DÒNG ĐỜI XUÔI NGƯỢC– BIỂN ÁI VÔ CÙNG
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
Tình cảm cũng giống như một thứ linh dược quan trọng, nó có thể cảm hóa và thay đổi được mọi thứ, là sợi dây gắn kết giữa con người với con người, làm cho con người thêm gần gũi với nhau nhờ tình yêu thương chân thật và có thể thù ghét nhau bởi quá tham lam, ích kỷ. Cuộc đời này sẽ không còn giá trị thiết thực khi con người sống không có tình cảm với nhau. Ta chỉ thương yêu, quý mến, lo lắng cho nhau thật sự khi nó là của riêng ta. Tình cảm con người được biểu hiện qua tâm lý cảm xúc buồn vui, thương ghét, giận hờn, lo lắng, sợ hãi, ganh tị, tật đố và tham muốn; hay nói ngắn gọn là bị phiền não tham-sân-si chi phối, sai sử con người không làm chủ được bản thân nên hành động trong mê muội, làm những điều xấu ác có hại cho người và vật.
Trước hết, con người hòa theo dòng chảy của thời gian với bộn bề công việc, nhiều lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống sao quá nhiều vô vị, chán nản, mệt mỏi, cô đơn và vô cùng tuyệt vọng. Thực tế, cuộc sống văn minh tiến bộ ngày hôm nay cho thấy con người phải lệ thuộc vào vật chất quá nhiều, làm cho một số người trẻ mất đi định hướng cuộc đời. Con số những người trẻ sống không có tương lai vì bị ma túy, tình dục, rượu bia làm vẩn đục, sống không định hướng nên vướng vào tệ nạn xã hội làm khổ gia đình, người thân. Khi chúng ta ngồi lại để phân tích tìm cảm luyến ái, yêu ghét của con người, ta sẽ thấy rõ nó đều xuất phát từ sự tham lam, ích kỷ do ngu si, chấp ngã mà ra. Cái gì làm cho ta thoả mãn được lòng ham muốn thì sự yêu thích sẽ phát sinh để ta bám víu, dính mắc vào đó; ngược lại, cái gì ngăn cản lòng tham muốn của ta thì sẽ phát sinh ra sự bực tức, nóng giận và dẫn đến thù hằn, ghét bỏ.
Chúng ta sống trong cõi đời là để được chia sẻ, yêu thương, để mở rộng tấm lòng nhân ái với mọi người. Chỉ có tình yêu thương chân chánh mới giúp chúng ta sống gần gũi và biết chia sẻ trong sự cảm thông trên tinh thần thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết. Thế gian này không một ai sống mà không cần đến tình yêu thương, bởi nó là sợi dây vô hình mầu nhiệm kết nối trái tim làm cho con người được an vui, hạnh phúc. Tình yêu thương là phương thuốc tinh thần mầu nhiệm xoa dịu các nỗi đau bất hạnh, để chúng ta vững vàng vượt qua những phiền muộn, khổ đau của cuộc đời; để khám phá ra ý nghĩa cho cuộc đời của mình và để sống cho những điều mà chúng ta cho là ý nghĩa nhất, phù hợp với lòng người. Để được sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết, chúng ta phải biết chia sẻ, cảm thông, luôn thương yêu, san sẻ, nâng đỡ cho nhau mà không phân biệt thân sơ, đó mới là tình cảm của con người có tấm lòng bao la rộng lớn. Từ tình cảm đó chúng ta sẽ được nhiều người quý kính, tôn trọng và mến thương bằng tình người trong cuộc sống.
Có một loại tình cảm mà nhân loại lúc nào cũng ca ngợi từ ngàn xưa cho đến nay là tình yêu nam nữ, nhờ đó mà thế gian luôn phát triển và tồn tại. Tình yêu lứa đôi luôn đóng vai trò thiết yếu quan trọng trong cuộc sống. Thế giới loài người sở dĩ tồn tại và phát triển nhờ loại tình yêu mãnh liệt này. Vì muốn bảo vệ tình yêu cho riêng mình trong sự ích kỷ nên mới phát sinh ra các thứ tình cảm như yêu ghét, buồn vui, thương giận và lo lắng. Tình ở đây nói chung gọi là tình người trong cuộc sống như tình cha mẹ, tình chồng vợ, tình anh em, tình bè bạn, tình làng nghĩa xóm, tình yêu, tình nhân loại v.v… Vì cái tình đó nên con người sinh ra luyến ái, mến thương, yêu thích và luôn gắn bó với nhau nhiều hơn.
Chính vì nhìn thấy được bản chất thật của tình cảm con người rất phức tạp và phiền toái, các bậc Thánh nhân thường hay khuyên nhủ mọi người hãy nên tu tập tâm từ bi để mở rộng tấm lòng rộng lớn bằng tình yêu thương chân thật không vị kỷ. Tình cảm con người thật sự bao la không ngần mé phải được xuất phát từ tình yêu thương chân thật bằng trái tim hiểu biết, nên dễ cảm thông và tha thứ cho nhau. Trong tình yêu, ngoài sự quan hệ tình dục ra, chúng ta còn có trách nhiệm, bổn phận đối với việc nuôi dạy con cái. Cho nên, tình yêu cần có sự hy sinh, bao dung và độ lượng, nâng đỡ và sẻ chia, rồi còn phải tha thứ và cảm thông cho nhau. Trong cuộc sống thực tế, chúng ta chỉ thương yêu người đem lợi ích về cho mình và sẽ vắng bóng tình thương khi quyền lợi không còn nữa. Tình yêu nam nữ luôn mang tính chất ích kỷ của sự chấp ngã vì sự đam mê, say đắm thân này. Ai thương yêu và giúp đỡ ta thì ta quý mến họ. Ai làm hại ta thì ta thù ghét. Đó là quy luật tất yếu của thế gian mà ít người vượt qua nổi. Một khi giữa hai người không đáp ứng được nhu cầu cho nhau thì từ đó vợ chồng sức mẻ, rạn nứt, dẫn đến gây gỗ, cãi vã, và việc bạo hành sẽ xảy ra, cuối cùng dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc vì trong họ không có tình yêu thương chân thật.
Từ ngàn xưa cho đến nay, tình ái vẫn là thứ dễ làm con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi; do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng, rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người ngày càng làm mất đi giá trị nhân cách do không hiểu biết và nhận thức thiếu sáng suốt, nên dễ dàng gây tạo nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau. Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau bởi sự yêu thương trong vị kỷ, nên nói “tình chỉ đẹp khi còn dang dở, đời mất vui khi đã vẹn câu thề”.
Khi mới yêu ai cũng cố gắng che dấu khiếm khuyết của mình để được người tình yêu mến, khi đã lấy nhau rồi thói quen xấu mới lòi ra, nhà Phật gọi đó là tập khí. Tập khí tức những thói quen từ những suy nghĩ dẫn đến hành động, được huân tập lặp đi lặp lại nhiều lần. Bởi huân tập lâu ngày nên nó có sức mạnh chi phối, sai sử chúng ta dù biết đó là tác hại, như người đam mê sắc dục ham của lạ có thể làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình hoặc người khác, nhất là những người giàu sang và có địa vị trong xã hội. Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thỉ kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng cảm giác khoái lạc, đã đưa vào thì phải thải ra, và chúng ta có trách nhiệm duy trì giống nòi nhân loại nhằm gìn giữ và phát triển truyền thống làm người.
Con người là một sinh vật cao cấp hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui, hạnh phúc; ngược lại, vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét, ích kỷ, tham lam sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì lợi ích cho con người không loài nào bằng.
Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui, hạnh phúc. Ai không biết thì cam chịu khổ đau vì si mê, sa đọa. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc được gây ra từ thân-miệng-ý của mỗi người. Mình làm phước sẽ hưởng được điều thiện lành, tốt đẹp; mình làm ác phải chịu khổ đau. Đó là sự thật. Từ vô thỉ kiếp chúng ta đã sống trong lầm lạc, vô minh, nên huân tập rất nhiều thói quen xấu như tham lam, nóng giận và si mê. Nhiều người biết được sự tác hại của nó nhưng không đủ khả năng để vượt qua, đành cam chịu chết chìm trong tội lỗi. Thật ra, tình yêu thương giữa hai người phát sinh từ lòng tham ái mà ra vì sự khoái lạc của chính mình. Chúng ta chỉ yêu thương người nào đem lại hạnh phúc cho mình và sẽ oán giận, thù hằn những ai đem đau khổ đến cho ta.
Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ, lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ, chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Trong tình yêu, ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỷ, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Trong tình ái, do bảo vệ cái ta ích kỷ hoặc ghen tuông vô cớ nên dễ làm con người mù quáng, gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa, tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc trong đời sống lứa đôi; nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ vì sự tham lam, ích kỷ của mình. Một xã hội nếu không có nền tảng giáo dục về tâm linh dễ khiến con người cuồng si trong tham muốn, nên con giết cha, vợ hại chồng, mẹ giết con, anh giết em, và vô số sự giết hại khác từ chỗ không làm chủ được bản thân. Muốn biết được sự thật của tình yêu như thế nào, chúng ta hãy cùng nghe một đôi tình nhân có một không hai trong thiên hạ luận bàn như sau:
Một ông vua trong lúc cao hứng mới hỏi hoàng hậu của mình “chẳng hay ái khanh yêu ai nhất trên đời này?” “Tiện thiếp yêu bệ hạ nhất trên đời chứ còn ai”. Vua hỏi tiếp “tại sao ái khanh yêu trẫm?” “vì bệ hạ đã ban cho thần thiếp hạnh phúc, vậy bệ hạ có yêu thần thiếp không?” “trẫm yêu ái khanh nhất trên đời” “bệ hạ nói thiệt không?” “trẫm nói thiệt mà, ái khanh không tin sao?” “bệ hạ nói cho vui lòng tiện thiếp đó thôi, bây giờ bệ hạ cho tiện thiếp nói khác đi được không?” “được, ái khanh cứ nói!” “muôn tâu thánh thượng, thiếp chỉ thương yêu thần thiếp mà thôi”. Nhà vua bảo “ái khanh nói nghe lạ quá”.
Một sự thật không thể ngờ và quá phũ phàng mà ít ai nghĩ tới, chỉ vì bảo vệ tình yêu cho riêng mình mà thế gian xảy ra rất nhiều vụ án giết người vì tham lam, ích kỷ, vì ghen tuông vô cớ mà tình địch giết hại nhau. Ngày xưa, một ông vua có cả hàng khối cung phi mỹ nữ để hưởng thụ cảm giác khoái lạc cho riêng mình. Làm vua mà không có nhân từ đạo đức thì mau chết sớm và làm đau khổ rất nhiều người. Vì muốn bảo vệ các cung phi mỹ nữ cho riêng mình, nên ông vua phải tàn nhẫn thiến hết các quan thái giám vì sợ họ phỏng tay trên. Trên đời này không gì yêu thương và thù ghét bằng tình ái, chính cái tình này làm điên đảo cả thế giới loài người. Nếu ai dan díu với thê thiếp của vua thì bị mất mạng dễ dàng và bị chém đầu trong tích tắc, vì chạm đến bản ngã và sĩ diện của vua. Vua là trên hết, vua có quyền ăn trên ngồi trước thiên hạ, vua là thiên tử tức con trời, thay trời trị vì thiên hạ nên vua muốn làm gì thì làm, không ai có quyền ngăn cấm vì đó là của vua, ai đụng đến thì bị mất đầu như chơi, nếu không cũng bị lưu đày biệt xứ.
Thật ra, trong tình yêu nam nữ, vì muốn cho thân mình được hạnh phúc nên chúng ta phải biết cho đi để được nhận lại bằng sự yêu thương, trìu mến. Đó là sự trao đổi có nghệ thuật giữa hai người. Vì ta thương ta, nên ta phải cho người khác, để người khác cho ta lại. Nếu một trong hai người vì không còn đáp ứng được nhu cầu cho nhau thì tình nghĩa đôi mình có thế thôi, đường em em đi, đường anh anh bước. Đó là một sự thật. Do đó, tình yêu lứa đôi trong hạnh phúc gia đình luôn mang tính chất ích kỷ, hẹp hòi, vì muốn hưởng thụ khoái lạc cho riêng mình. Chính sự đam mê hưởng thụ đó thôi thúc con người tìm đến nhau, nhưng ít ai được hạnh phúc trọn vẹn. Thực tế thường cho chúng ta thấy, nhiều cặp vợ chồng gây gỗ, đánh đập nhau hoài vì ghen tuông, vì ngoại tình, cuối cùng ly dị để chịu cảnh tan nhà nát cửa, con cái bơ vơ. Trong tình yêu, nếu thiếu lòng bao dung và độ lượng, không có sự hy sinh và chia sẻ, không có sự cảm thông và tha thứ, thì con người dễ dàng bỏ nhau.
Thói quen của người nam nặng về ham muốn nên thích chiếm đoạt, sở hữu nhiều người, và theo thói quen mình là gia trưởng hoặc quan niệm “chồng chúa vợ tôi”. Cho nên, xã hội thời xưa buộc người phụ nữ “gái chính chuyên phải một chồng” và chồng chết phải thờ con, không được quyền tái giá; đàn ông thì lại có quyền “năm thê bảy thiếp”. Đó là quan niệm của thời phong kiến xa xưa bắt người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi, đắng cay, nên bà Hồ Xuân Hương có câu “chém cha cái kiếp chồng chung, tháng có đôi lần, có tháng cũng không”. Người phụ nữ trong thời đại này không được ra khỏi cửa, không được tham gia công việc bên ngoài, chỉ sinh con và lo việc trong nhà; nhưng phải sinh con trai để nối dõi tông đường, nếu sinh con gái cũng bằng thừa vì gái lớn lên phải theo chồng, nên trong cung vua từ hoàng hậu cho đến phi tử hễ ai có con trai thì được ưu ái. Do đó mà có tình trạng cạnh tranh, ganh ghét giữa các cung phi mỹ nữ, rồi tìm cách hãm hại nhau để giành quyền lợi cho riêng mình.
Người phụ nữ thì thiên về tình cảm, có thiên chức làm mẹ và phải chờ đợi sự tìm kiếm của đàn ông, nên đa số họ yêu bằng tai. Ai nhỏ nhẹ, tâng bốc, khen ngợi ngọt ngào thì dễ thu phục trái tim đàn bà. Vì thế dân gian thường nói “đẹp trai không bằng chai mặt” là vậy. Người nam dù xấu trai đến cỡ nào nhưng cứ theo đuổi rù rì riết cũng dễ làm xiêu lòng người nữ. Chính vì vậy mà tục ngữ có câu “củi tre dễ nấu, chồng xấu dễ xài” cũng là vì vậy.
Trở lại câu chuyện vua và hoàng hậu luận bàn về tình yêu nam nữ. Hoàng hậu đã nói “Thật ra, thiếp chỉ yêu thương thần thiếp, vì thương yêu mình nên muốn bệ hạ ban cho hạnh phúc đó thôi. Bệ hạ biết không, muốn cho thân này có được hạnh phúc nên thiếp phải yêu thương bệ hạ. Có vậy bệ hạ mới thương yêu lại thần thiếp và tạo ra tình yêu thương luyến ái nhau để thần thiếp được hạnh phúc”. Nhà vua nghe qua mới biết được sự thật của tình yêu là gì? Tình yêu vốn không xấu xa, tội lỗi, nếu chúng ta biết chia sẻ hài hòa, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhau. Nó sẽ là nền tảng đạo đức đóng góp lợi ích thiết thực trong công cuộc phát triển duy trì giống nòi nhân loại. Ngược lại, vì muốn bảo vệ tình yêu trong sự ích kỷ cá nhân không có tình thương yêu chân thật, con người sẽ không rộng lượng, bao dung, tha thứ và thông cảm cho nhau, dẫn đến nhiều gia đình bị tan nhà nát cửa vì sự ghen tuông vô cớ mà thành ra oán hận, thù hằn.
Có một nỗi đau ghê gớm hành hạ con người tan nát cõi lòng, trái tim từ từ rỉ máu như những mũi kim từ từ chích vào da thịt, đó là tình yêu đơn phương, tức yêu một mình, ta yêu người mà người chẳng yêu ta. Tình yêu đơn phương làm cho con người chết dần chết mòn trong đau khổ và sẽ khô khan, héo sầu thê thảm vì không được đáp lại theo tiếng gọi của con tim. Con người như điên cuồng, si dại giống như người mất hồn. Ngày xưa, Hàn Mạc Tử đã thốt lên khi không được đáp lại tình yêu thương đôi lứa.
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn kia bỗng dại khờ.
Trong tình yêu nam nữ không có gì đau khổ bằng khi thầm thương, trộm nhớ, yêu thích một người mà không được người kia đáp lại, đến nỗi phải bị bệnh tương tư ăn không ngon, ngủ không yên. Và khổ đau nhất là đời sống của các cung phi mỹ nữ thời vua chúa. Một ông vua có cả hàng trăm người như thế đang khao khát, mong muốn, chờ đợi vua ban cho một chút tình yêu. Nếu ai diễm phúc lọt vào mắt xanh của vua thì lòng càng kiêu hãnh, từ đó sanh ra tham lam, ích kỷ, muốn hưởng riêng cho mình. Đó chính là nguyên nhân gây thù chuốc oán và làm khổ đau cho nhau.
Một hoàng hậu vì đã ghen ghét, đố kỵ một ái phi được nhà vua yêu thích nên cố tình tìm cách hãm hại. Bà ta thường khen ngợi sắc đẹp nghiêng thành đổ nước của ái phi với thân hình gợi cảm đầy quyến rũ. Một hôm, hoàng hậu đến thăm nàng ái phi và nói “chị nói em nghe nè, cái mũi em quá đẹp nên lúc nào cũng quyến rũ nhiều người, làm các quan trong triều mỗi khi nhìn thấy lại xao xuyến trong lòng, vì thế mỗi khi hầu vua em nên lấy khăn che mũi lại”. Ái phi nghe nói có lý nên làm theo lời hoàng hậu, không ngờ bị trúng kế độc mà không biết. Vua lấy làm lạ nên mới hỏi hoàng hậu “ái phi của trẫm sao lúc nào cũng lấy khăn che mũi lại vậy?” Sau nhiều lần gạn hỏi, hoàng hậu mới trả lời “bệ hạ không biết đó sao, ái phi chê bệ hạ hôi nên mới lấy khăn che mũi lại đó!” Câu trả lời đụng đến chỗ ngứa của nhà vua, cái mũi của ái phi được đem đi triển lãm liền lập tức và sau đó bị lưu đày biệt xứ vì cái tội dám khi dể nhà vua. Tâm ganh ghét và tật đố của con người thật đáng sợ, họ vì quyền lợi riêng của mình mà đành lòng sát hại kẻ tình địch khi có điều kiện trong tay. Quan niệm chồng chúa vợ tôi từ cái thấy sai lầm của các ông vua thời phong kiến dựa vào học thuyết có một đấng thần linh thượng đế ban phước, giáng họa. Vua đại diện cho tầng lớp đó nên thời phong kiến quân chủ vua là trên hết, vua là thiên tử thay trời trị vì thiên hạ, nên vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết. Ai được lòng vua thì hưởng vinh hoa phú quý cả gia tộc, bằng ngược lại sẽ chịu họa đau khổ, thê thảm không thể lường.
Vậy phong kiến là gì? Phong kiến là phong chức, cấp đất; và phong kiến còn mang ý nghĩa sâu xa là một tổ chức được sắp đặt theo loài ong, loài kiến. Trong tổ của loài ong có tôn ti trật tự đàng hoàng theo hệ thống cấp nào việc đó. Ong thợ chỉ một việc có nhiệm vụ xây tổ; ong nước chuyên đi lấy nước; ong mật chuyên đi hút mật hoa; ong thầy thuốc chuyên lo pha chế mật hợp với từng loài; ong bảo vệ có trách nhiệm giám sát tuần tiểu, bảo vệ cẩn thận; ong đực lo truyền giống; ong cái lo đẻ trứng. Chỉ một con ong cái hay còn gọi là ong chúa nhưng có cả hàng trăm con ong đực, nên ong cái được tôn vinh là ong chúa. Ong chúa được ăn một loại thức ăn đặc biệt nhất gọi là mật ong chúa. Khi ong chúa đến chỗ mật để ăn thì tất cả loài ong đều phải quỳ mọp hết để tỏ vẻ cung kính, thán phục và sợ hãi. Điểm đặc biệt là một con ong chúa có khả năng sinh ra nhiều trăm ngàn con ong con. Trong tổ thiếu ong gì để phục dịch và bảo vệ giang sơn của chúng thì ong thầy thuốc phải chế thức ăn để ong chúa ăn và đẻ ra thứ ong đó, như tổ thiếu ong hút mật thì ong chúa đẻ nhiều ong hút mật. Lâu lắm ông chúa mới đẻ ong chúa con một lần, mỗi lần chỉ được ba trứng. Nhưng thật ác độc và dã man thay, ong chúa mẹ biết được giờ ong chúa con nở nên đã đến nằm chờ sẵn. Trứng thứ nhất vừa nở ra, ong chúa mẹ liền cắn chết ong chúa con; kế đến ong chúa con thứ hai nở ra trong bình yên vô sự vì được ong chúa mẹ bảo vệ và chăm sóc chu đáo. Đây là điều kỳ lạ của loài ong. Rồi đến lượt chị ong chúa thứ hai khôn lớn nằm chờ sẵn, đợi cô em ong chúa thứ ba vừa chào đời thì liền cắn chết tại chỗ. Ác độc và dã man thay, dòng họ nhà ong là như thế!
Tuy nhiên, con người thì thông minh và khôn ngoan hơn nên dựa theo thể chế của loài ong mà sắp đặt luật có một ông trời ban phước, giáng họa theo cách thức cố định như loài ong, từ đó hình thành tập cấp. Giai cấp ăn trên ngồi trước và giai cấp bị bóc lột được hình thành ở Ấn Độ cho đến ngày hôm nay vẫn còn. Ai cũng bảo vệ bản ngã của mình vì thương mình nên phải nhờ người khác trao tặng để mình được hạnh phúc. Trên đời này không có gì sâu đậm, mặn nồng, tha thiết, yêu thương hơn tình ái vì cái tình “chung chăn xẻ gối”. Và một sự thật quá phũ phàng, chua chát, tình yêu là gì? Là một sự lợi dụng lẫn nhau về thể xác lẫn tinh thần nhằm thỏa mãn khoái lạc của chính mình mà thôi. Khi được thoải mái thì sanh ra yêu thích, quyến luyến, muốn giữ mãi không rời; ngược lại thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, tìm cách hãm hại nhau.
Để được sinh tồn và hạnh phúc trên thế gian này, tùy theo nhận thức của mọi người mà có tình cảm yêu thương, gắn bó với nhau, hay kết nên ân oán, hận thù. Chính vì thế mà chúng ta cứ sống loanh quanh, lẩn quẩn trong cái vòng ấy. Nếu đi theo chiều hướng tốt đẹp sẽ dẫn con người đi trên con đường hướng thiện và ngược lại sẽ đưa con người vào chỗ tối tăm.
Một đôi bạn trẻ xứng đôi vừa lứa cùng “thề non hẹn biển” khi công ăn việc làm ổn định sẽ thành vợ, thành chồng sống mãi bên nhau. Cùng học chung lớp chín đến lớp mười hai, Hùng và Hồng quen nhau từ đó. Do không kiềm chế được bản thân, Hồng đã trao thân gởi phận cho Hùng nên dẫn đến có thai. Đôi trẻ vì muốn tiến thân để tiếp tục việc học hành nên đành hủy hoại bào thai trong ngậm ngùi, đau xót. Hùng vào miền Nam để tiếp tục học đại học kinh tế, còn Hồng ra Đà Nẵng để học cao đẳng, ai cũng ráng cố gắng để tiếp tục duy trì việc học của mình. Nhưng Hùng đã bị sai lầm quá lớn vì kêu người tình phá thai, đây là một điều tối kỵ nhất đối với cuộc đời của phụ nữ khi phải chối bỏ trách nhiệm làm mẹ của mình. Tại sao Hùng không biết gìn giữ để Hồng vì một phút mềm lòng mà trao cái quý nhất đời mình trong khi còn đang ăn học. Người con gái ấy bất đắc dĩ đành hủy hoại cái mầm sống do hai người tạo ra trong thương tiếc, nghẹn ngào.
Phụ nữ lúc nào cũng yêu bằng tai nên bao nhiêu lời ngon, tiếng ngọt kèm theo những lời hứa hẹn trong tương lai tốt đẹp, nên Hồng đã trót trao thân quá sớm. Sau khi học ở Đà Nẵng Hồng đã phải lòng một chàng trai khác. Nàng đã thay lòng đổi dạ, đổi áo thay tình và bắt đầu ngoảnh mặt làm ngơ với người yêu cũ. Trong một lần về thăm nhà, tình cờ Hùng thấy Hồng là người yêu cũ của mình dẫn một chàng trai về giới thiệu với gia đình cô ta. Hùng uất ức, nghẹn ngào lắm mà nói không nên lời, nhiều lần điện thoại cho Hồng để được giải bày tâm sự chuyện hai đứa đã hứa hẹn với nhau, nhưng Hồng một mực từ chối không cho liên lạc. Một lần khác tại TPHCM, Hùng vô tình gặp Hồng cùng chàng trai ấy đón xe về Đà Nẵng, Hùng gặn hỏi mãi Hồng mới thú thật, “tôi và anh bây giờ hãy coi nhau như bạn bè vì giữa chúng ta không còn tình nghĩa gì nữa. Và Hồng mạnh dạn giới thiệu với Hùng “đây là chồng sắp cưới của tui đã tốt nghiệp Đại học kinh tế và đang làm việc tại TPHCM”.
Bị người yêu phụ bạc và công khai chuẩn bị lấy chồng, Hùng tiếc nuối về dĩ dãng quá khứ “phải chi mình để lại cái bào thai trong bụng Hồng thì bây giờ Hồng đã thuộc về mình”. Càng nghĩ nó càng bực tức và cau có, cuối cùng nó không còn tinh thần để học nữa và bắt đầu lao vào rượu chè be bét để giải sầu. Thế rồi Hùng bỏ học về nhà suốt ngày làm ông thần lưu linh, sáng xỉn, chiều say, tối lai rai. Mới đầu gia đình còn khuyên can, sau họ bỏ mặc Hùng muốn làm gì thì làm. Trong cơn tuyệt vọng bị người yêu hất hủi, phụ bạc, Hùng nghĩ đó là mối tình đầu đẹp nhất trong đời nhưng người khác đã cướp mất và Hùng không bao giờ quên được. Đau khổ, quằn quại, nhớ thương, tiếc nuối trong men say tình ái, nhớ lại trước kia hai đứa cùng nhau thề non hẹn biển sẽ sống đời với nhau, không gì có thể thay đổi được, mà giờ đây sự thật quá phũ phàng, Hồng đã có người yêu khác và chuẩn bị lấy chồng. Điên cuồng, hoảng loạn, chơi vơi chới với theo men say tình ái, Hùng khởi lên ý niệm giết Hồng để bảo vệ tình yêu trong trắng, rồi sau đó Hùng sẽ tự sát để cùng chết theo người yêu. Nông nổi, dại khờ, điên cuồng rồi dẫn đến mù quáng, Hùng nghĩ sao thì liền làm vậy. Sáng hôm đó, Hùng đón xe đến phòng trọ của Hồng đang ở. Sau khi giết Hồng, Hùng bèn tự sát; nhưng sự việc không thành, Hùng bị phát giác và được đưa đi bệnh viện cấp cứu. Hùng phải sống để trả một giá rất đắt về việc làm tội lỗi của mình với bản án tử hình trong nay mai.
Thật tội nghiệp và đáng tiếc cho chàng sinh viên đó. Cha mẹ cho ăn học đến ngần ấy mà không biết sáng suốt lựa chọn hướng đi tốt đẹp, cuối cùng vì tiếng sét ái tình mà trở thành kẻ giết người. Tình ái là con dao hai lưỡi, khi yêu nhau thì cái gì cũng đẹp, đến khi muốn mà không được thì con người ta đau khổ vô cùng, nhất là bị mất mát trong tình yêu. Tuổi trẻ ngày hôm nay do đời sống tiện nghi vật chất phát triển quá nhanh và bị ảnh hưởng văn hóa phẩm đồi trụy nên không kiềm chế được bản thân, dẫn đến trong giới sinh viên, học sinh rộ lên phong trào sống thử khi còn đang đi học. Tình trạng phá thai xảy ra như cơm bữa, phẩm chất, nhân cách đạo đức đã bị mai một do mạng lưới thông tin toàn cầu quá thông dụng chuyện sống thử, chuyện đổi vợ. Các dịch dụ phim sex đã tác động không ít đến đời sống các em sinh viên, học sinh. Nhiều vụ án giết người dã man, nhiều chuyện hiếp dâm man rợ, rồi tình trạng cướp của giết người do nghiện ngập ma túy, bệnh sida lan tràn gây ảnh hưởng và lây lan cho nhiều người. Chàng sinh viên đó được đầy đủ phước báo và nhân duyên tốt đẹp nên mới được cha mẹ nuôi cho ăn học đàng hoàng, tốn kém không biết là bao; thay vì cố gắng chăm chỉ học hành đến nơi tới chốn, khi thành tài có công danh sự nghiệp rồi mặc tình đuổi bướm bắt hoa kết duyên thành chồng vợ thì hạnh phúc vô cùng; đằng này lại yêu cuồng sống vội, để rồi phải chuốc họa vào thân với cơn ghen cuồng dại.
Thường mối tình đầu hay để lại dấu ấn khó phai, Hùng mê muội, cuồng si lao vào rượu chè be bét dẫn đến khủng hoảng tinh thần mà không làm chủ được bản thân, để rồi trở thành kẻ giết người man rợ. Cha mẹ Hùng phải tảo tần siêng năng, thức khuya dậy sớm nhọc nhằn để có tiền cho con mình ăn học đàng hoàng, hầu có chút công danh sự nghiệp để nuôi thân sau này. Hồng thời gian đầu khi mới xa nhau để tiếp tục việc học hành vẫn một lòng chung thủy với Hùng, vẫn liên lạc qua lại bằng điện thoại để động viên nhau trên bước đường học tập, nhưng rồi thời gian cũng phôi phai, xa mặt cách lòng, Hồng được nhiều chàng trai khác ve vãn, tán tỉnh, gần gũi. Nếu so sánh với Hùng thì người tình sau hơn hẳn về mọi mặt, đẹp trai, học thức, uyên bác, gia đình giàu có, lại hào hoa phong nhã, nên Hồng phải lòng người sau hơn mà cho Hùng một đá thật đích đáng. Nếu Hùng là người có ý chí cao, có lòng độ lượng bao dung và có sự hiểu biết chân chính, thay vì hận người yêu thì anh phải cố gắng học giỏi hơn để sau này được thành đạt. Có tiền, có tài, có địa vị thì chuyện tình yêu lứa đôi để đi đến hôn nhân đâu có chuyện gì khó. Chim trời cá nước ai bắt được nấy hưởng, có gì đâu mà phải bận lòng, cha mẹ mất đi không thể tìm lại, còn mất người tình thì tìm người khác.
Chuyện tình ái, chuyện yêu thương chẳng qua chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau qua xác thịt mà thôi, ít ai dám quả quyết mình có tình yêu thương chân thật, ngoại trừ duyên nợ quá khứ; nhưng Hùng vì suy nghĩ quá nông cạn nên phải trả bằng cái giá rất đắt cho cuộc đời với bản án tử hình. Cũng may cho Hùng, trong khi chờ đợi thi hành án, anh vẫn có đủ thời gian để ngồi suy gẫm những hành động ngu ngơ, mù mờ và sự ngông cuồng của mình vì yêu không được mà sinh ra thù ghét. Tình yêu như thế không phải là tình yêu thương chân thật, chẳng qua chỉ là sự tham lam, ích kỷ của riêng mình với quan niệm thà ăn không được thì phá cho hôi. Có duyên mà không có nợ thì đường ai nấy đi, luyến tiếc mà chi chút ấy để rồi phải chịu ngồi tù và chuẩn bị chờ chết với tiếng đời bêu rếu, thật là hổ thẹn làm sao cho chàng sinh viên thời hiện đại.
Nguyên nhân chính đưa con người vào vòng tội lỗi, làm khổ đau cho nhau là do không tin sâu nhân quả, vì biết mà cố phạm, và bị nghiệp thức che đậy. Ý thức được khổ đau do sự giết hại gây ra, mỗi người chúng ta giữ giới không giết người và hạn chế tối đa các loài vật từ nhỏ đến lớn. Làm bậc cha mẹ chúng ta phải giáo dục cho con em mình từ lúc ấu thơ, khi thấy chúng tự tay giết hại những con vật nhỏ như bướm, kiến, ong, do vô tình hay cố ý. Cha mẹ phải tìm cách ngăn cản, la rầy, nói rõ cho chúng biết sự tác hại của nó, nếu không lớn lên các em có thể mạnh tay hơn giết những con vật lớn, và cuối cùng có thể giết người khi không làm chủ được bản thân. Nếu chúng ta ai cũng y theo lời Phật dạy, giữ gìn giới không giết hại thì thế giới này không có chiến tranh, binh đao, sóng thần, động đất, không sợ khủng bố trả thù, không bị bệnh tật, chết yểu, và mọi người sẽ sống an vui, hạnh phúc.
Càng suy đi nghĩ lại ta càng thương Hùng hơn. Mối tình đầu với Hùng đẹp làm sao khi nhớ lại hình ảnh thân yêu nhất lúc chung chăn xẻ gối, bây giờ đã mất tất cả. “Thôi là hết em đi đường em, tình đôi mình chỉ bấy nhiêu thôi, vì sao trời đành bắt duyên em để cho tim mình lỡ làng…”, nghe câu hát này càng thêm não nuột trong lòng. Hùng giờ đây đã biết ăn năn hối lỗi nên đã phát nguyện ăn chay trường để cầu nguyện cho Hồng mau được siêu sinh, thoát hóa, không oán hận mà mở dây oan trái, sẵn lòng rộng lượng thứ tha cho sự lỡ dại của Hùng. Hùng đã thật sự ăn năn và hối cải, đó cũng là một nhân duyên tốt, biết sám hối lỗi lầm, nhận ra khiếm khuyết và sai xót của mình. Tự lương tâm thành khẩn sám hối, ăn năn, sau này nếu được đưa ra pháp trường để trảm, anh chắc chắn cũng được thanh thản ra đi mà không oán giận một ai bởi mình làm thì mình phải chịu.
Trong lúc cận kề với cái chết, nếu người đó biết hướng tâm mạnh mẽ về nẻo thiện và luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác thì cũng chuyển được nghiệp xấu một phần nào. Nhờ vậy, khi bị giết chết không khởi tâm oán giận, thù hằn dù có bị trả quả về sự giết hại của mình, đến một lúc nào đó quả xấu đã hết thì sẽ được tái sinh chỗ tốt đẹp để tiếp tục làm lại cuộc đời. Trong nhà Phật có nói về tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp. Tích lũy nghiệp là nghiệp đã huân tập nhiều đời nhiều kiếp cho đến ngày hôm nay. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác lúc gần chết. Hai nghiệp này sẽ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà quyết định đưa người chết đến cõi lành hay cõi dữ. Nghiệp của chàng sinh viên mê muội đó là giết hại người tình, trước mắt sẽ chịu án tử hình trong nay mai và nhiều kiếp về sau có thể bị quả báo chết yểu. Nhưng trong thời gian chờ xử án, chàng sinh viên đó biết ăn năn hối cải nhờ chí tâm hướng thượng mạnh mẽ nên có thể thay đổi nghiệp nhân xấu ác của mình nhờ biết hối cải. Vì thế, thời điểm lúc gần chết rất quan trọng và cần thiết, mặc dù chúng ta làm lành suốt cuộc đời nhưng khi sắp chết chúng ta tức tối, khởi tâm phiền não, sân hận thì sẽ bị tái sanh vào chỗ dữ.
Một chút tâm tình cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa khi mọi người đang sống trong dòng đời nghiệt ngã với bao điều họa phúc, nhất là trong tình yêu đôi lứa. Người được hạnh phúc thì ít, kẻ khổ đau thì nhiều, đa số chúng ta đều sống trong vòng lẩn quẩn của tình và tiền nên dễ dẫn đến tù tội. Này các bạn, hãy cùng chúng tôi suy ngẫm chín chắn trong vấn đề tình ái, để làm sao chúng ta biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà làm tròn bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình và xã hội.
HẠNH PHÚC TRONG TÌNH YÊU
Khi những người trẻ có cơ hội tìm hiểu nhau, mới đầu chỉ là tình bạn thân thiết rồi dần dà phát sinh tình cảm, từ đó tham ái bắt đầu có mặt dẫn đến yêu thương, hò hẹn và cuối cùng là kết tình chồng vợ. Tình yêu là một cơ hội tốt để chúng ta nhìn lại chính mình, tìm lại cội nguồn xưa nay để thấy được những khó khăn, vướng mắc, hạnh phúc, khổ đau, buồn thương, giận ghét của chính mình do thiếu hiểu biết mà gây ra. Trong tình yêu thương nam nữ, khi yêu ai chúng ta rất muốn được chia sẻ cuộc đời mình cho người ấy và muốn sống với người mình yêu đến trọn đời. Vì vậy, trước khi tiến đến hôn nhân, chúng ta nên chịu khó tìm hiểu xem hai người có cùng một quan điểm, cùng một chí hướng và đời sống tâm linh hay không?
Con người được sinh ra bởi luyến ái sắc dục, chết bởi sắc dục là lẽ thường tình của thế gian và cứ như thế mà con người ta chết đi sống lại triền miên trong vòng lục đạo luân hồi không có ngày thôi dứt. Người xuất gia đi ngược lại với dòng đời nên phải cố gắng xa lìa ái dục để thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Người thế gian tham thì người xuất gia phải không tham, người thế gian mê thì người xuất gia phải có trí tuệ, như vậy mới có thể vượt qua những gì người đời yêu thích. Nếu vì tiếng sét ái tình mà chúng ta biết yêu quá sớm trước khi có nghề nghiệp và việc làm ổn định do nhận thức không đúng đắn, coi chừng chúng ta sẽ vỡ mộng. Tiếng sét ái tình có thể làm chúng ta đam mê men say tình ái, nhất là mối tình đầu, ta sẽ choáng váng, sẽ đau thương, sẽ mất mát, sẽ hụt hẫng, sẽ chới với, chơi vơi, lạc lỏng giữa dòng đời như mất đi một cái gì đó rất thiêng liêng, cao quý. Chúng ta phải tự gượng lại và đứng lên để những đam mê buổi đầu không làm cho ta gục ngã. Nếu không ta sẽ bị mất ăn, mất ngủ và không học hành gì được. Ta cứ ngơ ngơ, ngáo ngáo, cho đến xanh xao, ốm o, gầy mòn, bỏ bê hết tất cả mọi việc.
Điên dại và cuồng si nhất vẫn là thứ tình yêu đơn phương không gì đau khổ hơn, mình yêu người mà người không đáp lại, người đi yêu người khác, nhưng người khác cũng chẳng yêu người. Đúng là theo tình tình phụ, phụ tình tình theo, sự đời có nhiều cái tréo ngoe như vậy. Bạn bè cùng chung một lớp nhưng hai người bạn trai lại đi thương cùng một người bạn gái, vậy hẳn nhiên là có người được kẻ mất. Khi vướng vào vòng này con người hầu như mất hết năng lực sống, không còn thiết tha gì nữa, nằm vùi vật mê man trong men say tình ái. Chúng ta hãy nên thận trọng, dè dặt trong tình yêu của buổi ban đầu khi còn trẻ, rất nhiều người bị khủng hoảng tinh thần, mất hết niềm tin trong cuộc sống, nên đã lao vào các cuộc vui chơi trác táng suốt sáng đêm thâu để trả thù đời. Càng như thế thì ta càng tự dìm chết đời mình trong hoan lạc, vô bổ ấy, và chắc chắn trong nay mai ta sẽ rơi vào vòng vây tội lỗi.
Nếu trong quan hệ tình yêu lứa đôi mà một trong hai người dính vào vòng si mê nghiện ngập thì thường xuyên làm đau khổ cho nhau. Sau một thời gian tận tụy hy sinh để thuyết phục người bạn đời của mình dứt khoát chừa bỏ nhưng không có hiệu quả, thì phải biết rằng mối tình của ta sẽ mang đến nhiều phiền muộn, khổ đau vô cùng cực. Ai đã từng dính vào vòng này cũng đều phải bỏ cuộc, nên phải mạnh dạn chia tay, cắt đứt quan hệ tình ái thì họa may mới còn con đường sống; bằng không thì anh chích xì ke em bán ma túy, hai người đi vào con đường tội lỗi và cuối cùng vướng vào vòng tù tội. Khi hai người yêu nhau mà không có cùng quan điểm, chí hướng, tức là không có sự đồng cảm với nhau, không biết lắng nghe, không biết bao dung và độ lượng thì những nỗi khổ, niềm đau sẽ có mặt làm cho tình yêu rạn nứt và cuối cùng dẫn đến chia tay.
Tình yêu thường là sự lợi dụng lẫn nhau qua xác thịt nếu chúng ta không có hiểu biết chân chính, không có tình yêu thương chân thành, chỉ một bề biết hưởng thụ cho riêng mình mà không có sự hòa hợp của hai trái tim. Tình yêu ấy chỉ mang nhiều hệ lụy khổ đau vì không có sự cảm thông, chia sẻ. Muốn cho tình yêu được bền vững và lâu dài, khi yêu nhau ta phải biết quý kính và tôn trọng lẫn nhau. Người con gái phải tự giữ gìn, người con trai cũng phải biết gìn giữ cho người con gái, giữa hai người cần có sự thông cảm và độ lượng. Trong tình yêu chân thật, chúng ta không nên đưa tình dục lên hàng đầu; ngoài việc chăn gối ta còn có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, bảo bọc cho nhau; còn phải quan tâm nuôi dạy con cái hướng về chân-thiện-mỹ để chúng biết thương người và vật. Không có gì đẹp hơn bằng tình yêu chân thật, hai người biết lo lắng cho nhau, biết chia sẻ để làm vơi bớt nỗi khổ, niềm đau, biết vun bồi để càng ngày càng thêm hiểu và thương nhau hơn.
Tình yêu lứa đôi là sự kết hợp của hai con tim bằng sợi dây ân ái, nhưng ân ái phải có sự hiểu biết, tôn trọng, tiết chế chừng mực mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài. Nhưng chúng ta nên nhớ một điều, dục là một loại đam mê ham muốn rất mạnh, nó như một thứ lửa rơm bừng cháy và tàn lụi cũng rất nhanh. Dục chỉ là phần thô thiển bên ngoài, nhưng ái mới là quan trọng và thiết yếu, ái là cảm thọ nhận thức thuộc về phần tinh thần.
Bé Hương sinh ra và lớn lên nơi miền quê xa xôi hẻo lánh, chưa học hết lớp năm em đã nghỉ học. Thanh là một chàng trai xóm trên hơn em hai tuổi. Hai đứa quen nhau một thời gian rồi quyết định đi đến hôn nhân. Lúc đó bé Hương mới 15 tuổi, Thanh 17 tuổi. Cha mẹ Thanh đồng ý chấp nhận cho Thanh lấy Hương làm vợ. Ngược lại, cha mẹ bé Hương không chấp nhận vì hai đứa còn quá nhỏ. Từ đó gia đình bé Hương cấm không cho hai đứa liên hệ, qua lại với nhau. Em Hương bị gia đình quản thúc một cách chặt chẽ nên không có cơ hội được gặp người yêu. Trong khi đó, hai em đã thề non hẹn biển kiếp này phải sống trọn đời bên nhau, nếu không thì… Thật ra, Hương còn quá nhỏ, cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, đáng lẽ tuổi đời như em cần phải được ngồi trong ghế nhà trường để được hưởng những cái hồn nhiên của tuổi thơ, để được nghe những lời dạy của thầy cô giáo, nhưng em không được diễm phúc đó vì thiếu hiểu biết. Em nghỉ học sớm, biết yêu sớm, nên tâm hồn em bị nhuốm bụi trần theo men say tình ái. Em chưa đủ nhận thức sáng suốt và chưa có việc làm ổn định, đáng lẽ em phải biết nghe lời khuyên của cha mẹ, chờ vài năm nữa rồi sẽ tính sau thì đâu có chuyện gì xảy ra, đằng này vì em biết yêu quá sớm trong khi em chưa đủ tuổi làm giấy kết hôn theo luật pháp quy định. Nếu giả sử như cha mẹ em đồng ý cho em lấy chồng, vô tình sẽ hại cuộc đời của em vì luật hôn nhân cho phép hai người lấy nhau khi từ 18 tuổi trở lên, dưới 18 tuổi coi như vi phạm luật hôn nhân, tùy theo mức độ tuổi tác mà bị xử lý thích đáng.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai là em chưa có nghề nghiệp chính đáng để nuôi sống bản thân, bạn em mới 17 tuổi sẽ làm gì để nuôi em. Hay là hai đứa lấy nhau với quan niệm trời sinh voi sinh cỏ, đến khi có con ai sẽ nuôi con em trong khi hai đứa ăn chưa no lo chưa tới, làm sao có đủ khả năng nuôi con để đảm bảo tương lai sau này. Nếu em biết suy nghĩ lại, ráng nghe lời khuyên của cha mẹ rồi cố gắng hun đúc tình yêu của hai đứa bằng cách động viên, an ủi nhau chờ đợi. Trong thời gian đó, hai em phải kiếm một việc làm nào đó để tích lũy, dành dụm tiền bạc, chờ ngày đến tuổi trưởng thành rồi lấy nhau thì cha mẹ em nào dám ngăn cản. Em vì quá vội vàng trong men say tình ái, không biết nhận định đúng sai nên đã dại dột kết liễu đời mình bằng chai thuốc rầy. Em sẽ trở thành con ma vất vưỡng, lang thang vô định vì không được yêu và em sẽ khổ nhiều hơn khi thấy người yêu mình lấy vợ, em sẽ kêu gào thét lên trong khổ đau và tuyệt vọng.
Thật ra, chúng tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc tình bị sự ngăn cấm của gia đình, có khi hai người cùng tự tử, có khi một trong hai đứa tự tử, và không biết bao nhiêu người trẻ phải chết như thế bởi một thứ tình yêu mù quáng, dại khờ, đam mê trong điên loạn.
Chúng tôi có biết một bài thơ nói về tình yêu nam nữ nhưng không rõ xuất xứ từ đâu:
Chòng chành như nón không quai,
Như thuyền không lái như ai không chồng.
Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh.
Và bài hát …
Anh lấy em từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chồng.
Bài này tôi đã nghe đâu đó như chế giễu thứ tình yêu con nít, con nôi, miệng còn hôi sữa mà bày đặt yêu thương, thử hỏi làm sao thật sự có hạnh phúc chân thật khi lấy nhau từ tuổi ấy.
Ngày nay, luật hôn nhân gia đình bắt buộc nam nữ phải 18 tuổi trở lên mới được quyền lấy nhau. Vì ở tuổi này các em mới có đủ trình độ hiểu biết về cuộc sống lứa đôi, mới có đủ khả năng thương yêu và sẵn sàng hy sinh, san sẻ cho nhau mỗi khi cơm không ngon, canh không ngọt. Ấy thế mà hiện nay tình trạng ly dị đã chiếm gần 40%, cuộc sống tiến bộ về văn minh vật chất càng nhiều thì càng làm cho con người quên đi đời sống tâm linh của chính mình. Xã hội hiện thời là một cái máy quay không ngừng nghỉ, làm cho con người cứ mãi lăng xăng, tất bật với mọi thứ nhu cầu, nên không có thời gian quay về với chính mình. Yêu nhau là phải hiểu nhau và thông cảm cho nhau. Các bạn không thấy sao? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, đời mất vui khi đã vẹn câu thề. Đó là một sự thật, càng yêu nhiều là càng khổ nhiều nếu không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ cho nhau.
Có nhiều chuyện tình thật trớ trêu. Hai đứa lấy nhau vì cha mẹ bắt buộc nên không có tình yêu thật sự, trái tim của họ không biết rung động trong ái ân. Mặc dù đang ngủ với chồng hoặc vợ, hai thân xác cùng quấn quít lấy nhau một cách say đắm, nhưng tâm tư thì đang hướng về người mình yêu. Nhìn vào gia đình họ ta tưởng như một thiên đường hạnh phúc, ai cũng khao khát muốn được như thế, nhưng thật ra họ chỉ sống vì cha, vì mẹ, vì con, vì cái, chớ không có tình yêu thương thật sự giữa hai người. Khi chúng ta có hạnh phúc trong tình yêu chân thật thì dễ dàng cảm thông và tha thứ cho nhau vì những thói quen không được tốt đẹp của mỗi người. Các em nam cần phải biết quan tâm, nói những lời khen ngợi về tài năng và đức hạnh của phái đẹp. Ngược lại, người nữ phải biết xử lý, sắp xếp việc nhà một cách tốt đẹp, hài hòa. Đây là nói theo quan niệm khi xưa, người phụ nữ chỉ lo việc trong nhà, sinh con và nuôi dạy con cái là chính. Các bạn nam phải biết tôn trọng phái đẹp, phái yếu, phải biết quan tâm, lo lắng, chăm sóc, chia sẻ, để giúp người yêu đạt được những ước mơ, những hoài bão, những thao thức trăn trở về lý tưởng sống của hai người.
Ngày nay, người phụ nữ vừa đi làm, vừa gánh lấy trách nhiệm nội trợ nên cuộc sống có phần nhọc nhằn hơn. Các em nam phải biết gánh vác và chia sẻ công việc trong nhà nếu hai người cùng đi làm. Và điểm đáng quan tâm là các em nam không nên khinh thường phái đẹp, nói những lời miệt thị, mắng chửi như tôi tớ theo quan điểm chồng chúa vợ tôi khiến phái đẹp sinh tâm buồn giận, đau khổ. Đây là thể hiện tinh thần bình đẳng trong tình chồng vợ và bình đẳng trong tình người với nhau không phân biệt nam hay nữ. Có một số người nói rằng, trời sinh ra phụ nữ để phục vụ cho đàn ông và có nhiệm vụ sinh con, đẻ cái để nối dõi tông đường. Ông trời nào làm như vậy là ông trời tàn ác, không có đạo đức. Nếu ông ta có đủ khả năng ban phước, giáng họa, tại sao ông không ban phước hết cho tất cả chúng sinh để mọi người đều được an vui, hạnh phúc đi? Đằng này, người hạnh phúc thì ít, kẻ khổ đau thì nhiều, chỉ có luật nhân quả âm thầm chi phối, tác động theo nghiệp báo đã tạo ra mà thôi, mình làm lành được hưởng phúc, mình làm ác chịu khổ đau. Đã là đấng mày râu thì không nên khinh thường phái đẹp, nhưng ngược lại các bạn nữ phải đối đãi tốt với những người giúp việc cho chồng. Đây là theo quan niệm thời xưa. Phụ nữ ngày nay đảm đương công việc không thua gì nam giới và gánh luôn trách nhiệm nội trợ, nên áp lực công việc đè nặng lên hai vai phái nữ nhiều hơn. Chính vì vậy, các bạn nam hãy nên trung thành với vợ để gia đình được ấm êm, hạnh phúc; và ngược lại, các bạn nữ không được ngoại tình, lang chạ với người khác để gia đình không xảy ra tình trạng “ông ăn chả, bà ăn nem” làm ảnh hưởng đến đời sống của con cái sau này.
Tình yêu lứa đôi là nền tảng hạnh phúc của gia đình và xã hội. Nếu trong nhà không êm ấm, hạnh phúc, sẽ làm cho xã hội thêm phần gánh nặng vì phải xử lý, hòa giải các tệ nạn không tốt do con người gây ra. Gia đình êm ấm, hạnh phúc, thủy chung sẽ giúp con cái sống tốt hơn khi trưởng thành. Các bạn nam khi có gia đình phải mạnh dạn giao quyền cho phái nữ, tức là biết tôn trọng và tin tưởng vợ mình, vì người phụ nữ lúc nào cũng quán xuyến việc nhà tốt đẹp hơn đàn ông. Chồng mà đưa tiền chợ mỗi bữa cho vợ chẳng khác nào coi vợ như người giúp việc trong nhà, đó gọi là loại đàn ông ích kỷ, nhỏ mọn và hẹp hòi, không độ lượng. Ngược lại, người nữ phải biết giữ gìn tiền bạc, tài sản cho chồng, không nên cất giấu riêng tư hoặc cờ bạc, đàng điếm làm hao hụt tiền bạc và gia sản chung của gia đình. Sở thích chưng diện, làm đẹp, mang đồ trang sức là bản chất và thói quen của người phụ nữ. Khi mới yêu nhau người nam thường tặng quà cho phái đẹp để lấy lòng người yêu. Đến khi đã là vợ chồng thì việc tặng quà cho nhau trở nên lợt lạt theo thời gian. Đối với người chồng, việc quan tâm, lo lắng, mua đồ trang sức cho vợ, tặng quà cho nhau là sự an ủi, khích lệ nhau cùng sống vui vẻ, hạnh phúc; là mục đích hâm nóng lại tình yêu của buổi đầu khi mới yêu nhau. Bên cạnh đó, người phụ nữ phải tinh cần, siêng năng, tháo vát trong mọi việc để vuông tròn mọi việc trong ngoài đều tốt đẹp, hài hòa. Trong tình yêu thương chân thật, con người ta sống về nghĩa nhiều hơn, tình yêu lứa đôi thường mang đến sự vị kỷ, chỉ biết lợi dụng thân xác của nhau mà thôi. Trong tình nghĩa nó có sự lắng nghe, có sự cảm thông, sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ, niềm đau cho nhau, có sự bao dung và độ lượng, không đặt nặng tình dục lên hàng đầu.
Đã làm người ai không còn sơ xót và khiếm khuyết, những người nam thường dính vào tứ đổ tường, cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàng điếm, nhẹ lắm cũng dính vô tật hút thuốc và lăng nhăng trong tình ái. Hai cái tật lớn của đàn ông là tửu sắc (uống rượu và háo sắc) hầu như nó là thói quen thâm căn cố đế của người nam. Vấn đề thứ nhất theo quan niệm khi xưa chồng chúa vợ tôi là trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng. Thượng đế tạo ra phụ nữ để phục vụ cho đàn ông và sinh con, đẻ cái để nối dõi tông đường xuất phát từ chế độ phong kiến nhiều vợ, từ vua quan mà ra. Chính vì vậy, nó đã ăn sâu vào tâm khảm của người đàn ông trong mọi thời đại. Vấn đề thứ hai là uống rượu, rượu đi đôi với sắc đẹp. Làm vua thì có cả hàng trăm cung phi mỹ nữ, muốn hưởng thụ đầy đủ thì ngoài các món cao lương mỹ vị còn phải đi kèm theo rượu mới tiêu hóa hết, rồi sau đó ân ái cùng mỹ nhân. Vua vì có quá nhiều cung phi mỹ nữ nên sợ thái giám phỏng tay trên, do đó ai làm thái giám đều bị đem thiến hết. Làm người ai cũng ham muốn tình yêu xác thịt, giờ của quý đã bị triệt tiêu nên dù ham muốn cũng không làm gì được; cuối cùng bị đè nén ức chế lâu ngày thành ra lơ lớ, tâm sinh lý bị biến dạng, thay đổi theo thời gian. Ngày nay, những người có gen đó được gọi là pê đê hay đồng tính. Vua làm được nên các quan quyền cũng bắt chước làm theo và hưởng thụ lâu ngày như thế, trở thành thói quen thâm căn cố đế khó từ bỏ được. Vua quan làm được dân chúng cũng bắt chước làm theo, lâu ngày chày tháng trở thành bình thường, và cứ như thế tiếp tục tái diễn từ đời này qua kiếp nọ. Trong một trăm người đàn ông thì có đến chín mươi lăm người dính vào một trong bốn món tứ đổ tường: Cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàng điếm.
Ngày xưa, đàn ông là trụ cột của gia đình, là lao động chính đem tiền bạc về nuôi vợ con nên được quyền ăn trên ngồi trước và thê thiếp đầy nhà. Chính vì thế, khi họ có quyền hành trong tay thì tìm đủ mọi cách thu gom, vơ vét về cho riêng mình nhiều hơn; như vậy mới đủ khả năng đáp ứng nhu cầu, phục vụ chi tiêu hằng ngày; do đó, người đàn ông khó buông xả bớt để giúp người, cứu vật. Ngược lại, người phụ nữ vì có thiên chức làm mẹ nên sống rất tình cảm, lúc nào cũng cho ra nhiều hơn, phải nuôi con, phải chia sẻ cho con hết tất cả để con được mạnh khỏe, mau khôn lớn. Song, người nữ thích làm đẹp, thích trang sức để tạo sự hấp dẫn cho đấng mày râu, vì quan niệm chồng chúa vợ tôi nhiều thê thiếp; nếu mình không đẹp đẽ, dễ thương, duyên dáng thì sẽ bị chồng bỏ rơi. Đàn ông lúc nào cũng háo sắc, nên phụ nữ lúc nào cũng muốn làm đẹp để được lòng chàng, được lòng thì vinh hoa phú quý đi kèm theo; nhờ vậy có thể giúp đỡ gia đình, người thân, thăng quan tiến chức dễ dàng và có được cơm no, áo ấm trong cuộc sống hiện tại.
Phái đẹp thiên về tình cảm nên rất thích được khen ngợi, tâng bốc. Phụ nữ yêu bằng tai, đàn ông yêu bằng mắt. Chính vì có thiên chức làm mẹ nên người nữ dễ dàng chia sẻ, làm phước hơn đàn ông. Đàn ông quan niệm thu vô để hưởng thụ cho mình nhiều hơn, người nữ quan niệm cho ra vì phải mang nặng đẻ đau, hy sinh vất vả, nhọc nhằn để nuôi con khôn lớn. Muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình và sống với nhau bằng tình yêu thương chân thật, người đàn ông phải giảm bớt các thói quen hưởng thụ quá đáng, thói quen chồng chúa vợ tôi, thói quen gia trưởng, nếu dứt hẳn được thì càng tốt; nếu không gia đình khó bao giờ bảo đảm có được hạnh phúc thật sự. Phái đẹp cũng vậy, phải biết gìn giữ tài sản chung cho gia đình, không nên se sua, chưng diện quá mức, hoặc tiêu xài, mua sắm lãng phí, vô ích. Thế giới ngày nay sở dĩ kinh doanh mua bán được là nhờ sự tiêu thụ quá mức của người phụ nữ, nhiều nhà quá xa xỉ để chứng tỏ đẳng cấp giàu sang của mình. Thói quen của người nữ thích làm đẹp, thích chưng diện, thích sắm sửa, trưng bày đủ thứ. Nhiều món đồ không xài cũng mua về để đó. Vì sợ già, sợ xấu, sợ mọi người chê, sợ chồng bỏ, nên người nữ lúc nào cũng trang điểm, làm dáng, làm duyên, nhờ vậy mà các thẩm mỹ viện làm đẹp mau làm giàu; lại còn hay có tật thích khen ngợi, tâng bốc, nên mấy anh chàng sở khanh mới dễ dàng lừa đảo từ chỗ yếu điểm đó.
Tóm lại, muốn tình yêu được bền vững, lâu dài cho đến ngày “răng long tóc bạc” thì hai người phải sống có tình, có nghĩa với nhau. Tình là tình ân ái, nghĩa là nghĩa vợ chồng, trong đó còn có con cái là sợi dây ràng buộc làm cho tình yêu thương càng thêm gắn bó hơn. Tình yêu lứa đôi chỉ thật sự hạnh phúc khi hai người có cùng quan điểm, có cùng chí hướng, có cùng một tâm linh, một tâm linh trong sạch và thánh thiện là người phải có lòng từ bi rộng lớn. Người có lòng từ thì không sát sinh hại vật. Người hay giúp đỡ, chia sẻ với kẻ bất hạnh thì không bao giờ trộm cướp của ai. Người có đạo đức tốt biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục thì không bao giờ lang chạ, ngoại tình với người không phải là vợ chồng chính thức. Nếu chúng ta là người con Phật và biết gìn giữ năm điều đạo đức thì ta sẽ có một tình yêu chân thật, hiểu biết và yêu thương, biết thông cảm cho nhau, biết chia sẻ cho nhau, biết tha thứ cho nhau, biết vun đắp cho nhau, và luôn giữ cho nhau mãi mãi là tình yêu thương trong sáng bằng trái tim hiểu biết.
ÁI NẶNG TÌNH SÂU QUÊN TÌNH CHA MẸ.
Tiếng sét ái tình làm con người ta tê tái cả tâm hồn, như si như dại. Trên đời này không có gì yêu thương, sâu đậm, thiết tha bằng tình ái. Trong ái tình, việc chung chăn xẻ gối giữa vợ chồng với nhau có khi lướt qua tình cha mẹ, có người thà bỏ cha mẹ chứ không thể xa rời tình ái. Sự thật quá đau lòng, ít người nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, mẹ mang nặng đẻ đau, cha làm lụng nhọc nhằn, vất vả nuôi con, đến khi khôn lớn cha mẹ dựng vợ gả chồng cho con để con được yên bề gia thất. Do si mê trong tình ái và bị sự ràng buộc của vợ chồng nên chúng ta chỉ biết lo cho vợ chồng, con cái mình nhiều hơn. Mấy ai thấu hiểu công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha. Biết ơn và đền ơn là đạo lý uống nước nhớ nguồn luôn nhắc nhở chúng ta nên biết cung kính, hiếu dưỡng mẹ cha.
Chúng ta nên nhớ, từ khi mở mắt chào đời mẹ đã móm cho ta dòng sữa ngọt, dòng sữa ấy là chất liệu ngọt ngào được kết tinh bằng tấm lòng yêu thương của cha mẹ. Nhưng vì lỗ mũi con người lúc nào cũng nhìn xuống, nên ai lớn khôn rồi lập gia đình và có trách nhiệm nuôi dạy, bảo bọc vợ con thì lo lắng cho gia đình riêng của mình nhiều hơn là thương yêu cha mẹ, cung kính phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Chuyện đời là như thế đó! Trong cuộc sống của chúng ta, có những lúc ta phải tự hỏi rằng: Ta sống trên đời này để làm gì? Và ta từ đâu đến? Sau khi chết ta sẽ đi đâu? Và ý nghĩa thật sự cho cuộc đời của chúng ta là gì? Tại sao ta không thật sự tìm thấy bình yên, hạnh phúc trong cuộc đời của mình? Ta phải làm gì để tìm ra nguyên lý chánh đáng cho cuộc đời của mình? Quả thật, một con người ai cũng được sinh từ sự luyến ái của cha mẹ mà có nên hình hài, vóc dáng này. Đó là quy luật chung cho loài người chúng ta.
Đời sống con người thật phong phú và cũng lắm nhiều rắc rối, bởi con người biết suy nghĩ, biết nói năng, biết hành động. Nếu suy nghĩ, nói năng, hành động theo chiều hướng tốt đẹp thì lợi ích cho mình và người thân, gia đình và xã hội; ngược lại sẽ gây ra phiền muộn, khổ đau cho nhân loại. Và cho đến sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác, nó chỉ thay hình đổi dạng tùy theo nghiệp nhân tốt hay xấu mà ta đã gieo trong hiện tại. Dù tu chứng đến thành Phật thì các Ngài vẫn có chuyện để làm, vẫn tiếp tục công việc độ sinh, đó là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ tát tùy duyên trở lại thế gian để giúp đỡ nhân loại dưới nhiều hình thức khác nhau, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng sống của con người phải có ngày chấm dứt để thay hình đổi dạng, nhưng sự sống và dòng đời luôn luôn trôi chảy không cùng tận. Tình ái vốn là nguồn gốc của sinh tử mà cũng là điều kiện tất yếu để tất cả chúng sinh hiện hữu trong cõi Ta bà vui ít, khổ nhiều này. Ái là lòng yêu thương từ cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, đạo thuật, kỹ nghệ, quần áo, ăn mặc, nhà cửa, ruộng vườn, rừng suối, hoa cỏ, phong cảnh đẹp đẽ … Vậy cội gốc của sinh tử là gì?
Người xưa nói, “Nghiệp không nặng không sinh vào cõi Ta bà, lòng tham ái không dứt không sinh vào Tịnh độ”. Nên biết, ái là nguồn gốc của sinh tử. Người không biết nguồn gốc của sinh tử, chỉ tu niệm một bên thì chỉ hưởng phước báo cõi trời người. Vì thế, những người tu theo Phật trước tiên cần biết lòng luyến ái, tham đắm là nguồn gốc của sinh tử, muốn được tự tại, giải thoát chúng ta cần phải đoạn dứt nguồn gốc tham ái ấy. Như trước mặt chúng ta thấy vợ chồng, con cái, gia nghiệp, tài sản, địa vị, danh vọng thì ta phải nghĩ rằng, tất cả những thứ này khi chết không mang theo được, kẻ ở người đi càng thêm lưu luyến nên không ra khỏi luân hồi sinh tử.
Con người ai cũng sống bằng tình yêu thương chân thật thì chắc hẳn mọi thứ xung quanh sẽ tốt đẹp vô cùng. Bầu trời này sẽ trong sáng, quang đãng, không còn những áng mây đen mù mịt. Mặt đất này sẽ không còn những cảnh lầm than, cơ cực và những chuyện đau thương vì hiểu biết sai lầm gây đau khổ cho nhau. Tình cảm cũng giống như những hạt mưa, mưa càng to thì có thể dập tắt đi ngọn lửa tham lam, ích kỷ, sự căm hờn của lòng thù hận bởi ganh ghét, tật đố. Nó có thể là ngọn lửa của tình thương yêu, ước mơ và hy vọng, bằng sự khoan dung của trái tim hiểu biết, cùng san sẻ cho nhau với tấm lòng vị tha. Tại sao chúng ta lại để cho những ngọn lửa ấy vụt tắt đi trong đêm tối vô minh? Tình thương yêu chân thành hay nỗi xót xa những mảnh đời bất hạnh, sự cảm thông để cùng nhau san sẻ hoặc nâng đỡ và tha thứ cho nhau đều xuất phát từ “tình thương yêu chân thật”. Nếu một khi chúng ta đã đánh mất giá trị và phẩm chất thì ta đã tự tách mình ra khỏi thế giới của hiểu biết, nhận thức đúng đắn và con người tâm linh của chính mình.
Hạnh phúc lớn nhất của con người khi còn tồn tại trong thế giới này chính là được sống hòa hợp với nhau, được tắm mình trong biển cả bao la tràn đầy tình yêu thương chân thật của mọi người. Người xưa nói, “mất của cải là mất ít, mất tình thương là mất nhiều”, và có khi ta mất hết tất cả vì tham ái, si mê. Thật vậy, một người sống mà không có tình cảm thì trở nên hung ác và tàn nhẫn vô cùng. Cha có thể giết con, vợ chồng không biết tôn trọng nhau, anh em tranh giành của cải, bạn bè vì quyền lợi của riêng mình mà hại nhau. Tất cả là vì họ không có tình thương yêu chân thật nên không biết cảm thông và tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy nên sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, bằng chính những gì mà ta có được. Chúng ta sống bằng tình người và đừng để cho cái bệnh vô cảm len lỏi vào đời sống này, hãy lấy tình thương yêu nhân loại làm ngôi vị trung tâm của cuộc sống, hãy mở rộng trái tim mình, hãy quan tâm và chia sẻ đến nhiều người hơn, hãy thông cảm và sẵn sàng nâng đỡ những mảnh đời bất hạnh, hãy biết quý trọng tình cảm và tha thứ lỗi lầm của người khác. Hằng ngày, chúng ta thường đối mặt với những bộn bề của cuộc sống, nhiều lo toan trong công việc, hay có lúc chúng ta đắm chìm trong những phút giây lạc thú, vui vẻ bên bạn bè mà đã lãng quên đi phút giây êm đềm, hạnh phúc, những hình ảnh thiêng liêng cao cả của cha mẹ, người ngày đêm thương nhớ, mong chờ, dõi theo bước chân của chúng ta trong từng phút, từng giây.
Ngày xưa, ở một kiếp nọ, Ngài Mục Kiền Liên được sinh ra trong một gia đình trung lưu giàu có. Tuy đã đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không thèm cưới vợ, định ở vậy để nuôi dưỡng, báo hiếu cha mẹ già. Vì muốn có con nối dõi tông đường kế thừa gia phong nên cha mẹ đã ép chàng lấy vợ. Chàng nhiều lần từ chối nhưng cha mẹ không chịu. Cuối cùng, vì thương cha mẹ nên chàng đành chấp nhận cưới vợ. Buổi ban đầu, khi cô con dâu mới về nhà chồng, cô ta nuôi dưỡng chăm sóc cha mẹ chồng chu đáo và làm tròn bổn phận đối với người vợ, làm cho những nhà hàng xóm ước ao và ganh tị, phải chi cô ta là con dâu nhà mình thì vui vẻ và hạnh phúc biết bao. Rồi thời gian lặng lẽ trôi qua theo năm tháng, cha mẹ già ngày lớn tuổi, bị bệnh mù lòa đôi mắt, làm cho người vợ càng thêm khổ sở, nhọc nhằn, đã vậy còn hay bị la rầy vô cớ không có một ngày được an lạc, thảnh thơi. Người vợ trẻ đó lớp thì phải chăm sóc, nuôi dạy con cái, lớp thì phải chăm sóc cha mẹ già mù lòa. Công việc cứ như thế xảy ra hằng ngày làm cho nàng dâu sinh tâm cau có, bực dọc và oán giận cha mẹ chồng.
Do áp lực công việc gia đình, ngày nào cô ta cũng trách móc, cằn nhằn với chồng về chuyện cha mẹ già lớn tuổi sanh tật khó khăn, trách móc đủ điều làm cho chàng khó xử vì phải lo cơm áo gạo tiền cho cả gia đình. Cô vợ than thân, trách phận, nói rằng mình bạc phước nên phải chịu khốn khổ như thế này; mỗi ngày nàng phải chịu cảnh cha mẹ cơm nước đổ rải lung tung, ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, tiểu tiện khó khăn; vậy mà cha mẹ lúc nào cũng than vãn, trách móc, cằn nhằn, khó chịu, có khi còn chửi mắng, nạt nộ cô. Cô vợ luôn tạo ra hoàn cảnh trái ngang, éo le để bắt buộc chồng mình phải chọn lựa. “Một là anh nếu vì cha mẹ thì vợ chồng chúng ta chia tay kể từ đây. Nếu vì em và sự nghiệp cho con cái về sau thì trong hai anh phải chọn một. Một là nuôi cha mẹ, hai là nuôi vợ con. Trong hoàn cảnh éo le, cha mẹ già mù lòa, cuộc sống gia đình ngày càng thêm khó khăn, chật vật, làm cho người chồng thêm lo lắng đủ điều, không biết giải quyết cách nào cho trọn vẹn bên hiếu, bên tình. Người chồng cứ đắn đo, suy nghĩ mãi vì điệp khúc này cứ được lặp đi lặp lại mỗi ngày. Bên hiếu bên tình, chọn bên nào đây? Chàng vì thương cha mẹ già mù loà đôi mắt nên bỏ không đành khi nghĩ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, mang nặng đẻ đau, nhờ vậy mà ngày hôm nay chàng có được mái ấm gia đình; nhưng gặp cô vợ quá khắc khe, tham lam và ích kỷ làm cho chàng càng khó xử hơn.
Thật ra, trong cuộc đời này, không có gì thiêng liêng và cao quý bằng công ơn cha mẹ. Trong các thứ tình không tình nào bằng tình mẹ cha, nhưng có mấy ai hiếu kính và nuôi dưỡng cha mẹ khi tuổi già? Cha mẹ tuổi già thường hay bệnh hoạn, đau nhức, lại không làm được việc gì giúp ích cho con cháu, làm thêm gánh nặng gia đình, vừa tốn kém, vừa nhọc nhằn, nên ngày xưa hay có quan niệm đem bỏ cha mẹ vào rừng khi tuổi già. Có một người cha đang đóng chiếc xe để chở cha mình bỏ vào rừng. Một hôm, đứa con biết được mới nói, “khi nào ba đưa nội đi thì ba nhớ đem xe về nhà cho con”. Người cha mới hỏi, “đem xe về nhà cho con để làm gì?” – “Dạ thưa cha, con để dành chiếc xe đó chờ đến khi nào ba tuổi đã già, con sẽ lấy xe chở ba đi cũng như ông nội ngày hôm nay vậy”. Người cha nghe con mình nói như vậy, ngẫm nghĩ lại một hồi lâu rồi từ bỏ ý định chở cha mình vào rừng; và từ đó bắt đầu chăm sóc ân cần, chu đáo hơn để đền đáp công sinh thành, dưỡng dục.
Nuôi cha mẹ lúc tuổi già rất khó vì thân thể bệnh hoạn, yếu đuối, đi đứng khó khăn, hoặc bệnh tình nặng hơn phải nằm một chỗ. Nếu gia đình nào nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng cha mẹ lúc tuổi già rất khó. Nhiều khi con cái bận bịu công việc nên lơ là trong việc chăm sóc thì cha mẹ trách móc đủ điều, giận dỗi, hờn mát, thật khó lòng. Một hôm, đức Phật lấy một ít đất để trên đầu ngón tay, rồi hỏi các Thầy Tỳ kheo, “đất trên đầu ngón tay ta nhiều hay đất trên quả địa cầu này nhiều?” Các Thầy Tỳ kheo đồng trả lời, “dạ, đất trên quả địa cầu nhiều ạ”. Phật nói tiếp, “người có hiếu đối với cha mẹ trên thế gian này rất ít như đất để trên đầu ngón tay.”
Vì hoàn cảnh đã làm cho con người phải vật lộn với cuộc sống mà kiếm miếng ăn, nên đâu có thời gian chăm sóc cha mẹ già và nuôi dạy con cái đúng mức. Phật lúc nào cũng vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên Ngài nhắc nhở và chỉ dạy cho ta biết được đạo lý làm người là luôn hiếu kính và dưỡng nuôi cha mẹ. “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây” là câu ca dao tục ngữ của dân tộc Việt Nam mà tổ tiên, ông bà chúng ta luôn nhắc nhở con cháu để biết nhớ ơn và đền ơn cha mẹ. Cha mẹ là hai đấng sinh thành và nuôi dưỡng ta nên người, vậy mà ta không còn biết ơn, hỏi sao người khác ta có thể giúp đỡ và chia sẻ cho được?
Chàng trai đó không nỡ nhẫn tâm bỏ cha mẹ, nhưng hoàn cảnh lúc đó thật khó xử vô cùng, ngày nào cũng là điệp khúc ai oán cung sầu mà người vợ trẻ lúc nào cũng khóc lóc kể lễ, đầu bù tóc rối, mặt mày bí xị, nước mắt ràn rụa, khiến người chồng càng thêm buồn khổ, không biết giải quyết ra sao. Tình chung chăn xẻ gối cùng với sắc đẹp mặn mà của người vợ trẻ và tương lai của con mình về sau như có một ma lực bắt buộc người chồng trong hai phải chọn một. Đêm đó, người chồng không sao ngủ được vì chuyện vợ con và cha mẹ. Nước mắt đã lăn tròn trên đôi má của chàng; không còn cách nào khác hơn, thà chấp nhận bỏ cha mẹ mà nuôi vợ, nuôi con. Nghĩ vậy, sáng hôm sau, chàng trai mới đến thủ thỉ với cha mẹ rằng, “bây giờ cha mẹ đã lớn tuổi nên không còn biết sống bao lâu nữa. Nay con thỉnh cha mẹ về quê thăm gia tộc nội ngoại một lần sau cuối, để sau này nhắm mắt lìa đời khỏi phải ân hận, tiếc nuối quê cha đất tổ. Cha mẹ nghe con mình nói có lý nên đồng ý đi ngay, họ có ngờ đâu bị rơi vào bẫy của người vợ ác tâm.
Con người ta do tham cầu quá mức nên mất hết phẩm chất, nhân cách đạo đức, chỉ biết thủ lợi cho riêng mình còn ai sống chết mặc kệ, sẵn sàng làm những điều tội lỗi để bảo vệ cái ta ích kỷ của mình. Ít ai nghĩ đến công sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha, thâm ân như trời biển không gì có thể sánh bằng. Ít ai nghĩ mình được sinh ra từ đâu, ai nuôi mình khôn lớn và ngày nay sống cơm no áo ấm, công thành danh toại là nhờ ai. Chàng trai đành lòng thuê một chiếc xe ngựa rồi tự mình cầm dây cương chở thẳng cha mẹ vào rừng sâu; đến chỗ đã khuất người, chàng trao dây cương cho cha rồi nói, “dạ thưa cha mẹ, đoạn đường này nổi tiếng có rất nhiều bọn cướp, con phải xuống đi trước để dò la tin tức và canh chừng chúng”. Đi được một lúc, chàng giả làm bọn cướp đến đánh đập cha mẹ tàn nhẫn; nhưng ông bà không nghĩ đến thân mình bị đánh đập mà trong lòng luôn nhớ nghĩ đến con nên ráng sức la lớn, “con ơi! Hãy mau chạy lẹ đi con, kẻo bị bọn cướp đánh chết không về nuôi vợ nuôi con được, cha mẹ đã già rồi nếu có chết cũng không sao”. Thật là đứt từng khúc ruột!
Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày.
Người con cứ ngỡ đây là một giấc chiêm bao, trong lúc sinh ly tử biệt cần kề với cái chết mà cha mẹ già lúc nào cũng thương tưởng đến mình.
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Những âm vang ấy tự nhiên hiện lên rõ ràng trước mắt anh như đang thức tỉnh cơn điên cuồng ngu si, dại dột của mình.
Trong kinh Phật dạy:
Cha mẹ già khi trăm tuổi,
Vẫn còn thương con tám mươi.
Thật ra, trên cõi đời này không có gì cao quý và thiêng liêng bằng tình cha mẹ. Dù suốt cuộc đời hai vai ta cõng cha, cõng mẹ, lo cho ăn uống, cung phụng đầy đủ các món ngon vật lạ suốt một đời cũng chưa trả hết công ơn cha mẹ. Vậy mà chàng trai đó vì nghe theo tiếng gọi của tình yêu, bị tiếng sét ái tình làm mê muội mà nỡ đành lòng tàn nhẫn đến thế ư! Tình cha mẹ thương con như biển rộng, sông dài mênh mông vô cùng tận. Trong cơn mê sảng điên rồ, cuồng dại, chàng trai chợt tỉnh ra, rụng rời tay chân, nói chẳng nên lời, bất giác nghẹn ngào, quỳ xuống ôm chầm lấy cha mẹ mà van xin tha tội chết, ăn năn, sám hối lỗi lầm, mong cha mẹ thứ tha. Sau đó, anh đưa cha mẹ về nhà trở lại và hết lòng thờ kính, hiếu dưỡng, rồi đuổi cô vợ đi. Vợ anh hồn vía lên mây, quỳ lạy trối chết mong anh tha thứ cho một lần để ở lại nuôi con và nuôi dưỡng mẹ cha. Với lòng hỷ xả, anh cũng xin mẹ cha tha thứ cho cô con dâu tàn nhẫn.
Do lòng tham con người không bến bờ nhất định nên lúc nào cũng ích kỷ, nhỏ nhoi, nên nghĩ cha mẹ già là gánh nặng của gia đình, thêm phần tốn kém mà chẳng lợi ích gì. Ít ai nghĩ mình từ đâu ra, nếu không có cha mẹ nuôi nấng, bảo bọc thì làm sao ta sống đến giờ này, để được nhà cao cửa rộng, vợ đẹp, con ngoan. Thế mới biết:
Vì tình chăn gối đậm đà,
Quên đi ân nghĩa mẹ cha thuở nào.
Chỉ vì không biết tu trì,
Nên đành bất hiếu cũng vì ái ân.
Cái tình đầu ấp tay gối giữa vợ chồng với nhau lúc nào cũng đầm ấm, mặn nồng hơn, nên đôi lúc nó lướt qua tình cha mẹ. Trên đời này không có gì yêu thương tha thiết bằng ái tình. Người ta đành lòng bỏ hết tất cả để đi theo tiếng gọi của tình yêu và sẵn sàng làm những điều tàn ác, dã man nhất mà một con người bình thường không dám làm để bảo vệ tình yêu, như trường hợp trong câu chuyện trên. Người con trai đành đoạn, nhẫn tâm, mất hết tính người chỉ vì con tim réo gọi. Đau lòng, chua xót, ngậm ngùi, đắng cay, may mà chàng trai ấy còn có chút lương tâm ăn năn, sám hối kịp thời. Không thì,
Tội này chồng chất cao thành núi,
Biết đến chừng nào mới trả xong.
Công cha nghĩa mẹ sinh thành
Trời cao biển rộng cũng không sánh bằng.
Mặc dù đã ăn năn, hối hận, tận tâm hiếu dưỡng, nhưng cha mẹ già sức yếu, lại bị đánh đập, nên một thời gian ngắn hai ông bà cũng hóa ra người thiên cổ. Chàng trai đó vì ác nghiệp quá nặng nề nên nhiều kiếp về sau bị đọa đày, chịu khổ trong địa ngục. Cũng từ nhân duyên này chàng mới phát nguyện lớn, “đời đời, kiếp kiếp lúc nào cũng hiếu dưỡng với cha mẹ”.
Vào thời Phật tại thế, chàng trai đó chính là ngài Mục Kiền Liên xuất gia tu theo Phật và chứng quả A La Hán, có thần thông đệ nhất bên Tăng đoàn. Vì thương mẹ hiện tiền không biết quý kính Tam bảo, hay làm những điều xấu ác hại đến nhiều người, xan tham, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, chết rồi không biết thác sanh về đâu, Ngài dùng thần thông đi tìm mẹ mới biết mẹ mình bị đọa lạc trong loài ngạ quỷ, tức quỷ đói, chịu khổ sở vô cùng. Thương mẹ đói khát khổ sở, thân thể tiều tụy, Ngài trở về trần gian xin được bát cơm liền tức tốc dùng thần lực để dâng cho mẹ ăn. Bà ta đói khát đã nhiều ngày nên khi thấy cơm liền một tay che lại vì sợ các quỷ đói khác thấy xin, còn một tay vội bốc ăn; nhưng nghiệt ngã thay, cơm hóa thành lửa ăn không được làm bà đau khổ vô cùng. Mục Kiền Liên thấy mẹ như vậy nên động lòng thương xót, Ngài vận dụng thần thông để giúp mẹ được no đủ nhưng vô hiệu quả, vì nghiệp ác của bà quá nặng. Ngài bèn trở về nhờ Phật ra tay cứu độ.
Phật dạy, “mẹ ông khi còn sống tham lam, bỏn sẻn, tâm địa ác độc, nên sau khi chết bị đọa làm quỷ đói. Một mình ông không đủ sức để cứu mẹ mà phải nhờ công đức tu hành thanh tịnh của chư Thánh Tăng trong mùa an cư kiết hạ, may thay mới cứu được mẹ ông”. Tôn giả Mục Kiền Liên mới thực hiện theo lời Phật dạy, Ngài làm lễ cúng dường Trai Tăng, nhờ vậy mẹ Ngài thoát được kiếp quỷ đói mà sanh về cảnh giới an lành. Tuy nhiên, do ác nghiệp quá khứ còn xót lại, khoảng cuối đời Ngài bị một số người ác tâm dùng gậy đánh chết. Một số Thầy Tỳ kheo mới thắc mắc hỏi Phật tại sao Ngài Mục Kiền Liên không dùng thần thông để thoát chết. Phật dạy, “thần thông không chuyển được nghiệp lực”. Bình thường, Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông biến hóa vô song qua lại trong các cõi trời, người như trở bàn tay. Đến khi nghiệp đến, Ngài không dùng thần thông được nữa, nên đành phải chịu chết để trả nghiệp quá khứ còn xót lại.
Như chúng ta đã biết, thần thông chỉ là diệu dụng khi mình còn sống. Chúng ta có thể thi thố thần thông, dời núi lấp biển hoặc cầu mưa gió, nhưng khi nghiệp báo đến, thần thông vẫn bất lực trước quả xấu ác của chính mình. Nếu thần thông mạnh hơn nghiệp báo thì thế giới này không ai sống được, người ta sẽ đua nhau luyện thần thông để làm bá chủ thiên hạ. Như vậy, ta có thần thông để làm gì? Bởi do quá khứ nhiều đời, Ngài Mục Kiền Liên từng làm nghề đánh bắt cá tàn hại loài vật nhiều quá, và có một kiếp Ngài bất hiếu, tàn nhẫn với cha mẹ vì vợ con, nên dù kiếp hiện tại Ngài có tu hành chứng quả nhưng vẫn phải trả ác nghiệp khi xưa còn xót lại.
Câu chuyện trên là một bài học nhân quả công bằng không thiên vị một ai. Ai siêng năng, tinh tấn tu hành thì chứng quả giải thoát. Ai gieo tạo ác nghiệp thì đến hồi đủ duyên phải trả quả xấu. Nhưng người tu trả quả khác với người đời là khi quả xấu đến vẫn an nhiên, tự tại, không oán hận, thù hằn người hại, ngược lại còn luôn mở rộng lòng từ-bi-hỷ-xả, sẵn sàng bao dung, tha thứ và độ lượng, nên nhân quả xấu kể từ đây chấm dứt, không còn tác động, chi phối nữa. Còn chúng ta khi gặp quả xấu thì oán giận, thù hằn, đổ thừa tại-bị-thì-là mà không biết tất cả đều do mình tạo lấy, có khi làm cho nhân quả xấu trở thành lớn mạnh thêm. Song, người Phật tử thời bây giờ vẫn thích thần thông hơn, nghe ở đâu có linh ứng liền tranh nhau đi đến đảnh lễ, cầu xin đủ thứ. Vì thói quen của con người thích hiếu kỳ và ưa điều mầu nhiệm, huyền bí và thích cầu khẩn, van xin hơn tu tập; do đó dễ bị người gạt gẫm, dụ dỗ, cuối cùng rơi vào mê tín dị đoan không làm chủ được bản thân mà làm những điều tà vạy.
Câu chuyện của Tôn giả Mục Kiền Liên là một bài học quý giá cho cuộc đời, nhằm giúp chúng ta có thêm một nhận thức sáng suốt về công cha, nghĩa mẹ. Đành rằng ai lớn lên cũng phải có vợ, có chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình và đóng góp cho xã hội, nhưng nếu không có cha mẹ thì làm sao ta có thân này; và theo quy luật nhân quả tương duyên trong đạo làm người, việc thờ kính, hiếu dưỡng cha mẹ là một lẽ đương nhiên, vì nó nói lên tinh thần biết ơn và đền ơn. Ta biết hiếu thảo với cha mẹ, biết đền ơn, đáp nghĩa thì sau này con cháu ta cũng sẽ biết hiếu thảo và nó sẽ trở thành một truyền thống tốt đẹp là đạo lý uống nước nhớ nguồn, để nhắc nhở mọi người chúng ta ai cũng phải biết như thế là đạo lý chân chính trong cuộc đời làm người.
BIỂN ÁI NGHÌN TRÙNG
Như chúng ta đã biết, luyến ái sắc dục trong tình yêu nam nữ là căn bệnh thâm căn cố đế của tất cả mọi người. Đây là thói quen si mê nặng nề nhất của chúng tôi. Trong hiện đời, nó đã làm cho tôi điên đảo, vọng động, rơi vào vòng tội lỗi, và xém chút nữa tôi đã mất mạng vì nghiệp tình ái này. Mãi đến khi chúng tôi được đầy đủ phúc duyên xuất gia tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, tôi vẫn bị thói quen ham muốn luyến ái nam nữ cuốn hút nặng nề, xuýt chút nữa tôi bị rớt đi bởi “tình xưa nghĩa cũ”.
Trong kinh đức Phật thường hay thí dụ hình ảnh chiếc lưới để nói lên sự mất tự do của một người khi bị vướng vào vòng ái dục. Tôi khi xưa thường hay tự hào mình có số đào hoa nên đi đâu cũng kết duyên tình ái tới đó. Bị vướng vào nghiệp này, giờ ngồi gẫm lại tôi thấy tội lỗi vô cùng. Muốn chiếm tình cảm của người khác phái chúng ta phải nói dối để ga lăng và tâng bốc nàng hầu được lòng phái đẹp; còn khi đã có vợ rồi muốn ăn vụng thì phải nói dối, lừa đảo bằng mọi cách, nào là sống không có hạnh phúc, hoặc bị cha mẹ ép buộc để tán tỉnh, lấy lòng người ta. Thật là tội lỗi!
Những người cư sĩ tại gia lớn lên phải đi đến hôn nhân để duy trì giống nòi nhân loại; có vợ, có chồng, xây dựng hạnh phúc gia đình để phát triển tình yêu thương là chuyện đương nhiên trong đời sống xã hội, nhưng ta phải thương yêu như thế nào để không bị lưới ân ái trói buộc mà gây khổ đau và làm tan nát hạnh phúc gia đình. Qua đó, chúng ta thấy, ái dục là cội gốc của luân hồi sinh tử, hễ còn ái là còn khổ đau, dứt ái, lìa được ái thì ta một đời thong dong, tự tại giải thoát, không còn bị sự trói buộc của nó.
Đứng về phương diện hành trì để chuyển hóa luyến ái nam nữ thì người xuất gia dễ dàng thực tập hơn người tại gia, vì người xuất gia sống trong môi trường rất thuận lợi về mọi mặt. Những vị xuất gia tại Thiền Viện Thường Chiếu phải tự lao động công ích, tự làm, tự nấu ăn, tự dọn dẹp, sắp đặt mọi thứ công việc mà không bị lệ thuộc các Phật tử bên ngoài như các chùa khác. Quý Thầy không được xem truyền hình, không được đọc sách báo, tiểu thuyết tình cảm, nên không thấy những hình ảnh khêu gợi ái dục trong phim ảnh hay sách báo. Do đó, tâm luyến ái dục vọng cũng bị hạn chế, và lần theo thời gian quý Thầy dùng trí tuệ để chuyển hóa ái dục. Tuy có điều kiện thuận lợi trong việc tu học như vậy, nhưng lâu lâu quý Thầy cũng bị ra đời lấy vợ, có ai hỏi thì đổ thừa tại nghiệp tôi nặng quá. Trên thực tế, một bên chịu, một bên không thì làm sao có chuyện kết nối yêu thương; tại vì hai bên đều đồng ý, thích thú nên mới cùng nắm tay nhau xây dựng tổ ấm gia đình. Ta thấy, luyến ái nam nữ là căn bệnh trầm kha từ vô thủy kiếp đến nay. Thế gian này thiếu nó thì không thể tồn tại, đời sống con người sẽ khô khan, cằn cỗi, chẳng ai thèm xây dựng, đóng góp, mở mang, phát triển làm gì nữa. Chính tình yêu thương đã thúc đẩy con người sống, làm việc, phục vụ, để xây dựng hạnh phúc gia đình và đóng góp cho xã hội.
Trong cuộc sống này, dù không có tình yêu lứa đôi chính thức thì nhu cầu tình dục vẫn hoạt động bình thường, nên mới có tình trạng mua bán dâm. Người xuất gia là đi ngược lại dòng đời và một khi đi tới tình dục thì sẽ làm tan vỡ tất cả lý tưởng giác ngộ, giải thoát của mình. Vì vậy, chúng ta không nên coi thường, đừng tưởng là không sao. Nếu đó là tình thầy trò thì không sao, nhưng nếu nó có hơi hướm của luyến ái, yêu thương, thì mình phải biết rõ nó sẽ dẫn tới hẹn hò rồi yêu thương. Chuyện này đã có xảy ra trong đại chúng. Một vị Thầy với một Phật tử nữ đã thường xuyên tiếp xúc qua lại bằng điện thoại và gặp gỡ hàng tuần, hàng tháng, rồi cuối cùng rủ nhau ra đi xây dựng tổ ấm yêu thương. Vì vậy, mình phải thấy cho rõ, đây có phải là tình thầy trò hay không? Nếu nó có màu sắc của ái dục thì ta phải cẩn thận, nếu để nó làm ta nhớ thương mỗi khi không được tiếp xúc, nói chuyện thì đây là nguyên nhân sẽ đưa tới sự gần gũi. Mới đầu, ta chỉ gặp gỡ, trao đổi, thưa hỏi đạo lý tu tập với tình thầy trò, nhưng với thời gian, nước ái sẽ thấm dần vào trong trí não ta, nên ta phải nhớ mình đã xuất gia, mình đã có chí nguyện đi theo sự nghiệp của Đức Thế Tôn, nên mình phải biết khôn ngoan, sáng suốt xa lìa. Muốn vượt qua sự luyến ái đó, chư huynh đệ phải biết quan tâm, khuyên nhủ, nhắc nhở, động viên lẫn nhau. Khi có ai nhắc nhở mình thì mình phải chắp tay lại xin cám ơn người đó. Nếu làm được như thế, ta mới có năng lực làm chủ bản thân vượt qua sự quyến rũ hấp dẫn của ái dục.
Trong khi đó, người tại gia sống ở ngoài đời phải tiếp xúc, chung đụng nhiều thứ, lại không có những giới luật ngăn cản và bảo hộ, nên những hạt giống của ái dục rất dễ thấm vào lòng mọi người. Do đó, Phật chế ra giới cho người tại gia là không được tà dâm để giúp người Phật tử sống hạnh phúc lứa đôi một vợ, một chồng bằng sự chung thủy một lòng. Đứng về phương diện đó mà nói thì tu tại gia và tu chợ khó hơn tu chùa rất nhiều, vì người tại gia phải tiếp xúc, gặp gỡ thuờng xuyên để giữ mối quan hệ gia đình, bè bạn và giao dịch làm ăn trong xã hội.
Con đường xuất gia vốn là con đường dễ dàng nhất để quý thầy cô có cơ hội chuyển hóa nghiệp tình ái. Tuy nói vậy nhưng con đường chuyển hóa ái dục không đơn giản tí nào. Nếu không biết cách, không quyết tâm dứt khoát xa lìa cội gốc luân hồi, sinh tử thì nó sẽ trở thành con ma lơ lớ làm tổn hại nhiều người hơn, và làm mất đi giống nòi nhân loại; vì cái bệnh nam ái nam, nữ ái nữ mà trong thời đại này rất nhiều người như vậy. Đây là căn bệnh của thế kỷ làm đau đầu thế giới loài người. Nếu ở trong chùa mà như thế thì phá hủy đời người tu. Đây là loại ma của thời hiện đại đang có chiều hướng gia tăng trong rất nhiều chùa. Quý thầy cô nếu không chịu nổi đời sống độc thân để tu hành chuyển hóa ái dục thì cứ ra đời lấy vợ, lấy chồng bình thường; Còn nếu ở trong chùa mà lơ lớ như thế thì tội lỗi biết chừng nào.
Đối với người tại gia, cuộc sống cần có tình yêu thương nam nữ để xây dựng hạnh phúc gia đình, nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng ta mà chế ra giới không tà dâm, sống chung thủy một vợ một chồng để đảm bảo hạnh phúc lứa đôi. Ái không phải chỉ là tình cảm giữa nam và nữ mà nó còn có ý nghĩa khác là lòng nhân ái, là tình yêu thương nhân loại, là tình người trong cuộc sống. Chữ ái không có nghĩa là vướng mắc mà có nghĩa là thương yêu. Chữ dục đứng riêng có nghĩa là khao khát, ham muốn, hay nói gọn lại là thèm khát. Khi hai chữ đứng riêng thì ta rất dễ hiểu, một bên là tình thương (ái) và một bên là ham muốn (dục). Nhưng khi gộp hai chữ lại thành chữ ái dục thì ta hơi khó hiểu, vì trong ái có dục, trong dục có ái.
Đức Phật khuyên dạy người xuất gia hãy nên diệt trừ nguồn gốc ái dục. Ái là yêu thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái, bám víu. Dục là sự ham muốn hưởng thụ dục lạc. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham cầu hưởng thụ mọi sự sung sướng thường tình đối với tất cả chúng sinh trên thế gian này. Trong Kinh Pháp Cú, Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ ái dục là nguồn gốc của mọi sự đau khổ trong đời, là sức mạnh hấp dẫn thúc đẩy con người tìm sự thỏa mãn với nhau bởi lòng ham muốn khoái lạc. Ái dục là cạm bẫy nguy hiểm nhất, vì khi được toại nguyện nó sẽ đem lại cảm giác ngọt ngào, êm dịu, khi được rồi mà thiếu nó thì ta chịu không nổi. Cho nên, một trong hai người vợ hoặc chồng chết hay chia tay thì liền kiếm người khác để thế vô chỗ trống đó. Chính vì vậy, lòng ham muốn ái dục của con người cứ thế mà tăng trưởng theo thời gian, nên không cần ai chỉ dạy mà ta vẫn bị ái dục lôi cuốn, hấp dẫn đến ngớ ngẩn cả người.
Trong nhà Thiền có câu chuyện “con cọp dễ thương”, chắc quý vị ai cũng biết. Thuở xưa, tại một đồi núi hoang vắng có một Thiền sư sống ẩn dật, tu hành nơi đây. Trong lúc hóa duyên, Sư tình cờ gặp đứa bé nằm lăn lóc bên bìa rừng, động lòng thương xót nên Sư đem đứa bé về nuôi dưỡng. Chú bé lớn lên nhờ sự chăm sóc của Thiền sư giàu lòng nhân ái, sống giữa rừng núi hoang vu không một bóng người qua lại. Thấm thoát 18 năm đã trôi qua, chú bé giờ đây đã lớn khôn nhưng chưa bao giờ giáp mặt với con người. Bạn bè chú là những con thú rừng hiền lành như hươu, nai, khỉ, vượn và các loài chim chóc khác. Tâm hồn chú trắng tinh như tờ giấy trắng với thiên nhiên, đồi núi chập chùng, vui vẻ, hài hòa với các loài thú yêu thương, bé bỏng trong rừng sâu. Thiền sư thường nói với chú, “ở trên đời này loài cọp là dữ hơn hết, con chớ nên gần gũi nó, ai lại gần là bị nó nhai cho tan xương, nát thịt”. Chú tiểu cũng hay hỏi chị em nhà hươu, nhà nai trong rừng loài nào là dữ nhất. Cả hai đều đáp “cọp là loài dữ nhất, nó chuyên ăn thịt các loài thú khác để bảo tồn mạng sống. Các loài thú trong rừng chỉ cần nghe hơi và tiếng kêu của nó thôi là sợ đến té đái cả bầy. Anh người hãy nên tránh xa nó ra!”
Một hôm, được tin người bạn đồng tu trong cơn bệnh nặng khó bề qua khỏi, Thiền sư liền quảy túi xuống núi cùng với đệ tử của mình. Chú tiểu chưa bao giờ tiếp xúc với thế giới bên ngoài, hôm nay được dịp chú ngắm nhìn đủ thứ màu sắc với nhiều hình ảnh đẹp trong thế giới con người. Trên đường trở về, hai Thầy trò tình cờ gặp một thiếu nữ tuổi vừa trăng tròn, dáng người thon thả, xinh đẹp làm sao. Chú tiểu ngạc nhiên nhìn dáng vẻ xinh đẹp của người khác phái một cách say sưa, đắm đuối, đôi mắt chú cứ nhìn chăm chăm vào người con gái ấy như lạc vào mê hồn trận của cõi thần tiên. Thiền sư thấy thế bảo chú đệ tử đi nhanh về núi, kẻo trời tối. Chú tiểu ngớ ngẫn cả người ra mà hỏi, “dạ thưa Thầy, đây là con gì vậy?” Thiền sư nhanh miệng nói, “cọp cái đó con, đi lẹ lên con ơi, kẻo cọp xơi bây giờ!”. Hai Thầy trò cũng đã kịp về đến núi trước khi trời vừa tối. Kể từ đêm hôm đó, chú tiểu bắt đầu thao thức, trăn trở mãi không sao ngủ được, chẳng thiết gì đến việc ăn uống. Chú cứ nhớ mãi về hình ảnh con cọp cái đó sao mà dễ thương, xinh đẹp làm sao, nhất là khi cười để lộ hai hàm răng trắng đều như hạt bắp. Bị sự dằn vặc bởi hình ảnh sống động và sức hấp dẫn lạ kỳ đó, chú tiểu không còn chịu nổi nữa vì trong lòng cứ nhớ mãi hình ảnh và bóng dáng đó, nó làm con tim chú rung lên bần bật như muốn vỡ nát ra, chú đành đến thú thật với Thiền sư, “sư phụ ơi, sao con cứ nhớ đến con cọp cái đó quá chừng, thà con tìm gặp nó để nó ăn thịt con cho rồi. Con thà chịu mất mạng mà trong lòng cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng. Từ nhỏ đến giờ, con chưa từng trải qua cảm giác nhớ nhung, thương yêu, trìu mến, lạ lùng đến thế kia. Dạ thưa Sư phụ, con phải làm sao đây?” Chú tiểu kia đã bị tiếng sét ái tình làm rung động cả trái tim ngây thơ, hiền lành, chất phát của thuở nào. Nói đến đây, chúng tôi mới nhớ lại câu chuyện ông Thầy tu và cô gái lái đò. Chuyện đó như sau:
Một hôm, ông Thầy có việc Phật sự nên phải đi qua đò. Khi đến bờ sông bên kia, cô gái đều lấy mọi người chỉ có một đồng, riêng vị Thầy cô ta lấy hai đồng. Ông Thầy mới thắc mắc hỏi, cô gái trả lời “tại Thầy nhìn tôi chăm chăm nên phải trả thêm một đồng”. Ông Thầy hết đường hỏi. Lúc trở về, ông Thầy biết rồi nên không thèm nhìn cô ta nữa mà cứ cúi gầm mặt xuống để coi phen này cô ta có cớ gì để lấy tiền mình thêm hay không. Nhưng lần này, cô ta lại đòi ông Thầy phải trả bốn đồng, gấp đôi số tiền trước. Ông Thầy mới ngạc nhiên và thắc mắc, “lần này tôi đâu có nhìn cô, sao tôi phải trả bốn đồng cơ chứ?” – “Tuy rằng Thầy không trực tiếp nhìn tôi, nhưng trong tâm Thầy nhớ mãi bóng hình của tôi nên phải trả bốn đồng”. Ông Thầy hết đường thắc mắc. Qua câu chuyện này, chúng ta thấy sỡ dĩ con người ta có mặt trong cõi đời này là do sắc dục và chết bởi sắc dục, tái sinh trong lục đạo luân hồi này cũng chỉ vì luyến ái sắc dục mà ra.
Thiền Viện Thường Chiếu bây giờ có trên 200 vị Thầy tu trẻ như thế, ít ra cũng có vài Thầy xin nạp mạng mình cho cọp nhai nát xương chơi. Chú tiểu đó có duyên ở núi tu hành, chưa từng biết người nữ là gì, và cũng chưa từng một lần trò chuyện với người khác phái; ấy thế mà, khi có duyên sự xuống núi cùng Thầy, chỉ một lần thoáng thấy bóng dáng thôi mà đã ngớ ngẫn người ra như kẻ mất hồn. Chính vì vậy, ai dính mắc vào luyến ái, đam mê, tham muốn dục vọng thì không biết chừng nào mới thoát ra được. Một khi đã nói đến sự luyến ái, tức là sự thèm khát và ham muốn về sắc dục, ai trong chúng ta có thể vượt qua được thật là trăm khó, ngàn khó. Đã là con người thật khó có thể thoát ly vĩnh viễn được ái dục, ngoài trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật. Chính vì vậy, Phật đã đưa nhiều hình ảnh thí dụ sống động về tác hại của ái dục mà khuyên người xuất gia phải cố gắng tu học sao cho tốt, phải dùng trí tuệ để chuyển hóa ái dục mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Vậy Phật có yêu thương không? Phật yêu thương còn nhiều hơn chúng ta nữa, nhưng không luyến ái và dính mắc, bởi trái tim của Phật vốn có tình yêu thương chân thật và bình đẳng với tất cả mọi người. Cho nên, ta phải thấy rằng, hễ là con ngườì thì ai cũng có hạt giống của ái dục, nếu không thì ta đâu có bị luân hồi trong cõi này. Trong tình yêu thương lúc nào cũng có gốc rễ của tình dục, vì sự thèm khát và ham muốn nên ta luyến ái, yêu thương, chấp trước, bám víu vào đó để thỏa mãn được khát vọng của mình. Ta tu tập là để chuyển hóa sự luyến ái, ham muốn cho riêng mình thành tình yêu thương chân thật vì tất cả mọi người. Khi ta đã chọn con đường xuất gia là con đường đi ngược lại dòng đời để chuyển hóa sự yêu thương, ích kỷ của riêng mình thì ta phải khép kín lại cánh cửa ái ân để mở rộng tình yêu thương rộng lớn cho tất cả mọi người. Như vậy không có nghĩa ta cho rằng ái ân là một tội ác. Ái ân là tình yêu thương của nhân loại, là lẽ sống của mọi người, nhưng vì ta đã chọn cho mình một con đường để mở rộng tấm lòng nhân ái bằng tình yêu thương chân thật. Như chúng ta đã thấy, con đường thương yêu của Phật không hề bị hệ lụy, khổ đau ràng buộc của tình ái chi phối, con đường này không làm cho ta phiền muộn, khổ đau nhờ ta biết đem lại bình yên, hạnh phúc cho mình và người khác. Sau khi ta khôn ngoan, sáng suốt, lựa chọn con đường của Phật rồi, ta phải đóng kín lại cánh cửa ái ân, mở rộng cánh cửa bình đẳng yêu thương nhân loại. Chúng tôi cũng từng là một chúng sinh si mê vô độ, say đắm luyến ái sắc dục nam nữ như cục nam châm khi gặp sắt. Tuy có duyên xuất gia nhưng vẫn chưa đủ sức làm chủ bản thân mỗi khi gặp người khác phái. Tôi vẫn biết mình còn yếu kém, dở tệ như thế, nên với tâm hổ thẹn trình bày ra đây để chúng ta cùng cảm thông và hiểu cho nhau, cùng nhau ráng cố gắng tu tập nhiều hơn để vượt qua luyến ái buộc ràng mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát.
Khi có một cặp vợ chồng làm lễ cưới, ta thường chúc họ được trăm năm hạnh phúc, như vậy hạnh phúc chính là mục đích của hôn nhân. Cho nên, vấn đề hạnh phúc trong hôn nhân là nhu cầu thiết yếu của một đời người. Ai cũng biết gia đình là nền tảng của xã hội và đời sống vợ chồng là nền tảng của hạnh phúc gia đình. Đời sống hôn nhân sẽ rất phức tạp nếu không có những điểm chung, nhất là những điểm không chung ấy thuộc về phẩm chất tâm lý thì nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình rất cao. Sự đồng tâm cùng chung một chí hướng hay một lý tưởng nào đó sẽ đưa đến hiệp lực, nhất là cả hai cùng là Phật tử, nhờ vậy ta dễ dàng vượt qua những khó khăn trong cuộc đời vì đã tin sâu nhân quả. Đời sống vợ chồng nếu không đặt mình vào những bổn phận và trách nhiệm rõ ràng thì sẽ rất khó giữ gìn được tình yêu lâu bền. Bởi vì sao? Sống với nhau là để yêu thương, lo lắng, san sẻ cho nhau, và còn có trách nhiệm nuôi dạy con cái và đóng góp lợi ích cho xã hội, chứ không phải lấy nhau chỉ để hưởng thụ dục lạc ích kỷ cho riêng mình.
Trong tình yêu lứa đôi, yếu tố chung thủy được coi là quan trọng nhất trong cuộc sống hôn nhân; có thể nói, đây nền tảng luân lý đạo đức chuẩn mực chỉ có trong những người đã ý thức trách nhiệm và tin sâu nhân quả. Có một lời nói mà chúng tôi cảm thấy thương tâm, đó là “phía sau sự thành công của người chồng có bóng dáng của người vợ - Phía sau những bi kịch của một người đàn ông có bóng dáng của một người đàn bà”. Cuộc sống trong thời văn minh hiện đại dễ làm con người đổ vỡ hạnh phúc nhiều hơn, bởi áp lực của cuộc sống với bộn bề công việc và sự tự do quá mức trong tiếp xúc, quan hệ nam nữ. Xây dựng cuộc sống hạnh phúc gia đình bằng những lời Phật dạy có nghĩa là chồng và vợ phải có ý thức bình đẳng, tôn trọng nhau, chung thủy một vợ một chồng, biết cảm thông và tha thứ cho nhau, và có trách nhiệm nuôi dạy con cái đàng hoàng. Có những cặp vợ chồng bề ngoài rất vui vẻ, hạnh phúc, nhưng bên trong họ đang khốn khổ vô cùng. Họ chỉ sống giả tạo với nhau để che mắt thiên hạ. Hạnh phúc gia đình thật sự chỉ có mặt khi nó đến từ lòng vị tha và có sự cảm thông sâu sắc giữa hai người.
Đức Phật dạy, một người vợ lý tưởng hay một người chồng đạo đức là hai người biết thể hiện tình yêu thương của mình trong bốn vai trò đối với nhau. Một là coi chồng hoặc vợ như người mẹ, người cha của mình thương yêu con cái không giới hạn, trải lòng bao dung, hy sinh tất cả cho con. Người chồng hoặc vợ không phải khi nào cũng làm tốt hết mọi công việc trong nhà và ở ngoài xã hội. Có những lúc quá nhiều khó khăn, trắc trở, người chồng hay vợ cũng suy sụp tinh thần lẫn thể xác. Lúc ấy, vai trò của hai người phải thay đổi qua vai trò của người mẹ hoặc người cha biết hy sinh quên mình, lo lắng, an ủi, vỗ về, động viên nhau. Hai là coi chồng hoặc vợ như người em luôn kính trọng anh chị, biết lắng nghe và phục vụ với thái độ ôn hòa, coi trọng những ý muốn của anh chị mình. Một trong hai người lúc này đóng vai một người cộng sự biết chia sẻ và hợp tác làm cho người chồng hoặc vợ cảm thấy an tâm và tin tưởng. Ba là coi chồng hoặc vợ như người bạn thân, nghĩa là vui vẻ, hân hoan đối với chồng hoặc vợ, thể hiện sự duyên dáng, dịu hiền và một chút tình tứ làm cho người chồng hoặc vợ cảm thấy hứng thú và yêu đời. Bốn là coi chồng hoặc vợ như người đầy tớ, trong hai người gặp lúc mất bình tĩnh trong cơn nóng giận có thể chửi mắng nặng lời, có thể thượng chân hạ cẳng, người chồng hoặc vợ phải biết nhường nhịn lẫn nhau, ví như mình là một đầy tớ bị chủ nói hoặc rầy la vẫn vui vẻ, không buồn giận. Nếu được như vậy sẽ giúp cho hai người vượt qua những khó khăn, bất trắc trong cuộc đời và sẽ có được một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc thật sự.
Tuổi trẻ trong thời đại ngày hôm nay đang đối mặt với sự khủng hoảng về đời sống hôn nhân, họ chưa đủ kinh nghiệm để bước vào đời sống vợ chồng. Trước những tấm gương đổ vỡ hôn nhân làm cho giới trẻ thiết tha tìm lối thoát, ngày càng nhiều thanh niên quan tâm học hỏi về nghệ thuật sống, về kỷ năng giữ gìn hạnh phúc lứa đôi, cũng như xin được làm lễ hằng thuận trong chùa là những bằng chứng thiết thực. Đạo Phật vốn là đạo giác ngộ, giải thoát, muốn vậy ta phải đoạn trừ tâm luyến ái và lòng ham muốn hưởng thụ vật chất, cũng như tình dục, là mục đích của sự tu tập chuyển hóa nhằm giúp con người thoát khỏi ái dục. Ngày xưa, đạo Phật không thiết lập chương trình lễ thành hôn cho nam nữ Phật tử. Ngày hôm nay, chúng tôi tin rằng, những cặp vợ chồng được làm lễ hằng thuận trước sự chứng minh của Tam bảo với những lời cầu nguyện và chỉ dạy của chư Tăng sẽ là nguồn động viên, giúp đỡ chúng ta tin sâu nhân quả và cùng nhau sống tốt hơn nhờ gìn giữ năm điều đạo đức, trong đó có giới sống chung thủy một vợ một chồng.
Như chúng ta đã biết, lòng ái dục nặng nên chúng ta mới sinh trong cõi Ta bà, nên khi niệm Phật ta phải nhất tâm mới được về Cực lạc. Người tu Thiền phải buông xả từng vọng niệm mới làm chủ được bản thân. Sắc dục không phải là làn sóng dữ nhưng dễ dàng nhận chìm biết bao người tài hoa. Chúng ta phải nên biết, khi vô thường đến thì tất cả vợ chồng, con cái, mỗi người đều theo nghiệp đã tạo mà đi; dù cho có lưu luyến, khóc than, tiếc nuối, nhưng nghiệp ai tạo ra đều riêng mình nhận lấy. Tham ái là tình cảm thương yêu giữa nam và nữ, nên thế gian lớn lên thường khiến người ta tiến đến hôn nhân và tình dục. Đây là bản năng mạnh thứ hai so với bản năng sinh tồn của con người.
Sống trên đời này, chúng ta bị nghiệp quá khứ cũng như bản năng nơi chính mình thúc đẩy tìm đến tình yêu đôi lứa với người khác phái, để rồi từ tình yêu đôi lứa đó chúng ta tiến đến hôn nhân và tình dục. Tuy nhiên, đối với người xuất gia thì không được phép nhiễm vào tham luyến ái ân.
Như chúng ta đã biết, tình yêu là điều không thể định nghĩa được. Con người chỉ có thể nhận thấy biểu hiện của nó và dựa vào đó để biết rằng mình đã yêu. Đối với những lớp tình cảm còn nằm sâu trong vô thức, chúng ta lại càng không thể dùng tâm để điễn tả được mà chỉ có cảm nhận qua thực tế. Tình yêu muôn đời vẫn là cái gì đó vô cùng bí ẩn mà con người không thể cắt nghĩa được, không thể hiểu hết được. Tình cảm con người là như vậy, phức tạp và bí ẩn. Tuy nhiên, một điều lạ là tuy không định nghĩa được, chỉ cảm nhận thôi nhưng nó lại mạnh hơn ý thức. Phải chăng, cái gì càng hướng về chiều sâu thì càng có sức mạnh hơn những cái xuất hiện trên bề mặt? Trong thực tế, có những mối tình ngang trái, thậm chí vô lý, mà người ta vẫn lao vào bất chấp danh dự, bất chấp sự nghiệp, bất chấp tương lai, bất chấp sự ngăn cản của mọi người để đến với nhau. Chẳng hạn như một cô gái xinh đẹp, con nhà giàu lại đi thương một anh chàng không nghề nghiệp, không đạo đức, chỉ biết chơi bời lêu lỏng. Mặc dù gia đình ngăn cấm, tình yêu của họ vẫn ngày càng cháy bỏng. Đó là tình yêu rất kỳ khôi, theo lẽ thường không thể chấp nhận được, nhưng họ vẫn cứ yêu, không lý lẽ nào có thể giải thích được.
Tại sao như vậy? Vì tình yêu luôn luôn mạnh hơn lý trí. Người ta vẫn thường nói “con tim có những lý lẽ mà lý trí không hiểu nổi”. Đúng như vậy! Sức mạnh của tình yêu vượt lên những lý lẽ thường tình. Chính vì tình cảm có sức mạnh đáng sợ như vậy nên người xuất gia chúng ta phải biết đề phòng. Bây giờ, ta đang sống trong môi trường với đại chúng, với giới luật, được quý Thầy lớn và huynh đệ bảo bọc, chúng ta cảm thấy bình yên, nhưng đây chỉ là sự bình yên tạm thời; một ngày nào đó, khi ra làm Phật sự, chúng ta sẽ đối diện với không ít những thử thách, có khi có cả sự thử thách của tình ái. Nếu không đề phòng, không cẩn thận, nó sẵn sàng đẩy chúng ta vượt ra ngoài khuôn phép. Do đó, chúng ta phải có sự hiểu biết về tình yêu, hiểu được sức mạnh cũng như nguyên nhân của nó để có phương pháp hóa giải và vượt qua.
Sở dĩ tình cảm có sức mạnh ghê gớm như vậy vì nó thuộc bản năng, tức là thói quen muôn đời của con người. Bản năng sinh tồn là sức mạnh tiềm tàng, sâu kín trong con người, buộc con người phải duy trì sự sống. Bản năng mạnh thứ hai là bản năng hưởng thụ, là khuynh hướng thôi thúc con người đi tìm hạnh phúc, và trong những vấn đề mà con người gọi là hạnh phúc ấy có tình yêu. Tình yêu cũng là một loại hạnh phúc, vì trong cuộc sống con người luôn khao khát được thương yêu, trìu mến. Đôi khi vì thất vọng trong tình yêu mà con người phải tự tử, phải hủy hoại sự sống của mình. Thực tế đã cho thấy điều này, không ít những chàng trai, cô gái vì thất vọng trong tình yêu đã uống thuốc độc hoặc nhảy xuống sông tự tử. Tình yêu có sức mạnh thật khủng khiếp. Tình yêu mạnh hơn cả cái chết. Với không ít người, tình yêu chính là sự sống. Vì vậy, khi đã thất bại trong tình yêu, họ sẽ vô cùng đau khổ và sự sống với họ lúc ấy không còn ý nghĩa gì nữa.
Ở người nam có nội tiết tố nam là Testosterone. Người nữ có nội tiết tố nữ là Estrogen. Khi đến tuổi trưởng thành, những tuyến nội tiết của người nam và người nữ sẽ tiết ra hai nội tiết tố này, tạo thành trạng thái tâm lý đặc biệt để người nam đi tìm người nữ và người nữ chờ đợi người nam. Đó là lý do vì sao khi lớn lên, con người lại phải yêu thương nhau. Vậy làm sao con người biết được mình đang yêu hay đang rung động vì tình yêu? Tình yêu là loại tình cảm đặc biệt mà chúng ta chỉ có thể gọi tên chứ không định nghĩa được. Nhưng dựa vào bốn biểu hiện của tình cảm, con người có thể biết được mình đang yêu và đã yêu. Thứ nhất, khi gặp người ấy chúng ta cảm thấy lòng hân hoan, vui sướng. Thứ hai, khi xa người ấy chúng ta thấy cảm thấy buồn nhớ và luôn nghĩ về họ. Thứ ba,chúng ta luôn muốn giúp đỡ người ấy tất cả về mọi phương diện. Thứ tư, do muốn chiếm hữu cho riêng mình nên ta ích kỷ, chỉ muốn người đó thuộc về ta. Nếu thấy trong tim xuất hiện bốn hiện tượng này, chúng ta biết rằng mình đã và đang yêu, ta hãy nên cố gắng mà tìm cách vượt qua.
Trong tình yêu, ngoài nguyên nhân chính thuộc về sinh lý còn do nghiệp duyên từ quá khứ chiêu cảm. Vì duyên nợ ân nghĩa quá khứ nên khiến hai người gặp nhau kết đôi trong đời sống hôn nhân. Khi thương yêu ai, chúng ta phải hiểu rằng giữa mình và người ấy đã có mối quan hệ từ quá khứ. Chỉ với đời sống vợ chồng, con người mới lo lắng, chăm sóc, giúp đỡ nhau suốt năm này qua năm khác để yêu thương và trả nợ nhau. Nếu nợ quá khứ không nhiều, ơn nghĩa quá khứ không nhiều, nhưng có duyên, con người vẫn có tình thương yêu trong một thời gian ngắn. Trong tình yêu, nếu để ý chúng ta sẽ thấy ai mắc nợ nhiều sẽ thương người kia nhiều hơn. Với con người, thương yêu và được yêu thương là một niềm hạnh phúc lớn lao. Tất nhiên, hạnh phúc chỉ đến trong buổi ban đầu, về lâu dài tình yêu sẽ làm cho con người đau khổ. Vì sao? Vì thương mà không được gần nhau cho nên khổ, vì ghét mà gặp nhau hoài cho nên khổ, vì mong muốn mà không được như ý cho nên khổ. Do đó, luyến ái dục vọng trong tình yêu giống như người khát nước mà uống nước muối, càng uống càng khát. Trong các thứ luyến ái dính mắc vào ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, mặc ấm, đều không bằng luyến ái nam nữ, nó như là cục nam châm gặp sắt liền hút.
Con người ta sống bởi sắc dục, chết bởi sắc dục và chết đi sống lại trong ba cõi sáu đường cũng vì sắc dục. Người xuất gia phải xa lìa ái dục để thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát, nên phải đi ngược lại dòng đời. Người cư sĩ chuyển hóa ái dục bằng cách sống chung thủy một vợ, một chồng và biết tiết chế trong đời sống tình dục, nhờ vậy tâm luyến ái cũng có phần suy giảm.
QUÁN THÂN BẤT TỊNHĐỂ TRỪ TÂM THAM LUYẾN ÁI DỤC.
Trong thế gian này, ai cũng tham sống sợ chết. Sự tham sống của con người vô cùng mãnh liệt, vì nó được tiếp nối từ vô thỉ kiếp cho đến nay. Vì tham sống nên chúng ta tìm đủ mọi cách để được sống, vì tham sống nên con người ta bất chấp mọi thủ đoạn đê hèn, dã man và tàn nhẫn nhất để duy trì mạng sống của chính mình. Tóm lại, tham sống sợ chết là không của riêng ai, kể cả các loài vật khác. Con người càng tham sống bao nhiêu thì lại càng sợ chết bấy nhiêu, mà đã sợ thì không dám dùng từ “chết”, cho nên dùng từ “mất”, “qua đời” hoặc “vãng sanh”.
"Bất tịnh" nghĩa là không sạch sẽ, trong lành. Quán bất tịnh tức là quán sát một cách tỷ mỉ, cùng tột thân con người, để nhận thấy và biết rõ ràng thân này không trong sạch. Đối với tất cả mọi người thì "quán thây ma" như thế chưa phải là phương thuốc mầu nhiệm để chúng ta nhàm chán cái thể xác của mình và của người khác. Muốn nhàm chán, ghê tởm cái thể xác nhơ nhớp này thì ta phải thấy tận mắt cái "bất tịnh" của nó từ khi nó bắt đầu thành hình cho đến khi nó bị hủy hoại.
1. Quán chủng tử bất tịnh:
Chủng tử là hạt giống, là yếu tố hay nguyên nhân để phát sinh ra thân này. Hạt giống của thân này gồm có hai phần: Phần tinh thần và phần vật chất. Phần tinh thần hay còn gọi là thần thức. Nó là chủ nhân ông của bao điều họa phúc trong hiện tại và mai sau. Thần thức này hòa hợp cùng tinh cha, huyết mẹ để có một đời sống kế tiếp sau khi chết. Trong khi quán, hành giả phải vận dụng, tập trung ý lực mạnh mẽ để tưởng tượng một cách rõ ràng như thấy trước tất cả hạt giống bất tịnh, để nhàm chán thân người, dẹp lòng tham đắm, luyến ái xác thân này.
2. Quán bào thai bất tịnh trong bụng mẹ:
Cái bào thai không nói ai cũng biết là một cái bọc chứa đầy máu nhớt hôi tanh, dơ bẩn. Cái bào thai nằm lẫn lộn và lớn dần trong cái bọc bé nhỏ, dơ bẩn ấy, giống như trong lỗ cầu xí vậy; nhưng trong chỗ ấy, dù sao cũng còn có khoảng trống để xê dịch, còn có cửa thông hơi để ánh sáng và không khí lọt vào; còn trong bào thai thì cái thai phải nằm co rút lại, đẫm mình trong những chất nước, máu và nhớt vô cùng tanh hôi, và không có được một chút không khí hay ánh sáng mặt trời lọt vào. Cái thai phải sống trong hoàn cảnh ấy không phải chỉ một ngày, một tuần hay một tháng, mà phải đến chín tháng mười ngày mới thoát ra được. Vậy quán bào thai bất tịnh có nghĩa là vận dụng toàn lực ý niệm để nhận chân một cách rõ ràng như thấy trước mắt cái dơ bẩn, cái bất tịnh của bào thai là chỗ ở nhơ nhớp, hầu dẹp lòng rạo rực ham muốn, tham đắm sắc thân người.
3. Quán hình tướng bất tịnh:
Sau khi đứa bé chào đời có đầy đủ giác quan để tiếp xúc với ngoại cảnh, có đủ bộ phận cần thiết để điều hòa cuộc sống thể xác của mình, những giác quan bên ngoài và bộ phận bên trong ấy thường bài tiết ra những chất dơ bẩn, hôi hám; do đó, ta biết cái thân này không trong sạch; ngoài ra còn có chín lỗ tiết ra các chất không trong sạch như đường đại tiện thải phân ra hôi thúi, đường tiểu khai hôi, còn miệng nếu không súc rữa sẽ hôi dơ, hai lỗ tai tiết ra chất gọi là cức rái, hai lỗ mũi tiết ra chất gọi là cức mũi và hai con mắt tiết ra ghèn. Chín lỗ này chẳng khác gì chín "cái cống", lớn có, nhỏ có, để chứa những thứ nhơ nhớp. Khi thân xác này còn mạnh khỏe thì ta có thể làm vệ sinh sạch sẽ, nhưng đến lúc bệnh hoạn, già nua, ta không còn làm chủ được nữa thì những lỗ ấy tự động xuất ra các thứ dơ bẩn ấy. Do đó, mỗi hành giả muốn thành công và nhàm chán cái thân này thì phải thường xuyên quán tưởng để thấy sự nhơ bẩn của nó, nhờ vậy sinh tâm nhàm chán mà không tham đắm, luyến ái thân này.
4. Quán tự thể bất tịnh:
Quán tự thể bất tịnh là quán sát cái thể chất của thân người để nhận thấy rõ sự bất tịnh của nó như thế nào. Về chất cứng như xương, tóc, lông, móng tay. Chất lỏng như máu, nước miếng, nước mắt. Chất sệt như mỡ, óc, tủy. Trong các chất ấy, dù cứng hay lỏng cũng chẳng có thứ nào là trong sạch cả. Về chất cứng như tóc của chúng ta nằm trên đầu thì ai cũng quý nó hết; nhưng nếu ta không tắm rữa, gội đầu thường xuyên hoặc chải chuốt, chăm sóc hằng ngày thì lâu ngày nó trở nên hôi dơ, bẩn thỉu, không một ai dám đứng gần. Tóc là thứ ở nơi cao quý của con người mà còn bất tịnh như vậy thì những thứ khác như ruột, gan, phèo phổi lại còn bất tịnh biết chừng nào? Về chất lỏng thì nước miếng là sạch nhất, vì nó được ở trong miệng là nơi hằng ngày được lau chùi, súc rửa nhiều nhất. Thế mà lúc ra khỏi miệng, dù là của kẻ khác hay của chính mình rủi mà bị dính vào mặt, vào áo, thì ta liền có thái độ cùng những cử chỉ tỏ rõ sự nhờm gớm ngay. Về chất sệt thì não là phần quan trọng vì được ở trong đầu óc là nơi cao quý nhất. Nhưng thử tưởng tượng mà xem, khi chúng ta đi xe hơi mà rủi có bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta bị bể đầu, não trắng như đậu hủ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những người thiếu bình tĩnh sẽ chết ngất vì ghê tởm.
5. Quán bất tịnh sau khi chết:
Đây là thời kỳ chung cuộc của mấy mươi năm sinh tồn của thân này. Phật dạy, “thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp lại mà thành; đến khi chết, xác con người phải trả về cho tứ đại. Trước hết là hơi thở về với phong đại. Kế đến là hơi ấm về với hỏa đại. Tiếp theo là chất lỏng trong người về với thủy đại, và cuối cùng chất cứng như thịt, xương cũng trở về địa đại. Nói một cách tổng quát, từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ giàu đến người nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai ai đến giai đoạn chung cuộc này cũng chỉ với một xác chết sình thúi.
Nói tóm lại, mỗi hành giả phải quán sát qua năm giai đoạn bất tịnh, nhờ vậy chúng ta thấy rõ bản chất của thân này là bất tịnh, nhơ nhớp, nên không tham đắm, dính mắc thân này là ta, là của ta; do đó thành tựu được thân vô ngã. Ta quán thân này bất tịnh để mỗi hành giả không bị tham đắm, dính mắc vào xác thân hư giả này, nhờ vậy ta phá được ngã chấp, chấp thân này là mình thiệt. Sau khi thành tựu pháp quán bất tịnh, hành giả cảm thấy nhờm gớm thân này nên nảy sinh tư tưởng chán chường, không muốn giữ thân này lâu dài nữa. Một số Thầy Tỳ kheo sau khi quán pháp bất tịnh thành công đã mướn người giết mình. Phật giáo hóa ở cõi Trời về thấy vắng một số Thầy Tỳ kheo nên mới hỏi Ngài A Nan vì sao lại thế. Ngài A Nan kể lại sự việc như thế. Phật bảo, “ta dạy pháp quán bất tịnh để quý Thầy không luyến ái, dính mắc vào sắc thân mà dễ dàng buông xả. Sau khi thành tựu pháp bất tịnh, quý Thầy phải quán tịnh trở lại để nhận ra thể tánh thanh tịnh, sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế mà thành tựu Phật đạo”.
Ái có nghĩa là luyến mến, yêu thương, thuộc về tình cảm. Dục là ham muốn, thuộc về thể xác. Ái bao gồm đủ loại tình cảm: yêu, thương, nhớ, mến, ưa, ghét, giận, hờn, buồn, lo,… Dục gồm có ngũ dục hay lục dục. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của con người: Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần: Mắt thích nhìn sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh dễ chịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm món ngon vật lạ, thân thích xúc chạm da thịt êm ái, ý thích nghĩ tới cái gì thỏa mãn sự thèm khát và mong muốn của mình. Phần đông đa số người nữ đều thích tình cảm luyến ái; đàn ông thì mong muốn, ham thích tình dục một cách mạnh mẽ. Một bên cần tình ái, một bên cần tình dục, hai bên hợp lại nhau thì say mê, chìm đắm trong hoan lạc.
Nhiều người tu theo đạo Phật muốn giác ngộ giải thoát để chấm dứt phiền muộn, khổ đau, nhưng lại không chịu từ bỏ tình cảm luyến ái dục vọng. Đây là điều hết sức mâu thuẫn, một mặt thì ta tạo thêm tình cảm luyến ái, một mặt thì ta lại muốn chấm dứt khổ đau. Tại sao chúng ta cần phải từ bỏ ái dục? Vì ái dục là nguyên nhân dẫn chúng ta luân hồi mãi trong vòng sinh tử khổ đau. Người Phật tử tại gia muốn từ bỏ ái dục thì phải làm sao? Ta chỉ cần giữ giới chung thủy một vợ, một chồng với nhau, và biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục là tốt lắm rồi. Từ đó, cả hai vợ chồng cùng học đạo, hiểu đạo và trở thành bạn đạo, khuyến khích nhau tu hành để được giải thoát sinh tử, khổ đau; giống như hai vợ chồng Ngài Ma Ha Ca Diếp khi xưa, tuy lấy nhau nhưng không ân ái; cuối cùng, hai người cùng phát tâm xuất gia tu hành và chứng quả A-la-hán. Ngoài ra, chúng ta có thể quán thêm về sự tai hại của sắc dục như liếm mật ngọt trên lưỡi dao bén, như khát uống nước muối, như chó gặm xương khô… Có người dùng dao nhúng vào lọ mật để lấy ra phết vào bánh mì, phết xong trên con dao còn dính lại chút mật, họ thè lưỡi ra liếm chỗ mật còn xót lại đó; mật tuy ngon ngọt nhưng vừa liếm xong là đứt lưỡi. Vị ngọt hưởng chưa tới một giây mà họ phải chịu đau vì đứt lưỡi. Như người đi trên biển khát nước bèn múc nước biển mà uống, càng uống thì càng khát, lại càng khô khốc cổ họng, có khi bị chết khát vì mặn. Có người vứt cho con chó một khúc xương khô không còn dính chút thịt nào, con chó không biết nên cố gặm tới gặm lui, rách răng chảy máu mà lại tưởng máu từ miếng xương khô nên lại ráng gặm nữa, càng gặm càng đói, càng thèm càng chảy máu răng.
Sắc dục cũng lại như thế! Nó không bao giờ làm cho ta thỏa mãn, càng ân ái thì lòng dục càng tăng trưởng, càng thích thú lại càng thèm khát tìm kiếm, cuối cùng không làm chủ được bản thân mà dính vào tội tà dâm hoặc hiếp dâm. Hậu quả hiện đời là gia đình tan nát, hoặc bị tù tội, giam cầm khổ sở. Trong đời sau có thể bị đọa lạc vào các loài súc sinh như chim sẻ, chim bồ câu chẳng hạn để thoả mãn thú tính.
Sửa bản in: Thanh Phi - Thanh Hạnh