẫn luôn tồn tại sâu xa trong tâm khảm của mỗi chúng ta, hàng tứ chúng đệ tử Phật. Do vậy, Ban Tổ Chức, nhất tâm đảnh lễ và kính thỉnh chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni từ bi hoan hỷ quang lâm chứng minh, tham dự buổi lễ được tổ chức tại: Địa Điểm: Chùa Kim Quang tại số: 3119 Alta Arden Expy, Sacramento, CA 95825 Thời Gian: 10:00 sáng – 1:00 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 17/11/2024 (nhằm ngày 17 tháng 10 năm Giáp Thìn) Số điện thoại liên lạc: Phó Trưởng BTC HT. Thích Từ Lực số: (510) 331-6899 (tiếng Việt) và phụ tá Thư ký: HTr. Tâm Thường Định: (916) 607-4066 (tiếng Anh)
20/10/2024(Xem: 1123)
Thầy đi rồi cơ nghiệp vẫn còn đây Đại tạng kinh in dấu ấn sâu dày Khúc dương cầm, những áng văn trác tuyệt Tấm lòng son đầy nhiệt huyết quan hoài
10/10/2024(Xem: 2049)
Đây là lần thứ hai tôi đến Tu Viện Gaden Shartse Thubten Dhargye Ling (còn được gọi là Chùa TDL) tại Thành Phố Long Beach, Miền Nam California, Hoa Kỳ. Lần đầu tôi đến đây cách nay vài năm để làm phóng sự cho pháp sự kiến tạo Mạn Đà La do chư Tăng từ Tu Viện Gaden Shartse Monastery tại Ấn Độ sang thực hiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]