- 01. Mùa An Cư Thứ Mười
- 02. Hiền Giả Voi Và Khỉ
- 03. Tình Trạng Tại Ghositārāma
- 04. Đi Tìm Đức Phật
- 05. Voi Chúa Sanh Thiên
- 06. Thế Nào Là Pháp, Thế Nào Là Phi Pháp
- 07. Xét Xử Chư Tỳ-Khưu Ghositārāma
- 08. Bảy Phương Pháp Dập Tắt Các Cuộc Tranh Chấp
- 09. Những Ông Tỳ-Khưu Hư Hỏng
- 10. Thêm Một Vị Đại A-La-Hán
- 11. Bánh Mè! Bánh Mè!
- 12. Kinh Hiền Ngu
- 13. Mùa An Cư Thứ Mười Một
- 14. Thế Gian Thanh Tịnh
- 15. Như Lai Là Một Nông Dân
- 16. Cho Xin Một Chiếc Lông
- 17. Nhất Chỉ Thần Thông
- 18. Mấy Ông Sư Quậy Phá
- 19. Tám Trường Hợp “Úp Bát”
- 20. Mùa An Cư Thứ Mười Hai
- 21. Lại Ra Đi, Đến Khu Rừng Nimba
- 22. Quả Là Vô Vị, Vô Ích, Vô Dụng!
- 23. Nạn Đói Tại Verañjā
- 24. Thỉnh Thị Một Bộ Luật Hoàn Hảo
- 25. Chuyện Chim Cút, Chuyện Khỉ Vượn
- 26. Người Cận Sự Nữ Dâng Thịt Đùi
- 27. Sự Tích Cõi Trời Ba Mươi Ba
- 28. Cuộc Chiến Với A-Tu-La Thiên
- 29. Mối Tình Keo Sơn Chung Thuỷ
- 30. Mùa An Cư Thứ Mười Ba
- 31. Trên Ngọn Đồi Đá Trắng
- 32. Những Pháp Cần Có Của Một Hành Giả
- 33. Màu Y Vàng Trên Núi Đá Trắng
- 34. Đóa Hoa Vương Quốc
- 35. Mùa An Cư Thứ Mười Bốn
- 36. Người Chăn Bò Khéo Giỏi
- 37. Đàn Bò Sang Sông
- 38. Khúc Gỗ Trôi Sông
- 39. Trao Gia Tài
- 40. Chỉ Có Pháp Hiện Tại
- 41. Tuệ Quán Ở Đây Và Bây Giờ
- 42. Người Ngu
- 43. Cái Cán Cày!
- 44. Hóa Độ Phạm Thiên Baka
- 45. Chuyện Hối Lộ!
- 46a. Chuyện Cô Nữ Tu Xinh Đẹp
- 46b. Chuyện Kỹ Nữ Ciñcā-Māṇavikā
- 47. Nhân Duyên Đẹp, Xấu, Quý, Tiện Của Người Nữ
- 48. Trong Rừng Cây Xiêm Gai
- 49. Cây Quạt Thốt Nốt
- 50. Ngọn Lửa Trong Chiếc Ghè!
- 51. Bỏ Đao, Ôm Bát!
- 52. Những Hạt Đậu Ván
- 53. Bữa Cơm Ngàn Vàng
- 54. Bát Cháo, Mảnh Vải Thù Thắng
- 55. Căn Nhà Năm Lỗ Hổng
- 56. Chuyện Thánh Nữ Visākhā
MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BA
(Năm 575 trước TL)
Tại ngôi làng Kalanda gần Vesāli có con trai của một nhà đại phú tên là Sudina, vừa mới lập gia đình. Hôm nọ, chàng và một số bạn hữu ghé kinh thành Vesāli vì một vài công việc làm ăn; thấy mọi người đổ xô đến Đại Lâm (Mahāvana), Trùng Các giảng đường (Kūṭāgāra)(1)để nghe đức Phật thuyết pháp, ông và bạn hữu cũng tò mò đi theo.
Thanh niên Sudina nhìn thấy đức Thế Tôn ấy được đoanh vây bởi một hội chúng đông đảo và ngài như một sư tử vương, vàng rực, chói sáng, uy nghi như nhiếp phục cả đại giảng đường, tạo cho chàng một ấn tượng mạnh mẽ.
Rồi còn thời pháp nữa. Với âm thanh trầm hùng, thanh thoát, diệu vợi... với ngôn ngữ cô đọng, gãy gọn, chính xác, dị giản... như đi thẳng vào tâm, vào trí hội chúng. Còn nữa. Còn lý nghĩa và tư tưởng. Còn những ví dụ, những đoản ngôn. Còn chiều sâu và khoảng trống, khoảng lặng của những điều chưa nói hết... Tất cả ấy như cuốn hút tâm tư Sudina làm cho chàng chú tâm lắng nghe không bỏ sót một từ, một ngữ nghĩa nào. Thanh niên Sudina xúc động một cách sâu xa, như đảo hoán tận gốc rễ nếp suy nghĩ của chàng.
Cuối thời pháp, thanh niên Sudina như còn rúng động, bàng hoàng, đăm chiêu, tự nghĩ:
“- Quả là ta đã sống và đang sống một đời vô vị, vô tích sự. Bụi bặm, dơ uế, đặc đầy phiền não và buộc ràng! Ta đang đắm say, mê mải nơi thế giới đốm hoa không thực. Ta đã tìm kiếm hạnh phúc nơi cõi vô thường, tạm bợ, sinh diệt mà tưởng là hằng thường, vĩnh cửu.
Tiếng chuông của giáo pháp đã gõ mạnh lên đầu ta rồi. Ánh sáng của giáo pháp cũng đã chớp lóe trong tâm trí của ta rồi. Vậy, đời sống tại gia này còn thú vị gì nữa, còn chút sinh khí nào nữa đâu?”
Rồi chàng lại suy nghĩ tiếp:
“- Nhưng nếu muốn sống đúng như những điều mà đức Thế Tôn kia đã thuyết giảng thì quả thật không phải là dễ dàng đối với người đời, đối với người tại gia với trăm công, nghìn việc, với ân ái vợ chồng, với tiền bạc, gia sản, với thôn lân, bằng hữu, với truyền thống, tập tục, với bùn lầy, tù đọng và chật chội của toan tính và lo âu.
Cái đời sống trong sạch và trinh trắng như vỏ ốc kia, cái đời sống giải thoát như cánh chim trời kia chỉ thích hợp với người cạo bỏ râu tóc, tam y nhất bát, sống đời xuất gia phạm hạnh mà thôi!”
Thế rồi, với dõng lực và quyết tâm, lúc trở lại gia đình, thanh niên Sudina nói rõ ý định xuất gia của mình cho cha mẹ và cả cho cô vợ mới cưới hay. Ai cũng ngăn cản. Ai cũng nói ý định ấy là điên rồ và ngu ngốc. Ngay chính bạn bè thân hữu cũng xúm vào khuyên lơn chàng, vì chàng là con một nên thuận theo truyền thống tổ tiên là sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường!
Ý định sống đời phạm hạnh như mũi tên đã bắn đi, không dừng lại được, thanh niên Sudina tuyên bố với sức mạnh nặng ngàn cân: “Một là xuất gia, hai là chết!” Chàng nằm xuống nơi chỗ nền đất không có trải lót rồi nhịn ăn, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày.
Khi sự sống của Sudina chỉ còn thoi thóp, sợ con trai chết, cha mẹ mới đồng thuận cho chàng xuất gia.
Thế là vô cùng khó khăn, thanh niên Sudina mới bứt nổi sợi dây ràng buộc của gia đình, trở lại Đại Lâm, Trùng Các giảng đường để xin đức Phật được xuất gia sống đời phạm hạnh.
Đức Phật sở dĩ ở nán lại thêm mấy hôm ở đây cũng chỉ để chờ đợi chàng trai này, vì hơn ai hết, ngài biết ông ta có duyên với giáo pháp(1).
Và sau khi thấy rõ tâm ý, sở nguyện của thanh niên Sudina, đức Phật chứng minh và chư vị trưởng lão cho ông ta thọ đại giới với những lời giáo giới căn bản và cần thiết nhất.
Tỳ-khưu Sudina sau đó, nguyện sống hạnh đầu-đà, mặc y phấn tảo(2}, noi gương tôn giả Mahā Kassapa, tam y nhất bát, tu hành rất mực tinh tấn. Ai cũng kính trọng. Chỉ riêng đức Phật, các vị thánh lậu tận có thắng trí thì chỉ mỉm cười, không bình luận.
(1)Kūṭa là nóc nhọn; agāra là nhà ở, chỗ ở - nên đôi nơi dịch là “Sảnh đường nóc nhọn”.
(1)Câu chuyện về tỳ-khưu Sudina này được mở đầu khi giới thiệu về luật tạng. Vì tám năm sau, lúc về thăm lại gia đình, cha mẹ chàng tha thiết khẩn cầu chàng để lại “hạt giống - bījaka” Lúc ấy, giới bất cộng trụ (pārājikā) thuộc thanh tịnh giới (patimokkha) chưa chế định - chàng không biết, tưởng là không có tội chi, nên đã ba lần giao hợp với người vợ cũ. Kết quả là bà vợ sanh được một đứa con trai nên bạn bè vui nhạo gọi tên bà là “Mẹ của chủng tử”! Mấy trăm năm sau, Mi-lan-đà sở vấn (Milindapañha) cũng có nhắc lại chuyện tỳ-khưu Sudina này.
(2}Paṃsukūla: Vải bó tử thi hoặc vải lượm từng tấm, từng mảnh nơi này và nơi kia, giặt sạch, nhuộm rồi may mặc - không thọ nhận vải mới, vải lành nguyên.