48 TỌA ĐÀM KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tác Giả: Cư Sĩ
Diệu Âm (Úc Châu)
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 37
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Ngày hôm nay chúng ta đi hộ niệm, tất cả mọi người đều ngỡ ngàng! Thứ bảy tuần trước là lần đầu tiên chúng ta đi gặp người bệnh, mình tha thiết khuyên Cụ đó hãy ráng cố gắng niệm sáng năm chuỗi, trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi, là chỉ có mười lăm chuỗi trong một ngày. Đây chẳng qua là để khởi đầu cho chương trình hộ niệm của mình, nhưng mà Cụ không chịu niệm, lại còn lý luận rằng:
- Tu là tôi không có ăn gian trái cà, trái ớt là được.
Ngày hôm nay khi mình đến thì ngỡ ngàng là vị đó đã nằm trong nhà quàn hai ngày rồi. Thực sự đời quá vô thường! A-Di-Đà Phật Ngài phát đại thệ cứu độ tất cả chúng sanh không bỏ một người nào hết, nhưng có nhiều người đành phải chịu số phận hẩm hiu! Tức là bị đọa lạc! Tất cả đều do “Duyên bất đồng”. Nói những lời này, nếu hương linh người đó nghe được thì coi đây là những lời nói cho hương linh đó luôn. Trong vòng 49 ngày cũng có khả năng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, nhưng mà phải...
- Tự mình giác ngộ.
- Tự mình phát khởi niềm tin.
- Tự mình niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thì A-Di-Đà Phật mới cứu độ được!...
Còn nếu...
- Tự mình không chịu niệm câu A-Di-Đà Phật.
- Tự mình không tin.
- Tự mình đi con đường nào khác, thì thôi!... Ngài cũng không có cách nào tiếp độ mình.
Chính vì vậy, khi tu hành xin chư vị hãy nhớ phải tu có đường, đi có hướng đàng hoàng. Không nên đi lập lững, đi lờ mờ. Chúng ta đã tới đây niệm Phật hàng ngày, ngày ngày chúng ta được giảng về con đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc là ta phải có cái đường đi, ta phải có nước bước đàng hoàng, cụ thể. Không thể nào định nghĩa, tu hành là không ăn gian trái ớt, không ăn gian trái cà là tu.Tu như vậy, dù có tu tới vô lượng kiếp cũng không được vãng sanh.
Ôi!... Đây cũng là cái duyên của từng cá nhân chứ không biết làm sao!...
Nói tới đây thì tôi trực nhớ tới một chuyện vãng sanh ở Việt Nam. Vào năm 2005 khi tôi về thì gặp một người bị bệnh gan cũng giống như vị này. Nhưng vị đó thì nằm trên giường không cất tay lên nổi, đã biết chắc rằng mình sẽ chết. Còn vị ở tại đây thì còn đi nhổ cỏ được, còn làm vườn được, còn nói chuyện leo lẻo. Không ai nghĩ rằng trong vòng ba bốn tháng hay là một năm lại có thể ra đi. Ấy thế mà chỉ khoảng ba ngày sau!... Còn vị ở Việt Nam thì mắc bệnh lúc chưa biết tu, chưa có pháp danh, cả gia đình cũng chưa có ai có pháp danh hết. Ấy thế mà khi gặp trong tình trạng như vậy, chúng tôi mới khuyên vị đó phát tâm niệm Phật. Vị đó hỏi:
- Tôi được vãng sanh không?
Chính tôi đứng bên cạnh nói…
- Chắc chắc được, quyết tâm đi.
Vị đó phát khởi tâm liền, lập tức niệm Phật. Tôi chỉ hộ niệm cho vị đó ba ngày rồi đi về Úc, chứ tôi không có tiếp tục hộ niệm. Nhưng về Úc rồi thì ngày ngày vẫn liên lạc về để hướng dẫn cho những người bên cạnh vị đó hộ niệm. Đúng mười một ngày sau, vị đó ra đi với thân tướng bất khả tư nghì. Chính cái hình tướng của vị đó đã khởi lên một phong trào hộ niệm rầm rộ ở Sài-Gòn vào năm 2005. Thực ra trong lúc hộ niệm ở đó có một vị Thầy tới hộ niệm. Nhờ Thầy đó quảng bá ra cho nên việc hộ niệm từ đó được phát triển mạnh mẽ và ào ào lên.
Rõ ràng tất cả đều do duyên mà thôi. Cũng là một người như vậy mình tới khuyên một câu người ta quyết tâm liền. Ban đầu câu “Nam Mô A-Di-Đà Phật”mà nói không nổi. Một câu Phật hiệu mà niệm thành ba lần:
- Nam-Mô... hề... hề... hề... A-Di... hề... hề... hề... Đà Phật.
Sáu chữ mà niệm tới ba lần, vậy mà cũng ráng niệm. Nhưng nhờ mình động viên tinh thần lên, sau đó còn niệm nhanh hơn mình nữa, ấy thế mà người ta vãng sanh. Trong khi ở đây thì bà Cụ có thể nói chuyện còn nhanh hơn mình, còn cãi lý được với mình nữa. Nghĩa là nói leo lẻo, không ngờ ba ngày sau đã trở nên người thiên cổ. Cho nên, vô thường thực ra nó đến bất cứ lúc nào. Mình đã đến đạo tràng này, cái duyên vãng sanh Tây Phương thực ra nó nằm trước mũi bàn chân của mình đó. Chỉ có chính mình đánh mất tất cả cái cơ hội vãng sanh của chính mình mà thôi.
- Trong pháp hộ niệm nó chỉ có ba điểm:Tín-Nguyện-Hạnh.
- Trong pháp niệm Phật, Phật chỉ yêu cầu chúng ta:Tín-Nguyện-Hạnh.
Chữ “Tín” này nó khởi đầu tất cả. Tương lai giải thoát hay đọa lạc đều do chữ “Tín” này. Tín tâm vững mình nhất định giải thoát. Tín tâm không vững nhất định mình bị đọa lạc!Tất cả đều do tín tâm có hay không.
Tôi biết chắc chắn có nhiều người khi gặp pháp môn niệm Phật vẫn nói câu này:
- Khó lắm chị ơi! Khó lắm bác ơi! Làm gì mà dễ dàng như vậy?
Khi nói lên một câu này, chứng tỏ niềm tin quá ư bạc nhược! Tại sao vậy? Tại vì nghiệp chướng còn quá nặng! Đã quá nặng như vậy mà không chịu phát khởi niềm tin nữa, thì đành phải chịu nạn thôi!...
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.Vì không có Tín nên không có khả năng trưởng dưỡng Thiện căn.
- Tín vi đạo nguyên công đức mẫu.Tín là mẹ đẻ ra công đức, đẻ ra phước đức. Vì không tin cho nên tu gì tu vẫn bị nghiệp chướng bao phủ cho đến lúc nằm xuống bị đọa lạc mà không hay!
Khi gặp được những trường hợp như thế này là thêm một kinh nghiệm. Mình đi hộ niệm, một lần hộ niệm như vậy tự nhiên nó có một bài pháp cho mình. Quý vị đã thấy rõ bà Cụ mình hộ niệm hôm nay chưa? Mình tới năn nỉ, đưa giấy tờ về hộ niệm đàng hoàng, rồi nói:
- Bây giờ cố gắng một tuần đầu nghe Cụ, niệm cho con một ngày mười lăm chuỗi thôi.
Mười lăm chuỗi có gì đâu mà niệm không được? Thế mà không chịu niệm. Mình định đến tuần thứ hai thì khuyên tăng lên ba chục chuỗi mỗi ngày. Tức là mình mớm lần, mớm lần. Nhưng mà không chịu niệm. Cứ lý luận:
- Trái cà tôi không lượm, trái ớt tôi không ăn gian là đủ rồi.
Cứ nói lòng vòng những chuyện như vậy. Đây là gì? Rõ ràng đường tu không vững! Quá mê mờ trong đường tu hành để cuối cùng ba ngày sau bị đọa lạc!...
Rõ rệt, đọa lạc hay cực lạc nằm ngay trong cái tâm này chứ không phải ở ngoài. Cũng là một người nghiệp chướng sâu nặng như vậy, vừa nghe được câu A-Di-Đà Phật, trực ngộ liền, giác ngộ liền.
- Bây giờ tôi quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật.
Phát khởi tín tâm. Tín tâm nằm ở trong tâm này ra chứ đâu phải ở ngoài vào? Vậy mà không chịu niệm để sau cùng đành chịu ách nạn!!!...
Phật dạy “Nhân thân nan đắc”!Đừng nghĩ rằng khi xả báo thân này thì lượm lại được thân người. Không phải dễ đâu à! Trong những lần trước chắc chắn quý vị đã nghe qua, Hòa Thượng Tịnh-Không nói, khi một người xả báo thân mà lượm lại được thân người, thì cái thân người chết đó cũng phải mềm mại, phải tươi vui. Tức là được trở về trong tam thiện đạo cũng được như vậy. Mình cứ đi tìm hiểu sẽ rõ, một ngàn người chết, người nào được tình trạng này? Không dễ gì có đâu à. Ấy thế, một câu A-Di-Đà Phật đưa ta về tới Tây Phương Cực Lạc mà nhiều người gặp được cơ hội này lại không chịu tin...
- Chần chờ không chịu hạ thủ công phu.
- Chần chờ không chịu quyết tâm niệm Phật.
- Đã không chịu niệm Phật rồi, mà còn gieo nghi ngờ cho những người khác nữa. Đây là một điều sai lầm, tội lỗi!...
Diệu Âm thường nói rằng, khi đến một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh tu hành, nhất định chúng ta phải có từng phút giật mình! Một lần đi hộ niệm là một lần giật mình! Điều chứng minh rằng, cả ngày hôm nay ai ai cũng giật mình hết. Một bà Cụ còn nói chuyện leo lẻo, đi còn nhanh hơn mình nữa, làm vườn còn ngon hơn mình nữa. Đang nhổ cỏ thì thấy mệt mệt, đưa vô bệnh viện, các con chưa kịp nói: Má sao rồi má?Cụ ra sao rồi cụ?...thì đã chết rồi...
Cái chết này có đưa tới chỗ giải thoát không?... Chắc chắn không! Nói những lời này, nếu mà vị hương linh đó có ở đây, nghe những lời này thì hãy giật mình đi. Chỉ cần một niệm “Hồi Đầu” thì “Thị Ngạn”. Hồi đầu ngay lúc nào? Lúc nào cũng được. Trong vòng 49 ngày còn có khả năng hồi đầu mà. Niệm câu A-Di-Đà Phật quyết lòng cầu về Tây Phương. A-Di-Đà Phật quyết thệ, người nào niệm danh hiệu Ngài mười câu cầu vãng sanh mà Ngài không cứu độ về Tây Phương để một đời giải thoát, Ngài không thành Phật. Ấy thế mà chúng sanh không chịu nghe. Vị đó cũng muốn niệm mà chần chừ. Nghe nói đến mười lăm chuỗi một ngày thì cò kè bớt một thêm hai. Bớt năm chuỗi được không? Ba chuỗi được không? Hai chuỗi được không?... Bớt bớt làm chi vậy? Đã niệm thì niệm một mạch mười lăm chuỗi luôn đi. Mười lăm chuỗi này là chỉ để mớm cho những người không biết niệm, chứ thực ra nếu quyết lòng đi về Tây Phương thì đâu thể ngừng ở đó được.
Bây giờ quý vị về Việt Nam đi hỏi những ban hộ niệm rồi mới thấy. Người ta quy định mức khởi đầu phải là năm ngàn câu A-Di-Đà Phật mới được tham gia những ban hộ niệm đó. Rồi trong vòng khoảng một tháng sau phải tăng lên mười ngàn. Tự mình tăng. Vì vấn đề huệ mạng của mình chứ không phải là vì cái ban hộ niệm đó mà tăng. Chính vì người ta ra những điều luật rất là gắt gao như vậy, cho nên những người tham gia vào, trong một thời gian rất ngắn tự nhiên có mức công phu liền.
Cũng giống như hổm nay ở đây chúng ta đưa ra công cứ. Công cứ mà chúng ta làm, quý vị sẽ thấy một năm sau công phu chúng ta nó sẽ lên tới mây xanh vậy đó, mà quý vị không làm thì một năm sau nó vẫn còn đi tà tà dưới đất! Vì không có công cứ thì không có bài thi, không có bài thi thì không bao giờ biết được là mình đạt được tới mức nào rồi.
Cho nên, không thể nào chần chờ. Hôm trước có một vị nói, “Để tôi chờ”... Tôi nói, đã tu mà chờ thì coi chừng “Oan gia trái chủ”dạy cho mình chờ như vậy đó! Giống như bà Cụ, năn nỉ “Cụ ơi! Niệm cho con một ngày mười lăm chuỗi”. Bà kì kèo bớt một thêm hai, mười lăm chuỗi nhiều quá!... Cầm xâu chuỗi thì khó, mà đi ra nhổ cỏ thì nhanh như chớp. Câu A-Di-Đà Phật niệm chỉ có mười lăm chuỗi trong một ngày mà không chịu niệm... Để rồi sau cùng thì sao? Thấy không?... Chư vị hiểu rằng cái thọ mạng này nó vô thường dữ lắm!
- Sau cái thọ mạng này, nhất định chúng ta không hết.
- Sau cái thọ mạng này, cái xác bỏ vô trong quan tài chôn đi hay thiêu đi rồi, nhất định không phải như vậy là xong đâu. Mà sau đó hàng vạn, hàng ngàn kiếp chịu đọa lạc đau đớn!
Hôm trước chúng ta đã nói, chính những người khi mà thọ những ách nạn đó, chiều chiều họ còn trở về nhà được, ngồi tại đầu hè mà khóc! Khóc gì khóc, chứ đâu biết cách nào gỡ được! Ván đã đóng thuyền rồi còn cách nào mà gỡ được nữa?!!!...
Xin thưa với chư vị, mình biết được phương pháp hộ niệm là biết được tường tận từng chút từng chút con đường giải thoát được an toàn vững vàng mà không chịu làm. Niềm tin không vững, cách đi mập mờ... nhất định đạo tràng này không còn cách nào cứu chúng ta được.
Chúng ta phải đi cho vững. Nghe lời Phật dạy phải nghe cho đúng. Phật dạy:
- Tín:Là phải tin cho chắc chắn, không được nghi ngờ. Đem cái nghi ngờ này nói cho thiên hạ thì mình bị tiêu hết phước đức rồi. Tại vì gieo niềm tin cho người ta thì mình được đức, gieo niềm nghi ngờ cho người ta thì mình bị mất đức, mình bị tội.
- Nguyện:Nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, không nguyện gì khác cả. Nếu nguyện gì khác thì lạc đường! Lạc đường thì ráng chịu.
- Hạnh:Hạnh là niệm câu A-Di-Đà Phật. Một người sắp sửa bỏ báo thân niệm câu A-Di-Đà Phật được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Hướng dẫn cho người hạnh này, hạnh nọ, nào là đừng có lấy ớt, đừng có lấy cà... Nguyện những cái đó, làm những cái đó có gì hay lắm đâu mà khoe? Lạc đường rồi! Thời gian không còn kịp nữa rồi! Thời gian không còn kịp nữa rồi!...
Tín-Hạnh-Nguyện: Mau mau gói lại. “Tín”cho vững, “Nguyện” vãng sanh và “Niệm”câu A-Di-Đà Phật liền đi, nhất định tất cả chúng ta đều về Tây Phương Cực Lạc được cả.
Nếu không, xin thưa thực,cơ hội vãng sanh đã có. Đừng nên bỏ rơi. Vô cùng đáng tiếc!
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa đàm 38
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Ngày hôm nay chúng ta tịnh khẩu 24 tiếng đồng hồ để niệm Phật. Thành tâm cảm niệm công đức chư vị đến đây tham gia, vừa trang nghiêm đạo tràng, vừa chuẩn bị hành trang cho mình để một đời này ta về Tây Phương Cực Lạc.
Mỗi một ngày ta tinh tấn niệm Phật là để nhắc nhở cho chính chúng ta biết đường tu của chúng ta thẳng tắp, không phải mơ màng, không phải phân vân, vì rõ rệt ta đã quyết lòng đi về Tây Phương. Trong thời mạt pháp này nghiệp chướng của chúng ta lớn, chỉ cần một chút phân vân trong tâm là có thể bị lạc đường ngay lập tức. Trong kinh Phật nói, đến giai đoạn này rồi, tu hành muốn được thành tựu khó vô cùng khó! Chúng ta chỉ cần sơ ý một chút, thì nhất định trong vô lượng kiếp nữa chưa chắc gì gặp lại câu A-Di-Đà Phật. Chính vì vậy càng tu, càng niệm Phật chúng ta càng quyết tâm. Ở tại đây chỉ có một đường đi duy nhất là niệm Phật cầu cho hết báo thân này được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Ta thì nỗ lực tinh tấn tu hành. Đồng tu, đạo tràng thì nỗ lực giúp đỡ cho chúng ta để cho tất cả những ách nạn gì còn rơi rớt lại, còn bám víu theo ta, chúng ta cùng nhau gỡ cho nhau, giải nạn cho nhau trong giờ phút cuối cùng. Nói thẳng ra, chính là “Hộ Niệm”.
Ngày hôm qua, chúng ta nhắc đến chỗ một người tu trong đời này, tu từ nhỏ đến lúc gần lìa bỏ báo thân mà cũng không biết: Thế nào là tu đúng? Thế nào là tu sai?Những quan niệm sai lầm đã gắn vào cái tâm của họ. Xin thưa thực, người tu học Phật ngày hôm nay hình như lơ mơ, lờ mờ chuyện này nhiều lắm. Trách nhiệm này quy cho ai đây? Chính Diệu Âm này hồi trước cũng đi nhiều nơi lắm, gặp chỗ nào có người tu, gặp chỗ nào có mái chùa, ngay cả nhà thờ Thiên Chúa cũng tới luôn, ấy thế mà năm mươi tuổi đầu, năm mươi năm trường tìm tòi, mà tìm không ra chỗ tu. Tình thực, cứ thấy người ta tu thì mình cũng tu, nhưng sau cùng rồi cũng không biết là tu như vậy để làm gì? Cũng có nghe pháp, nhưng mà nghe pháp rồi vẫn thấy lung tung, không biết đường nào để đi đây? Tình thực, xin nói thẳng thắn như vậy. Đến một lúc tự nhiên gặp câu A-Di-Đà Phật mới thấy ngỡ ngàng! Mới giật mình đứng sững sờ, đến nỗi người ta xô tới mình đi tới, người ta kéo lui mình đi lui, người ta tách ngang mình tách ngang... vì lúc đó cái cảm giác ngỡ ngàng giống như ở trên trời vừa rơi xuống dưới đất vậy. Nhờ cái cơ may đó mà mới có ngày hôm nay quyết lòng quyết dạ niệm câu A-Di-Đà Phật để đi về Tây Phương.
Khi chúng ta đã quyết chí tu hành, thì nhất định phải “Trạch Pháp”một cách rất mạnh mẽ. “Trạch”là gì? Là tuyển chọn. Phải tuyển chọn rất kỹ. Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, Pháp của Phật không có cao, không có thấp. Không có pháp nào là cao, không có pháp nào là thấp cả, nhưng hợp với căn cơ thì mới sinh diệu dụng. Hợp với căn cơ có nghĩa là phải tuyển chọn. Tuyển chọn cho thật kỹ. Pháp nào Phật dạy ngay cho căn cơ của mình, phải chộp lấy đúng cái đó để đi thì nhất định một đời này được thành tựu, vì thực sự, pháp Phật là để cứu tất cả chúng sanh vượt qua sanh tử luân hồi, không còn tử, không còn sanh nữa.
Ấy thế mà có rất nhiều, rất nhiều, vô cùng nhiều người nói về pháp Phật, nhưng lại không hướng dẫn cho người ta vượt qua cái cảnh sanh tử luân hồi, mà thường lại:
- Dùng thế gian pháp để nói.
- Dùng tâm lý ra nói.
- Dùng hội đoàn ra nói.
- Dùng những thiện lành thế gian ra nói... Đến nỗi nhiều người cứ lấy cái mẫu đó tu hành, tưởng vậy là tu học Phật rồi!
Cho nên, trách người học Phật không biết đường đi cũng tội nghiệp cho họ. Mà thực sự trách người nào khác cũng không trách được nữa, vì thực ra, đời này mà tìm ra một con đường đi thẳng về Tây Phương nhất định là do thiện căn phước đức của người đó đã có rồi mới gặp được trường hợp này. Như vậy, ta đã ngồi được ở đây, ta phải biết rằng là do thiện căn phước đức trong nhiều đời nhiều kiếp ta đã có rồi mới tới đây được.
Thế nhưng coi chừng...
- Nghiệp chướng vẫn theo sát bên ta.
- Oan gia trái chủ vẫn theo sát bên ta.
- Nợ sanh tử vẫn theo sát bên ta.
Chỉ cần ta lơ là một chút thì tất cả những cái đó nó sẽ vươn lên, nó bao lại, nó kéo chúng ta về trong môi trường sanh tử luân hồi. Có nghĩa là ta tu rồi cũng tiếp tục con đường tử tử sanh sanh, sanh sanh tử tử, và xin thưa thực, tam ác đạo không phải là khó vào lắm đâu! Đây là sự thực.
Bữa nay chúng ta tiến lên một chút nữa, là niệm Phật nó có ba điểm cần phải thực hiện: Tín-Nguyện-Hạnh, và có ba điểm quyết không được dính vào, nhớ cho kỹ...
- Một là nghi ngờ, hồ nghi.
- Hai là xen tạp.
- Ba là gián đoạn.
Hôm nay chúng ta nói chuyện “Hồ Nghi”, nó liên kết với câu chuyện tối hôm qua. Có rất nhiều người khi đã gặp pháp môn niệm Phật, chính đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật nói: “Niệm Phật là nhân, thànhPhật là quả”. Chính đức A-Di-Đà nó: “Người nào niệm danh hiệu A-Di-Đà Phật, dù cho nghiệp chướng trong quá khứ có sâu nặng như thế nào đi nữa, trong đời này trước khi niệm câu A-Di-Đà Phật mà lỡ lầm, sai lầm như thế nào đi nữa, bây giờ quyết tâm niệm danh hiệu Ta, nguyện vãng sanh về nước Ta, đem tất cả những căn lành hồi hướng về nước Ta, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh, Ta thề không thành Phật. Chỉ ngoại trừ những người đã tạo ra ngũ nghịch, thập ác và phỉ báng chánh pháp”. Đây là lời Phật nói.
Ấy thế mà có những người cứ nghĩ rằng:
- Ta nghiệp chướng sâu nặng quá, nói thì nói vậy chứ không có cách nào có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc đâu.
Cũng có những người nói:
- Người kia tu suốt cả đời vẫn không được vãng sanh, làm gì ta lại niệm Phật được vãng sanh?
Có nhiều người nói:
- Sao mà cống cao ngã mạn như vậy? Tại sao không tu để kiếm chút thiện, chút lành... để đời đời kiếp kiếp tiếp tục tu? Lại đi về Tây Phương Cực Lạc để thành Phật. Thật là cống cao ngã mạn!
Toàn bộ những lời nói này không phải là kinh Phật nói. Người học Phật mà không theo kinh Phật, lại nói ngược lời Phật dạy trong kinh. Đi vào trong Niệm Phật Đường, bao nhiêu người nhiếp tâm quyết lòng đi về Tây Phương Cực Lạc, mình lại nêu vấn đề hồ nghi ra làm cho niềm tin của người khác bị phá tan, làm cho người khác sợ, khiến cho người ta nghĩ là không thể đi về Tây Phương được! Lời nói này đoạn mất đường thành đạo của người khác. Tội này lớn vô cùng lớn!
Chính vì vậy, mở một lời nói ra chúng ta phải cẩn thận vô cùng. Một lời nói tích cực, một lời nói khuyến tấn làm cho người ta tin tưởng đi về Tây Phương, dù người ta chưa được đi, dù ta không bỏ ra một đồng nhưng ta tạo ra không biết bao nhiêu công đức. Một lời nói ra, ta cũng không bỏ ra một đồng, người ta cũng không lợi một đồng, nhưng mà đoạn mất đường thành đạo của người khác. Một lời vô ý nói ra, coi chừng ta bị đọa lạc mà không hay! Đoạn cái thân mạng này không nặng bằng đoạn huệ mạng của người khác.
Khi tu hành chúng ta phải cẩn thận, hết sức cẩn thận. Trong kinh Phật nói, “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”,là trường hợp này. Phật nói, niệm Phật một đời này vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, ta lại nói dễ gì mà đi về Tây Phương Cực Lạc. Rõ ràng nói ngược!
Ngài Ấn-Quang Đại Sư nói:“Dẫu cho chư Phật trên mười phương bây giờ mà tái sinh xuống dưới cõi trần, trong thời mạt pháp này, cũng phải dạy cho chúng sanh niệm Phật vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”.
Đức A-Di-Đà Phật nói: “Người nào dẫu cho tội như thế nào đi nữa, quyết lòng tin tưởng niệm danh hiệu ta, nguyện sanh về nước ta, dẫu mười niệm mà không được vãng sanh ta thề không thành Phật”.
Ngài nói như vậy mà có nhiều người không tin, lại nói những lời ngược. Ly kinh nhất tự!... Một chữ thôi!!!...
- Ngài nói được vãng sanh, mình nói không được vãng sanh!
- Ngài nói quyết lòng đi về Tây Phương, thì nhất định Ngài cứu, mình nói làm gì mà có chuyện cứu.
- Ngài nói bây giờ tội chướng nặng như thế nào nữa, bỏ đi. Quyết định buông xả những tình chấp thế gian ra. Những tập khí đó, bỏ đi. Quyết cầu về Tây Phương, nhất định Ta sẽ cứu về Tây Phương... Mình nói chị có nghiệp như vậy làm sao đi về Tây Phương? Anh có nghiệp như vậy thì làm sao đi về Tây Phương? Trời ơi!.. Ông kia niệm cả một đời không vãng sanh được, làm gì mà bây giờ anh niệm Phật được vãng sanh?!!!...
Nói toàn những chuyện để ngăn cản con đường vãng sanh của người ta. Rõ rệt nói sai kinh Phật.
Xin thưa với chư vị, đã quyết lòng tới đây tu, nhất định đạo tràng này đã ra cái phương châm “Tu thực”. Hãy quyết lòng quyết dạ mà đi, tuyển chọn một cách hết sức là cẩn thận. Người nào quyết lòng đi về Tây Phương, thì xin chư vị tới đây cộng tác với nhau, hỗ trợ cho nhau, cương quyết bảo vệ cho nhau đi về Tây Phương.
- Nhất định phải đóng lỗ tai lại, không được nghe bàn ra tán vô.
- Phải đóng con mắt lại, không được nhìn cái này cái khác làm cho tâm chúng ta loạn đi.
-Đóng miệng lại, nhất định ai nói gì nói, ta không bàn tới.
Nếu ta cứ bàn luận, bàn một cái thì bị vướng vào cái bẫy: “Đấu Tranh Kiên Cố”, ta bị nạn liền lập tức. Khi đã gặp được câu A-Di-Đà Phật là do thiện căn phước đức chúng ta đã có, mau mau làm cho thiện căn phước đức nó bùng lên, nó nổi lên, càng vững lên. Làm sao để cho thiện căn phước đức vững? Chính là niềm tin càng ngày càng vững. Và xin thưa thực, vì một người đầy rẫy nghiệp chướng thế này mà được về Tây Phương thành đạo mới chứng minh rằng câu A-Di-Đà Phật bất khả tư nghì!...
Ngài Pháp-Nhiên Thượng-Nhân nói: “Vì câu A-Di-Đà Phật đưa một người tội chướng sâu nặng mà về được Tây Phương thành Phật mới chứng tỏ rằng đạo pháp của Phật vi diệu”. Chứ bây giờ một pháp mà chỉ dành cho hạng đại Bồ-Tát đi về Tây Phương thì đâu có gì đâu vi diệu. Chính lời thề của đức Phật là để đưa chúng ta, chính chúng ta đây vãng sanh về Tây Phương.
Muốn về Tây Phương không? Chắp tay lại thành khẩn niệm Phật. Chắp tay lại sám hối tất cả những lời nói nào sơ ý đã làm cho người ta mất tín tâm. Phải quyết lòng mà đi, tự nhiên trong một đời này chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tích Cực - Vững Vàng - Tin Tưởng. Nếu chúng ta rời những điều này ra, nhất định chúng ta đi ngược với lời Phật. Đi ngược với lời Phật tức là tự mình đi theo con đường gọi là “Ma Nghiệp”. Ma nghiệp chính trong tâm này ứng hiện ra.
Như vậy, Phật cũng Tâm; Ma cũng Tâm, không ở đâu hết. Hãy bỏ cái “Tâm Ma” đi, quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật. Niệm Phật - Thành Phật.Nhất định tất cả chư vị đều đi về Tây Phương Cực Lạc trong một báo thân này.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 39
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Tu hành cần phải rõ “Lý”rõ “Cơ”mới thành tựu. Ta chuyên tâm niệm Phật là hợp Lý, hợp Cơ!
Ngày hôm qua chúng ta nêu ra một chứng minh cụ thể từ người tu hành không có đường đi, đến trước những giờ phút lâm chung không biết đường nào đi! Họ đã định nghĩa sựtu hành một cách sai lầm, giống như là một hành động làm thiện, làm lành nho nhỏ nào đó của thế gian. Đây là một điều sơ suất! Một đời này dù có làm thiện lành tới đâu đi nữa thì chẳng qua cũng là điều tốt căn bản của người thế gian, chứ không phải là đạo“Xuất thế gian”.
Ngài Tĩnh-Am nói rằng, làm thiện làm lành, dù cho sự thiện lành đó lớn tới đâu đi nữa, càng lớn thì nợ sanh tử càng nặng, đến lúc chết, vì nghiệp thiện này nó lôi họ vào trong lục đạo luân hồi, không có thể nào thoát được!... Nghe cho kỹ lời các vị Đại Sư dạy.
Tu pháp xuất thế gian để thành tựu thì ngoài việc làm thiện ta cần phải biết con đường giải thoát, vãng sanh về Tây Phương. Khi hiểu được những chuyện này, xin chư vị hãy cố gắng tự mình kiểm lại xem mình tu hành có bị xen tạp hay không? Nếu mình xen tạp quá thì sửa lại đi. Càng xen tạp càng trở ngại con đường vãng sanh. Tu đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc có thể nói là cách tu duy nhất trong thời mạt pháp này để mà thành tựu đó!...
Như vậy, bây giờ nếu mình thấy một câu A-Di-Đà Phật mà sợ rằng không đủ, thì nhất định mình không bao giờ được vãng sanh! Còn mình thấy một câu A-Di-Đà Phật đã đủ, quyết lòng một đường như vậy mà đi, thì trong một báo thân này khi mãn ta có thể dễ dàng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là lời Phật dạy trong kinh điển. Xin chư vị chú ý tự mình kiểm soát lấy, về nhà mình có tu xen tạp hay không?
Xen tạp nghĩa là sao? Nghĩa là niệm một câu A-Di-Đà Phật mà sợ rằng:
- À! Câu chú này hồi giờ mình niệm, bây giờ không niệm nữa, như vậy chẳng lẽ mình bỏ câu chú này sao?...
Khi khởi một cái vọng tâm như vậy đã bị xen tạp rồi!...
Như hôm trước đi tới thăm bác Năm, Bác nói rằng:
- Niệm ông Phật này mình bỏ ông Phật kia, thấy tội nghiệp cho ông Phật kia quá!
Khởi lên một vọng niệm như vậy là bị xen tạp rồi!
Ta đâu có biết rằng:
- Câu danh hiệu A-Di-Đà Phật tức là mười phương ba đời chư Phật đã gói ghém trong cái danh hiệu A-Di-Đà Phật.
- Một câu danh hiệu A-Di-Đà Phật gọi là Pháp-Giới-Tạng-Thân... Giới là thế giới, vũ trụ. Pháp là tất cả vạn pháp. Vạn pháp trên thế giới vũ trụ này nó gói ở trong. Thân là cái chỗ. Tạng là kho tàng... cái kho tàng gói ghém hết tất cả ở trong đó.
Cho nên người nào quyết lòng tin một câu A-Di-Đà Phật, thì...
- Niệm một câu A-Di-Đà Phật tức là tu vạn pháp trên pháp giới rồi.
- Niệm một danh hiệu A-Di-Đà Phật là niệm toàn bộ ba đời mười phương chư Phật trên pháp giới rồi.
Ngài Thiên-Như dạy đại ý như thế này:
- Thờ thì thờ A-Di-Đà Phật.
- Nhớ thì nhớ A-Di-Đà Phật.
- Niệm thì niệm A-Di-Đà Phật.
- Nghĩ thì nghĩ A-Di-Đà Phật...
Tức là cái gì cũng A-Di-Đà Phật hết. Cứ lấy một Phật đại diện cho mười phương chư Phật thì người này sẽ là người thành tựu. Nhất định không thể nào không thành tựu được.
Hồi sáng này chúng ta nói về “Nghiệp”. Mình sợ rằng nghiệp chướng của mình nặng quá làm sao có thể về Tây Phương, thoát vòng sanh tử, thành đạo được? Thì bây giờ mình phải bỏ cái mối nghi đó đi. Phật không bao giờ nói lời vọng ngữ đâu. Trong ngũ giới có giới vọng ngữ, trong thập thiện giới cũng có giới không được nói dối. Phật không bao giờ nói dối. Phật không bao giờ nói điều sai. Chỉ vì chúng ta nghĩ sai, hiểu sai nên chúng ta không nghe lời Phật! Không nghe lời Phật thì với cái dạng người nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta nhất định một đời này không cách nào thành tựu được! Mà không thành tựu thì đời sau nhất định không thể nào sướng bằng đời này! Nên nhớ rằng mạt pháp thì một ngày sẽ mạt hơn một ngày, một đời sẽ mạt hơn một đời, tệ hơn một đời! Nhất định ta không thể nào sướng hơn được đâu, mà coi chừng lỡ rơi vào trong tam ác đạo rồi thì “Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”đó! Đau khổ không cách nào có thể nói nên lời được đó!...
Như vậy, bây giờ người học Phật như chúng ta hãy khôn ngoan nghe lời Phật dạy. Phật dạy niệm Phật thì nhất định ta niệm Phật. Phật dạy nghiệp chướng sâu nặng niệm Phật vẫn được thành tựu, vì pháp môn niệm Phật là pháp mà đức Phật nói:“Phàm Thánh Tề Thâu”. Nghe cho kỹ lời này đi. “Phàm”là phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng; “Thánh”là thánh nhân, các vị đại Bồ-Tát.“Tề thâu”là bình đẳng thâu nhiếp. “Tề”là bằng, bình đẳng; “Thâu” là được thâu nhiếp về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng...
Không có một pháp nào lạ lùng như pháp Niệm Phật! Cho nên pháp Niệm Phật gọi là “Môn Dư Đại Đạo”. Môn là gì? Là phương pháp. Dư là gì? Là ngoài tất cả các pháp của Phật đưa ra. Nó bao trùm hết. Tất cả đều nằm trong câu A-Di-Đà Phật hết. Lạ lắm! Gọi là “Nhất Thừa Thật Tướng”. Không có một pháp nào có thể đối đãi được với câu A-Di-Đà Phật hết.
Người nào được hưởng pháp này?...
- Người nào chân thành nghe lời Phật dạy.
- Người nào không tincâu A-Di-Đà Phật thì không được hưởng.
- Người nào còn nghi ngờpháp môn niệm Phật thì không được hưởng.
- Người nào tin tưởng vững vàng câu A-Di-Đà Phật thì được hưởng.
Nên nhớ rằng, A-Xà-Vương-Thế là một người đại tội. Với cái tội đó, ông ta phải đi xuống địa ngục A-Tỳ. Nhưng trước những giờ phút nằm ngáp ngáp trên giường bệnh, có người tới nói, Ngài đã làm sai rồi! Ngài hư quá rồi! Thôi bây giờ thành tâm sám hối đi, giật mình tỉnh ngộ sám hối cho nhiều lên. Ngài quyết lòng niệm Phật, buông hết tất cả... Ngài niệm Phật để cầu vãng sanh. Ngài vãng sanh về Tây Phương đến Thượng Phẩm Trung Sanh. Những người nào làm công cứ, khi mà làm công cứ đến chỗ thượng phẩm trung sanh tôi sẽ nói đến điều này cho quý vị nghe.
Chính vì thế, chúng ta nghiệp nặng như thế này, nhưng xin quý vị đừng lo nữa. Phật nói, đã sinh lại làm người thì quý vị đã miễn được cái tội gọi là ngũ nghịch của A-Xà-Vương-Thế rồi đó. Đã sinh lại làm người thì trong quá khứ quý vị đã miễn được cái tội phỉ báng Phật pháp rồi đó. Thật vậy! Vì đã phạm đến hai tội này, thì phải xuống tới địa ngục A-Tỳ lận! Nhưng đã trở lại làm người thì dù có tội nghiệp như thế nào đi nữa... chắc chắn lớn, nhưng mà tránh được cái tội đó rồi. Như vậy thì chúng ta cũng nên hoan hô cho chính chúng ta là có phước phần vãng sanh về Tây Phương, là dư sức chứ không phải chỉ là đủ. Bây giờ còn thiếu là thiếu cái niềm tin của chúng ta. Đã mê mờ, đã hạ căn... mà Phật dạy lại không nghe, còn cứ chạy nghe theo người thế gian nữa, thì nhất định chịu thua rồi, không ai cứu được nữa!
Như vậy, hãy bỏ chuyện thế gian ra đi. Đừng nên nghe người này nghe người nọ nữa. Đừng nghe ông này nói, nghe bà kia nói nữa. Nhất định “Y Pháp bất Y Nhân”nhé. Kinh Phật dạy như vậy, tađi như vậy. Ông này nói hay? Kệ ổng! Bà kia nói giỏi? Kệ bả! Mình nhất định không nghe. Hãy đóng lỗ tai lại. Quyết định phải đóng lỗ tai lại. Nếu quý vị muốn về Tây Phương mà cứ mở lỗ tai ra nghe khắp nơi thì...
- Nhất định bị loạn tâm liền.
- Nhất định bị hồ nghi liền.
- Nhất định bị phân vân liền.
- Phân vân thì hồ nghi. Đem cái hồ nghi đó mà nói cho thiên hạ thì mình bị đại tội!
Tại sao vậy?... Mình đem sự hồ nghi ra nói cho người khác, tức là truyền sự hồ nghi cho người khác. Truyền hồ nghi cho người khác, làm cho người khác đang tin câu A-Di-Đà Phật đành phải bỏ câu A-Di-Đà Phật, vậy thì mình mang luôn cái tội của người ta. Tội này dễ sợ lắm!... Không phải là chuyện nhỏ! Xin chư vị hãy nhớ cho.
Phật đã dạy, “Phàm Thánh Tề Thâu”. Tề là bằng nhau. Nghĩa là, Ngài nói chân tâm tự tánh của mỗi người chúng ta đều là Phật hết. Đã là Phật rồi thì biết khôn ngoan nghe lời Phật, niệm thẳng câu A-Di-Đà Phật, niệm thẳng chơn tâm tự tánh của chúng ta, thì A-Di-Đà Phật gia trì vào đó liền, chân tâm tự tánh chúng ta hiển lộ liền. Về Tây Phương Cực Lạc rồi mới thấy. À!... Thì ra vạn pháp nó nằm trong tâm chúng ta. “Hà kỳ Tự Tánh năng sanh vạn pháp. Hà kỳ Tự Tánh bổn lai cụ túc”. Trong tâm chúng ta đã có đầy đủ hết trơn rồi.
- Dù là một kẻ ăn cướp.
- Dù là một người đại tội.
- Dù là một tên tử hìnhđi nữacũng có Phật tánh, cũng có đầy đủ Phật tánh trong đó.
Chỉ cần làm sao trước giây phút bị người ta thắt cổ hãy niệm câu A-Di-Đà Phật đi, thành tâm đi, tự nhiên chân tâm tự tánh hiển lộ. Vì sao vậy? Vì chút nữa đây người ta đã treo cổ mình rồi. Trong cơn ngặt nghèo đó, chính là lúc dễ kiệt thành sám hối. Thành tâm sám hối tự nhiên chuyển tất cả những cái phàm phu này thành Thánh-Nhân liền. Nghiệp có còn đó hay không? Còn đó! Còn đó nhưng chúng ta đã rời ra rồi, vì chúng ta đã trở về chân tâm tự tánh chúng ta rồi, tại vì là “Lý Tức Phật”, nghĩa là trong lý đạo tự nhiên thì chân tâm chúng ta là Phật. Là Phật thì quý vị phải nhớ là một người ngu si không biết một chữ nghĩa nào cũng có tâm Phật. Ngài Lục-Tổ Huệ-Năng có biết chữ “Nhất” là mấy nét đâu? Không biết chữ “Ngu” viết như thế nào? Như vậy mà Ngài còn thành tựu được. Còn ta may ra còn đọc được chữ “A” chữ “B”, đọc được lá thư... làm sao chúng ta lại không được? Tại vì mình không hiểu chỗ này, cứ chìm vào những cái mê mờ để chịu nạn!...
Chiều nay ta tiến thêm một chút xíu nữa, là có nhiều người nói:
- Tin thì tôi tin đó, niệm thì tôi niệm đó, niệm Phật tôi niệm dữ lắm, mà không biết rồi cuối cùng khi tôi lâm chung, A-Di-Đà Phật có tới rước không?...
Lại nghi nữa! Quý vị cứ đi hộ niệm cho người ta thử coi:
- Không biết tôi niệm Phật như vậy, Phật có tới rước tôi hay không hé?
Cũng lại nghi nữa! Nếu gặp trường hợp như vậy, hãy khuyến tấn người đó hãy yên chí đi. Nhớ trong kinh Phật nói là, quang minh của Phật phổ chiếu khắp tất cả mọi nơi. Hang cùng ngõ hẻm nào cũng có quang minh của Phật. Vô chướng ngại mà! Ví dụ mình có con mắt, cũng có “Quang Minh” nè! Nhưng nhìn qua bức tường không được! Chứ quang minh của Phật, thì tường này không ăn nhằm gì đâu à! Núi không ăn nhằm gì đâu à! Quả đất này không cản ngăn được ánh sáng của Phật đâu à! Lạ lắm chư vị ơi!
Giả sử, quý vị cứ đào một lỗ cho thiệt sâu đi, xuống ở dưới đó, đóng một cái nắp bê tông cốt sắt đi, tối thui dưới đó để niệm Phật... Quang minh của Phật vẫn phóng tới đó như thường. Những thứ vật chất này không ngăn cản được quang minh của Phật, gọi là “Sự Vô Ngại”. Những sự vật không bao giờ mà ngăn ngại được ánh sáng quang minh của Phật chiếu tới đâu à! Cho nên xin đừng sợ. Ngồi tại đây nghiêm trang niệm Phật, về nhà chúng ta không nghiêm trang niệm Phật. Chúng ta đã sai rồi! Tâm của chúng ta đã bị hư rồi! Chúng ta đã lừa dối Phật rồi! Ngài Tịnh-Không đã nói hay vô cùng, ta đi ngang Phật mà không lạy. Thấy có người thì ta lạy, không có người thì ta đi luôn... Ta đã dối Phật rồi!... Nhất định cái tâm này là tâm ngăn ngại. Đây gọi là Lý ngăn ngại. Lý ở đâu? Lý là trong tâm chúng ta không chân thành, trong tâm chúng ta không thành kính đã hiện ra hành động không thành kính. Không thành kính thì không tương ưng!
Khi niệm Phật, tu hành nhất định phải lấy cái lòng chí thành chí kính, tự nhiên chính lòng chí thành chí kính này nó sẽ mở toang hết tất cả chướng ngại ra và làm cho chân tâm hiển lộ. A-Di-Đà Phật ứng theo sự mở toang đó mà Ngài phóng quang tới gia trì, tiếp độ chúng ta đi về Tây Phương.
Như vậy chúng ta đi về Tây Phương...
- Không phải là chúng ta tu giỏi.
- Không phải là chúng ta tu đắc.
- Không phải chúng ta khoe sách này sách nọ, chúng ta khoe kinh này kinh nọ, khoe pháp này pháp nọ...
- Mà chúng ta khoe cái lòng chân thành. Phải chân thành. Nơi vắng, chỉ một mìnhcũng phải chân thành.
Thường thường chư Tổ nói, khi vào một đạo tràng trang nghiêm. Nhất định từ lời ăn, tiếng nói, bước đi... phải cung kính, phải cẩn thận. Trong Niệm Phật Đường không được khạc nhổ. Khạc nhổ thì liền bị Thiên-Long Hộ-Pháp la rầy. Xin quý vị đừng nên khinh thường.
Cần tảo già lam địa,
Thời thời phước huệ sanh.
Tuy vô Tân Khách chí,
Diệc hữu Thánh Nhân hành.
“Cần Tảo” là làm sạch sẽ; “Già Lam Địa” là Niệm Phật Đường. Mình không chịu làm sạch sẽ Niệm Phật Đường, mà lại tới khạc nhổ làm cho dơ bẩn, thì...
Khạc nhổ Già Lam địa,
Thời thời chướng ngại sanh!...
Nhất định nghiệp chướng sanh ra liền. Như vậy ta biết tu rồi chúng ta phải sửa đổi lại. Hồi giờ tại sao gia đình chúng ta bị trở ngại? Tại sao con cái chúng ta bị trở ngại? Tại sao thân thể chúng ta bị trở ngại?... Vì ta sơ ý trong đó!
Đi kinh hành trong Niệm Phật Đường đều có nguyên tắc, khi nào trang nghiêm ta phải trang nghiêm, khi nào chắp tay ta phải chắp tay. Nếu mọi người chắp tay, ta không chịu chắp tay thì Thiên-Long trừng mắt nhìn ta mà ta không hay! Ở Tịnh-Tông-Học-Hội người ta để một vị Thần, mắt Ngài trợn ngược như vầy! Phải không? Nói chuyện đi? Nói chuyện một lần, Ngài trợn con mắt lên! Nói chuyện lần thứ hai Ngài chỉ cái tay vầy nè! Chỉ tay ra cửa! Ngài đuổi mình rồi đó. Nếu còn phạm đến lần thứ ba, Ngài giơ cái chùy lên. Có thấy cái chùy không? Gai gai gai như thế này!... Nếu không chịu giữ giới luật, Ngài nện cho một gậy thì tiêu rồi!.... Ý nghĩa là như vậy.
Hiểu được chỗ này, thì mình biết cách tu liền. Tất cả đều có biểu pháp hết. Mình chuyển đổi thì tự nhiên họa tiêu đi, họa tiêu đi thì phước tăng. Nhờ vậy mà chúng ta thành đạo dễ dàng.
Xin nhắc lại... Chí Thành Chí Kính nhất định chúng ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 40
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Niềm Tin vô cùng quan trọng!Thế gian pháp làm một việc gì muốn thành công phải có lòng tin vững vàng. Phật pháp lại càng chú trọng về niềm tin. Pháp môn Niệm Phật lấy chữ “Tín Tâm”làm khởi đầu cho tất cả.
Hồi sáng này mình nói lòng tin tạo ra công đức, nhờ công đức tăng thêm thiện căn, rồi thiện căn nó làm cho niềm tin vững hơn, vì niềm tin vững hơn nên công đức của mình lại tăng lên nữa, từng nấc từng nấc đưa đến chỗ thành tựu. Những lời này là để củng cố niềm tin cho nhau. Xin chư vị vững lòng tin tưởng. Những người nào niệm Phật mà chưa phát khởi niềm tin, mau mau phát khởi niềm tin, nếu không thì công cuộc tu hành của chúng ta coi chừng trở thành như: “Dã tràng se cát biển đông!”.
Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Niềm Tin”. Niềm tin có sự đối trị của nó. Trong kinh Phật nói:
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.
- Tín năng siêu xuất chúng ma lộ.
- Tín năng thành tựu Bồ-Đề đạo.
Ba điểm này quan trọng vô cùng.
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.Người không có thiện căn phước đức thì nhờ tín tâm mà được trưởng dưỡng lên. Khi phước đức của mình được trưởng dưỡng lên, thì vô tình nghiệp chướng của mình nó lại lu mờ xuống. Như vậy trưởng dưỡng thiện căn đối trị với nghiệp chướng.
- Tín năng siêu xuất chúng ma lộ.Cái niềm tin vững vàng nó giúp mình vượt qua tất cả những “Nghiệp Ma”. Nhờ sự đối trị này mà nghiệp chướng bị kiềm chế, ma nghiệp cũng bị kiềm chế, khiến ta “Thành tựu Bồ-Đề đạo”.Hay lắm! Điều này hay lắm quý vị ơi!
Chướng ngại chúng ta có ba dạng:
- Một là Nghiệp Chướng.
- Hai là Phiền Não Chướng.
- Ba là Báo Chướng.
“Nghiệp Chướng”được câu “Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn” đối trị. Nghiệp chướng chúng ta có kèm theo cái gọi là “Oán Thân Trái Chủ Chướng”, là những thứ oán thù và nợ nần chúng ta đã tạo ra trong quá khứ, nó đã thành hình rồi.
Còn “Ma Chướng”?Ma chướng chính là “Phiền Não Chướng”, chứ không phải là “Ma này” “Ma nọ”, thè lưỡi, nhe nanh! Không phải. Ma chướng chính là phiền não chướng. “Phiền não chướng”là Tham-Sân-Si-Mạn-Nghi-Ác Kiến.Sáu thứ này là ma chướng. Tu hành:
- Khởi một niệm nghi là Ma chướng.
- Khởi một tâm sân giận lên, địa ngục nhập vào: Ma chướng!
- Khởi lên một tâm tham lam, ngạ quỷ nhập vào: Ma chướng!
Dễ sợ!... Khi phân tích cho rõ ra mới thấy tại sao có nhiều người tu hành rất lâu mà sau cùng không được thành tựu? Là vì không biết rõ chỗ này. Bây giờ mình đi từng bước từng bước thì sẽ thấy rõ hơn.
- Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn.Cái nghiệp của mình trong quá khứ đã làm rồi, xin thưa không cách nào có thể làm cho nó tiêu được. Cũng giống như chúng ta thường hay nói, ví dụ trong một cái hũ này có chứa hạt đậu đen và hạt đậu trắng. Nghiệp chướng ví như hạt đậu đen, phước báu ví như hạt đậu trắng. Tức là trong cuộc đời chúng ta từ vô lượng kiếp tới bây giờ, cũng có lúc làm thiện, cũng có lúc làm ác. Làm ác tạo ra nghiệp ác: Hạt đậu đen. Làm thiện tạo ra nghiệp thiện: Hạt đậu trắng. Trắng - Đen trộn lẫn với nhau. Giả sử như ban đầu Đen - Trắng bằng nhau: Màu xám xám. Bây giờ chúng ta biết trưởng dưỡng những thiện căn phước đức của mình lên, làm lành cho nhiều đi. Ngày nào cũng bỏ hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó mình nhìn cái hũ, hũ lớn lắm nghen, chứ không nhỏ đâu, mình thấy hình như nó trắng non à. Mình hốt lên một nắm thấy toàn là hạt đậu trắng không. Đây chính là điều mà chúng ta nói đó!...
Đừng bao giờ duyên tới những nghiệp ác. Đừng bao giờ khởi lên những chuyện ác. Để cho cái nghiệp ác của mình nó nằm im đó. Nghiệp ác mới thì mình không tạo ra, và cái tâm thiện lành của mình cứ bỏ mãi những hạt đậu trắng vào, thì đến một lúc nào đó lượm lên ta thấy toàn hạt đậu trắng không thôi. Hạt đậu đen còn hay mất?... Còn nguyên vẹn trong đó, không mất.
Trong lúc mình bỏ hạt đậu trắng nhiều như vậy, nhưng đến cuối cùng mình lại không lượm hạt đậu trắng, màcứ muốn moi dưới đáy tìm cho được hạt đậu đen, thì mình hưởng cái quả của hạt đậu đen đó, nghĩa là bị đọa lạc! Trong khi đó, hạt đậu trắng còn không? Còn nguyên vẹn.
Chừng nào mới hưởng hạt đậu trắng? Khi nào mình hưởng hết cái quả của hạt đậu đen, nghĩa là trả hết tất cả những nghiệp ác rồi mới hưởng được hạt đậu trắng đó. Nguy hiểm là chỗ này!
Tại sao lại phải bị hạt đậu đen? Tại vì phiền não chướng. Như chúng ta niệm Phật mà lòng tin không khởi được, không phát được. Niềm tin không khởi phát thì thường thường là phiền não chướng đang nổi lên. Ví dụ vô trong đạo tràng, tất cả mọi người đều trang nghiêm. Họ trang nghiêm vì họ tin tưởng, họ thành kính. Mình không trang nghiêm chứng tỏ là mình không tin tưởng, không thành kính! Thành kính thì trong lúc tu người ta tạo phước đức. Không thành kính thì cũng gọi là tu hành nhưng mình tạo nghiệp. Rõ rệt!...
Chính vì vậy, xin nhắc đi nhắc lại rất nhiều về chuyện này, ta thường đưa ra nhiều dạng người tu hành bốn, năm chục năm mà sau cùng thất bại. Một trong những lý do, là vì sơ ý chỗ này.
Hôm trước ta có đưa ra một ví dụ, như một người giàu có mà thích đi casino, (tức là cờ bạc). Biết tu tức là biết tạo phước, mà thích đi casino nên làm có tiền xong thì đi casino liền. Đốt hết! Mình tu thì tạo ra phước. Tạo ra phước mà không kiềm chế được phiền não của mình, nổi lên cơn sân giận thì tiêu hết! Tiêu hết rồi thì tu nữa, (tại vì biết tu mà). Tu thì có phước nữa, có phước nữa nhưng giận một cơn nữa thì đốt hết nữa! Nhiều người tu bảy, tám chục năm mà còn giận hờn, đố kỵ, ganh tỵ... thì phước tiêu hết, đức tiêu hết, có thể thua một người mới tu được có một tuần hai tuần mà cuộc đời của họ hiền lành. Cho nên “Tín năng siêu xuất chúng ma lộ”là ở chỗ này.
Ví dụ cụ thể hơn, như hôm thứ bảy vừa rồi mình đi hộ niệm, một Cụ già trên 80 tuổi, mình tới khuyên niệm Phật, nếu mà vị đó phát khởi tín tâm liền, không chần chừ nữa... Không cần biết là vị đó hồi trước có tu không? Không cần biết. Nhưng một ngày trước khi ra đi mà phát khởi niềm tin vững vàng...
- Bác ơi! Chắp tay lại niệm Phật nhé.
Bác chắp tay liền lập tức.
- Niệm A-Di-Đà Phật cầu về Tây Phương, quyết định nghe bác.
- Dạ, tôi quyết định. Cậu ơi! Hồi giờ tôi làm sai quá, thì bây giờ làm sao?
- Không sao đâu. Vững vàng đi. Phật cho phép đới nghiệp.
Tin liền lập tức, không chần chờ nữa. Nếu hai, ba ngày sau cụ chết. Trong hai ba ngày đó cụ đã niệm câu A-Di-Đà Phật rồi. Khi thấy mệt mệt, kêu chúng tôi tới hộ niệm... thì có thể cũng có hy vọng... Có nhiều người được hộ niệm từ sáng cho đến chiều mà được vãng sanh. Quý vị thấy rõ ràng không? Còn chần chừ? Còn cứ muốn hẹn nay, hẹn mai? Hậu quả sẽ khác hẳn liền! Tại sao vậy? Niềm tin không có. Còn như người đó tự nhiên phát khởi niềm tin liền lập tức thì khác. Hồi giờ không tin tại vì không ai hướng dẫn, chưa có duyên. Nay gặp duyên có người hướng dẫn thì tin liền...
“Tin liền” và “Chần chừ”, hai cái giá trị này hoàn toàn khác nhau! Khác một trời một vực. Tin liền, tức là niềm tin khởi lên mạnh mẽ: “Tín năng siêu xuất chúng ma lộ”.Tất cả những giận hờn, những ganh tỵ, những câu mâu, những luyến ái, tham, sân, si, mạn, nghi... tự nhiên buông hết. Ngay từ đó niệm câu A-Di-Đà Phật mà siêu xuất chúng ma lộ!...
“Ma” nó dẫn mình duyên tới những cái “Nghiệp Chướng” trong quá khứ, nó dẫn mình duyên tới những cái “Oán Thân Trái Chủ Chướng”. Chính nghiệp chướng và oán thân trái chủ chướng này tạo cho mình cái “Báo Chướng”. Báo chướng này đưa mình đi xuống ba đường ác. Nếu cái “Ma Chướng” này bị ngăn đi, cắt đi, tức là tất cả những cái duyên của nghiệp chướng, oan gia trái chủ chướng bị cắt, thì những nghiệp chướng này không trở thành quả báo. Oan gia trái chủ thông cảm không hãm hại mình. Mình niệm Phật hưởng cái quả báo vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Đơn giản như vậy.
Chính vì vậy mà có những người hồi giờ không biết tu gì cả, nghe nói hộ niệm vãng sanh, mừng quá, chạy tới kêu. Dù người ta chưa bao giờ bước tới đạo tràng này, nhưng chỉ cần mình tới nói chuyện, họ phát khởi niềm tin, nhiều khi họ đi ngon lành hơn mình, đừng nên khinh thường. Còn như chúng ta ở đây tu, ngày ngày chúng ta cũng nói hộ niệm, ngày ngày chúng ta nói về Tây Phương, củng cố niềm tin cho nhau để đi về Tây Phương, nhưng chúng ta lại tu tà tà! Vì sao lại tu tà tà? Hổm nay tôi nói rất nhiều rồi, có thể vì oan gia trái chủ đã xúi để hại ta! Tu tà tà thì thiện căn phước đức của chúng ta trong quá khứ không khởi lên được. Tại sao vậy? Tại vì niềm tin của chúng ta tà tà. Niềm tin tà tà thì “Tín Năng” không có thể nào “Siêu sxuất chúng ma lộ” được. Tín này không thể nào trưởng dưỡng chư thiện căn được. Không có niềm tin nhất định không thể thành tựu đạo Bồ-Đề.
Bồ-Đề đạo đối trị với Báo Chướng. Thành Bồ-Đề đạo tức là thành Phật. Lên Tây Phương thì báo chướng cũng chịu thua, không cách nào báo hại mình được nữa, mà lúc đó là mình đi trên cái báo chướng đó, mình đi trên cái nghiệp chướng đó, mình dùng thần thông đạo lực đi cứu độ chúng sanh, vì chúng sanh mà chịu khổ. Chư Phật hạ sanh xuống cõi trần là thị hiện vì chúng sanh các Ngài chịu khổ, chứ không phải xuống đây các Ngài chịu nhân quả đâu à! Các Ngài đi trên nhân quả rồi, đã trở về chơn tâm tự tánh không còn cái đó nữa, thì ta cũng tập theo các Ngài về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng, chúng ta đi trên cái mức đó, đi cứu độ chúng sanh. Ở từ đâu? Bắt nguồn từ niềm tin này.
Cho nên “Ngũ Căn, Ngũ Lực” bắt đầu từ chữ “Tín”mà đi hết. Đi về Tây Phương cũng bắt đầu chữ “Tín”.Nếu không tin, ví dụ như bà Cụ nói chuyện leo lẻo đó, mình nghĩ rằng ít ra cũng một năm nữa chưa chắc gì đã đi. Thế mà mình chưa kịp tới lần thứ hai thì bà Cụ đã đi rồi. Quý vị thấy không? Đây là nghiệp chướng đã tràn lên rồi, bao phủ rồi, oan gia trái chủ đã tràn lên rồi. Tại sao như vậy? Tại vì không có tín tâm, không có tín tâm nên không khởi phát được thiện căn phước đức, nên không vượt qua được ma chướng. Xin nhắc lại, Ma Chướng chính là Phiền-Não Chướng!
Như vậy thì, nếu còn giận, xin chư vị đừng giận nữa, tức là chúng ta bỏ được ma giận: “Ma Địa Ngục”. Chúng ta tham lam, tham tiền, tham bạc, tham vàng... tham đồ gì đó, tham luyến gì đó, toàn bộ là ngạ quỷ chướng hết trơn. Một niệm tham nổi lên, ngạ quỷ nhập vào. Quỷ nhập thân này, không phải là do quỷ nào cả, mà chính là tâm tham chúng ta khởi ra. Thực sự là như vậy!
Ta hiểu được như vậy rồi, thì tất cả đều do chính cái tâm ta tạo ra hết. Hôm trước tôi gặp ở trên Internet có một người Email hỏi tôi:
- Bây giờ từ sáng tôi tu năm tiếng đồng hồ, chiều tôi tu hai tiếng đồng hồ, một ngày tôi tu bảy tiếng đồng hồ như vậy, tôi quyết tâm cho được thành tựu. Nhưng tại sao bây giờ tôi bị trở ngại như vầy... như vầy... nhiều quá! Vậy thì làm sao đây?
Tôi trả lời liền lập tức:
- Tại vì chị tu không có người hướng dẫn. Chị thấy rằng mình ngon quá nên muốn đóng cửa tự tu một mình, không chịu kết hợp với đồng tu. Khi tới một đạo tràng, chị thấy người ta tu dở hơn chị, nên chị về nhà tự tu một mình. Chị tu một mình nên bây giờ mới bị như vậy. Phải không?
Tôi nói tiếp:
- Mau mau ngưng ngay lập tức, mỗi lần gặp như vậy thì ra rửa mặt đi, rồi kêu năm, bảy người tới tu chung với nhau. Nếu không có người thì tới một đạo tràng nào đó mà tu với người ta. Kêu nhiều người tới kể hết tất cả những chuyện này cho họ nghe, kể hai, ba người nghe thì tự nhiên chị hết chướng nạn...
Thực sự tại vì người ta không hiểu được đạo lý duy tâm, nên mới bị ma chướng! Ma chướng chính là cái tâm phiền não của mình. Biết được vậy rồi, thì người nào có nghi phải buông mối nghi liền lập tức. Người nào thấy chưa tin, phải tin liền lập tức.
- Ma chướng chính là giải đãi.
- Ma chướng chính là lười biếng,
- Ma chướng chính là cạnh tranh ganh tỵ,
- Ma chướng chính là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến...
- Ma chướng chính là những thứ đó.
Tất cả những thứ đó là ma chướng, nó mở cửa ra cho “Ngoại Ma” nhập vào khiến mình bị nạn.
Chính vì vậy, họa cũng do mình, phước cũng do mình, gọi là: “Họa phước vô môn, duy nhân tự triệu”. Họa phước không có một hình tướng nhất định, không có một thực thể nào hết. Chính mình chiêu cảm nó đến, chính mình mời nó đến.
Có người đi tu được pháp hỷ sung mãn, đó là điều thành tựu. Từ từ tiến lên. Có những người đi tu, thì càng tu càng bị phiền não, tại vì không chịu buông ma chướng ra. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến bỏ chưa được! Bỏ được thì chúng ta thành tựu. Nhớ những điểm căn bản này để chúng ta niệm một câu A-Di-Đà Phật với lòng tin tưởng sắt son, vững vàng chúng ta đi về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng. Hay hơn là xuống dưới tam ác đạo để chịu khổ vạn kiếp, rồi chờ đức Di-Lặc Tôn Phật xuống cứu. Làm sao Ngài cứu được? Ngài Di-Lặc Bồ-Tát gần 600 triệu năm nữa mới xuống đây thị hiện thành Phật nghen chư vị, không phải dễ đâu. Trong khoảng thời gian đó chưa chắc gì ta được làm người để có dịp nghe pháp âm của Di-Lặc Tôn Phật đâu à!...
Khổ như vậy nên ráng mà lo lấy để đi về Tây Phương, trong một đời này gặp A-Di-Đà Phật thành tựu đạo quả. Ta sẽ theo ngài Di-Lặc Tôn Phật xuống đây cứu độ chúng sanh, hay hơn là nằm chỗ nào đó để chờ Ngài cứu độ!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 41
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Chương trình 48 ngày nói về “Hộ Niệm: Khế Lý - Khế Cơ”, chúng ta còn một tuần lễ nữa là viên mãn. Bắt đầu từ ngày mai sẽ trả lời những câu hỏi. Chư vị nào có câu hỏi nên viết để trong cái hộp giấy ở ngoài, chúng tôi có để sẵn giấy ở đó. Hỏi cho rõ để rồi chúng ta bắt đầu hành trình đi về Tây Phương Cực Lạc.
Ngài Vĩnh-Minh Đại Sư đời nhà Tống nói là: “Vô Thiền hữu Tịnh-Độ, vạn nhân tu vạn nhân khứ. Nhược đắc kiến Di-Đà, hà sầu bất khaingộ”.Tu niệm Phật, một ngàn người niệm Phật, một ngàn người được vãng sanh về Tây Phương, một vạn người niệm Phật, một vạn người được vãng sanh, khi vãng sanh xong thì sẽ gặp được A-Di-Đà, lúc đó không khai ngộ cũng khai ngộ, không thành đạo cũng thành đạo. Tất cả chư Tổ đều nói rằng, người niệm Phật đều được vãng sanh. Đây là pháp môn mà một trăm người tu, một trăm người vãng sanh. Lạ không? Một ngàn người tu, một ngàn người vãng sanh. Một vạn người tu, một vạn người vãng sanh. Nói chung lại là: Muôn người tu muôn người đắc. Chúng ta đang hưởng một cái gia tài rất là vĩ đại của đức Thế-Tôn trao truyền cho chúng ta. Chúng ta đang ở dưới quang minh của đức A-Di-Đà Phật tiếp độ đi về Tây Phương. Như vậy thì chúng ta không thể nào nghĩ rằng mình bị lọt lại!...
- Chỉ trừ trường hợp ta không chịu y giáo phụng hành.
- Chỉ trừ trường hợp ta không chịu tin tưởng.
- Chỉ trừ trường hợp ta không chịu cố gắng Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ.
Vì những điểm này mà ta ở trên con đường thật sự chứng đắc. Ấy thế mà lại có người lại nỡ bỏ đi để tìm con đường đọa lạc?
Có những người tu hành mà không chịu giảng giải đúng như kinh Phật dạy. Ví dụ như:
- Phật nói niệm Phật để vãng sanh. Ta lại nói, dễ gì mà vãng sanh?(Ta nói ngược lại lời Phật!)...
- Phật dạy vãng sanh về Tây Phương để thành Phật. Ta nói ở Ta-Bà này là thực sự, cõi Tây Phương Cực Lạc đâu có mà cầu vãng sanh?(Nói sai lời Phật!)...
- Phật dạy vãng sanh về Tây Phương để thành đạo Vô-Thượng, để cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh.Ta lại nói, ở tại cái cõi này động đất, lũ lụt... dân chúng khổ sở quá, mình không ở đây lo độ chúng sanh, lại lên Tây Phương để làm gì trên đó? (Rõ ràng nói toàn là những lời ngược lại với kinh Phật!)...
Chính vì thế, mình cần phải chú ý rất kỹ mới được. Có nhiều người họ nói sai kinh Phật! Nếu mình không có một sức “Định” đàng hoàng, thì sẽ bị chao đảo tinh thần liền. Phật nói: “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”. Phải chú ý rất kỹ điều này, nếu không chúng ta lạc vào ma chướng mà không hay.
Hai vấn đề Phật đưa ra: Một là nói không đúng kinh Phật, gọi là “Ly Kinh”. Nói ngược lại lời Phật, thì đó là Ma thuyết. Ma thuyết tức là Ma nói. Mình sơ ý chạy theo mình bị đọa lạc ráng chịu!...
Phật lại nói một câu nữa: “Y kinh giảng nghĩa, tam thế Phật oan”. Cái phần “Ly kinh nhất tự” chúng ta đã bàn qua hôm trước rồi. Hôm nay chúng ta bàn thêm về lời Phật dạy, “Y kinh giảng nghĩa”. Tại sao lại y theo kinh giáo của Phật giảng nghĩa ra, mà bị gọi là “Tam thế Phật oan”?
Cụ thể, ví dụ như một người tám mươi mấy tuổi, sắp chết... Mình tới khuyên niệm Phật. Bà Cụ đó nói...
- Tôi ngày nào cũng làm thiện làm lành, tôi không bao giờ làm điều gì sai. Đó là tu rồi, chứ còn tu gì nữa?!...
Rõ ràng, đây cũng là một pháp tu đó, nhưng mà pháp tu không bao giờ đưa đến kết quả giải thoát. Có nhiều người tu bốn, năm chục năm nhưng cuối cùng người ta không biết để làm gì? Đi về đâu?...
Như vậy rõ ràng:
- Thứ nhất, người đó không biết đường nào đi, là vì không nghe được Chánh Pháp, không ai giảng Chánh Pháp cho họ nghe.
- Thứ hai, ngược lại, có những người nghe Chánh Pháp, mà nghe rồi cũng không biết đường nào đi luôn. Tại sao vậy? Tại vì người ta đã “Y kinh giảng nghĩa”, mà không chịu “Y theo căn cơ để giảng nghĩa”. Sai chính là ở chỗ này.
Ví dụ, như nói, bây giờ tu là phải phá tứ tướng. “Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng-sanh tướng, Thọ-giả tướng”,phải phá hết. Tức là ngã tướng phải bỏ... Giảng những chuyện này cho người ta... Rõ ràng đúng kinh. Nhưng thực ra, ngay chính người giảng đó làm không được, thì làm sao bắt người nghe làm được? Cho nên, giảng riết rồi, người đó nghe thì thấy hay quá, nhưng suốt cả cuộc đời họ làm không được! Đến lúc nằm xuống, họ không biết đường nào là con đường giải thoát, con đường nào là con đường bị kẹt!...
Ngay trong pháp niệm Phật của chúng ta, “Nhất tâm bất loạn” là cái lý tưởng cao tột của người niệm Phật. Nhưng thực sự trong thời mạt pháp này tìm ra một người nhất tâm bất loạn thì tìm không ra! Vì sao? Vì căn cơ quá hạ liệt! Nếu ta đem những lý đạo nhiệm mầu của “Lý nhất tâm bất loạn” ra mà nói với chúng sanh, nhiều khi nói thì hay mà chính ta không “Nhất tâm bất loạn” được, thì làm sao người nghe đó có thể niệm Phật cho “Nhất tâm bất loạn”? Mà một khi đưa ra một chương trình về “Nhất tâm bất loạn”, thì có thể dẫn tới trở ngại là hàng chúng sanh nghiệp chướng quá nặng, nhưng vọng tưởng của họ lại quá mạnh. Kỳ lạ như vậy! Những người nghiệp chướng nặng thì thường thường có vọng tưởng rất mạnh! Họ mơ mộng rất nhiều! Khi họ thấy điều gì lạ lạ một chút thì vội vã chụp vào. Đưa đến trạng huống là tâm thì thành mà lực thì không có, gọi là “Lực bất tòng tâm”. Đến một lúc nào đó vì sự vọng tưởng lên cao quá, không tự kềm chế được, những sự chứng đắc giảliền nổi lên làm cho họ bị trở ngại!
Như vậy, tại sao người đó bị trở ngại? Tại vì có người đã “Y kinh giảng nghĩa”, không chịu xét căn cơ. Vô tình làm cho Phật cũng phải chịu oan!...
Chính vì vậy, vấn đề “khế Lý - Khế Cơ”, chúng ta phải nắm cho vững. Phương pháp chúng ta tu hành ở đây là tập buông xả. Hãy nghe thật kỹ những lời giảng của ngài Tịnh-Không, Ngài không bắt chúng ta phải “Nhất tâm bất loạn”, mà Ngài khuyên chúng ta “Buông xả”.
Chúng ta tu mà buồn quá? Buông xả cái buồn đi, đừng để cái buồn nó nhập trong tâm nữa. Tại vì buồn nó nhập trong tâm thì ta không thể nào đi về cảnh vui được. Ngày ngày ta buồn thì làm sao sau cùng ta được vui? Đúng không? Rõ ràng!
Nếu mà ta còn giận, phải bỏ cái giận đi. Tại vì bỏ cái giận đi thì tập khí địa ngục, nhân chủng địa ngục nó không vướng vào trong tâm ta nữa, thì tự nhiên ta rời cảnh địa ngục ra.
Ta không còn quyến luyến gì nữa, để chi? Để cho những cảnh thế gian này nó không bám vào trong tâm của ta nữa... Ngài giảng rất là hay, tuyệt vời!...
Ngài không nói là ta đưa ra chương trình này đại chúng phải tu tập trong ba năm, hai năm phải nhất tâm bất loạn, mà Ngài nói hãy cố gắng niệm Phật, nếu nhất tâm bất loạn được thì tốt, nhưng chủ yếu Ngài dạy phải BUÔNG XẢ - BUÔNG XẢ,càng BUÔNG XẢ chừng nào thì mình càng tiến gần tới chỗ “Nhất tâm bất loạn” đó. Cho nên lời giảng của ngài Tịnh-Không, vô cùng tuyệt vời mà nhiều người không hay.
Nếu sơ ý, ví dụ như tại đây ta đưa ra một chương trình lập công cứ. Nếu bảo rằng, sau khi xong công cứ này quý vị sẽ “Nhất tâm bất loạn”. Khi thực hiện công cứ xong, thì chính mình không nhất tâm bất loạn, thì làm sao một người nào đó nhận cái công cứ làm mà có thể nhất tâm bất loạn được? Nhưng nêu lên chiêu bài này, vô tình ngày nào họ cũng cứ nghĩ: Nhất tâm! Nhất tâm! Nhất tâm!... Đến một lúc nào đó cái “Nhất tâm giả” nó hiện ra! Khi mà nhất tâm giả hiện ra, thì xin thưa thực, đã không còn cứu vãn được nữa rồi!
Trong Email của chúng tôi bây giờ có cũng gần 600 cái thơ, tôi không dám mở. Tại vì trong 600 cái thơ đó, ít ra cũng có bốn, năm chục hay nhiều hơn nữa, những người bị nạn. Tại vì sao? Tại vì tu hành không lựa căn cơ. Cứ nghĩ mình là căn cơ cao không hà! Cứ tìm những cảnh chứng đắc này, chứng đắc nọ không hà! Khuyên hoài mà không chịu nghe. Đến lúc bị nạn rồi, bị dội vào tường rồi mới chịu nghe. Một khi bị dội vào tường thì bể đầu rồi, làm sao mà có thể còn tỉnh táo được nữa để nghe? Khổ là khổ chỗ này!
Cho nên, vấn đề “Y kinh giảng nghĩa”, thì “Y kinh” nhưng mà cũng phải biết “Y theo căn cơ” nữa mới được.
Ngài Ấn-Quang nói, kinh điển của Phật, giáo pháp của Phật, pháp môn nào cũng vi diệu cả, nhưng phải biết ứng hợp với căn cơ thì mới sinh diệu dụng.Chính vì vậy, mà chúng ta tu ở đây phải lựa căn cơ thấp nhất để đi cho được vững vàng. Bằng cách gì? Xin chư vị cố gắng chuyên cần, tinh tấn. Công cứ là cách cho chúng ta chuyên cần. Thay vì chúng ta đi chơi một ngày hai buổi, thôi thì bỏ đi chơi một buổi, còn một buổi niệm Phật, niệm được câu nào ráng niệm, gọi là “Năngnhặt chặt bị”. Mót lần mót lần công đức để gom lại cho lúc chúng ta lâm chung, gỡ được ách nạn nào hay ách nạn đó. Ách nạn còn lại ít một chút, phước báo tăng một chút, thì những người đồng tu sẽ giúp cho chúng ta vãng sanh Tây Phương, giúp cho chúng ta niệm Phật, họ hộ niệm cho chúng ta dễ hơn. Còn nếu chúng ta ỷ y vào người hộ niệm, không chịu lo niệm Phật, thì cái nghiệp chúng ta quá nặng, mà công đức của chúng ta quá ít, nhiều khi ban hộ niệm tới giúp chúng ta không nổi, và chúng ta vượt ra ách nghiệp không được!...
Xin phải lo trước. Đây là phương pháp tu hành của hàng hạ căn hạ cơ. Hãy quyết lòng tinh tấn, mà cũng quyết lòng tìm người hỗ trợ nữa. Chúng ta đang đi con đường gọi là “Chắc trong chắc!”.
Mong cho chư vị chú ý. Nhất định: Niệm Phật: Khế Lý. Hộ Niệm:Khế Cơ. Chúng ta quyết lòng cùng nhau vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 42
Nam Mô A-Di-Đà Phật
Chương trình nói về Khế Lý - Khế Cơ đã đến tuần cuối cùng. Hôm nay có câu hỏi như thế này:
- Niệm Phật nhất tâm bất loạn thì tốt chứ có gì đâu mà lo sợ!....
Câu hỏi này rất là hay và cũng khá cao!
- Thật ra thì chúng ta không có lo sợ “Nhất tâm bất loạn”, mà chúng ta lo sợ “Người tham nhất tâm bất loạn!”.
- Trí huệ khai mở thì ta không sợ, nhưng mà sợ “Người tưởng rằng mình đã khai mở trí huệ!”.
- Phật ta không sợ nhưng mà sợ “Người cho ta đã thành Phật rồi!”.Mấy vấn đề này khác nhau.
Khi đưa ra một chương trình tu tập để “Nhất tâm bất loạn”thì đối với những người căn cơ cao, chư đại Bồ-Tát là chuyện bình thường không có gì lo sợ, nhưng mà lo sợ cho những người căn tánh hạ liệt, nghiệp chướng sâu nặng. Người căn cơ cao, tâm đã định, thì “Nhất tâm bất loạn” đối với họ là chuyện đương nhiên. Còn những người căn tánh hạ liệt mà nói về “Nhất tâm bất loạn”thì gọi là không “Khế cơ”,có thể đưa đến chỗ chướng ngại! Chính vì vậy, những chương trình “Nhất tâm bất loạn”, ít khi người ta phổ biến rộng rãi, mà thường thường chỉ phổ biến nội bộ, nội bộ trong những người căn cơ cao, vì khi đã “Nhất tâm bất loạn”thì chỉ nhìn là họ đã biết rồi.
“Nhất tâm bất loạn”là “Chứng đắc”.Khi đã chứng đắc rồi thì không còn gì có thể ngăn ngại đối với họ nữa. Cho nên chỉ nhìn nhau là người ta biết, chứ không phải cần khoe ra, nói ra, hay là mình diễn tả những cái đó mới chứng tỏ mình đã “Nhất tâm bấtloạn”hay “Chứng đắc”đâu.
Hôm trước, có người đã báo cho tôi biết rằng, có một người viết một bài báo đăng lên với bút hiệu là Diệu Âm, diễn tả cảnh giới “Nhất tâm bất loạn”.Năm ngoái tôi cũng có nghe một lần, năm ngoái hay năm kia gì đó(?), rồi năm nay lại nghe một lần nữa. Tôi mới vội vã viết lên một thông báo là: “Chớ nên hiểu lầm!”. Trong đó tôi xác định rõ rệt là người viết đó không phải là tôi. Có thể là một người trùng bút hiệu hay trùng pháp danh gì đó viết lên như vậy, chứ còn chính tôi là Diệu Âm đây không có được cái cảnh giới nhất tâm bất loạn.
Ta thực sự lo sợ cho những người không có khả năng nhất tâm bất loạn mà tham vào cái danh nhất tâm bất loạn, nó dễ đi vượt qua cái đà của họ mà thường thường sau cùng bị trở ngại! Ta tu hành ở đây ráng cố gắng chuyên cần tinh tấn, khi ta được nhất tâm bất loạn thì mừng, người nào được thì mừng cho người đó. Nhưng mà đưa ra một chương trình, hay một thời hạn, hay là một cái quy tắc nào đó để cho nhất tâm bất loạn thì nhất định sẽ bị trở ngại! Tại vì nhất tâm bất loạn là cảnh chứng đắc, nó không có một cái quy tắc nào giống như hai với hai là bốn, theo đó ta cứ cộng lại nó thành bốn. Không phải!
Trong kinh A-Di-Đà, Phật có nói là từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người căn cơ cao người ta niệm Phật một ngày có thể nhất tâm bất loạn, người căn cơ thấp thấp một chút niệm bảy ngày có thể nhất tâm bất loạn. Nhưng thực ra cái “Nhất tâm bất loạn”này, theo như Hòa Thượng nói, là A-Di-Đà Phật gia trì trong lúc chúng ta xả bỏ báo thân. Đây là sau khi Phật gia trì rồi.
Chứ đúng ra trong kinh A-Di-Đà của ngài Huyền-Trang dùng pháp trực dịch, nghĩa là dịch sát nghĩa từng chữ từng chữ là “Nhất tâm hệ niệm”, tức là chúng ta cứ chuyên lòng một câu A-Di-Đà Phật, niệm cho tới cùng, giống như trong kinh Vô-Lượng-Thọ là “Nhất hướng chuyên niệm”, hai danh từ giống nhau. Còn nhất tâm bất loạn chính là cái lòng chân thành, chí thành chí kính của mình niệm Phật, thì được Phật phóng quang gia trì nâng đỡ cho chúng ta, lúc đó chúng ta chỉ còn một câu A-Di-Đà Phật, nhờ đó mà ta được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Cho nên câu hỏi này rất là hay. Khi chúng ta tu hành như thế này phải có sự khiêm nhường tối đa, để tránh tình trạng vượt qua khả năng của chính mình thì mới an toàn được. Nếu chúng ta sơ ý, nhất là những người ưa nghiên cứu, khi nghiên cứu thì thường thường gặp những kiểu nói ở những cảnh giới cao quá. Họ quên rằng, khi đưa rộng ra thì trong xã hội có rất nhiều hạng người, có những người căn cơ cao thì hiểu được(?). Có những người căn cơ không cao, nghe những lời đó sẽ dễ sinh ra vọng tưởng. Cái vọng tưởng này sẽ thâm nhập vô trong tâm của họ, đến một lúc nào đó, người ta không biết đó là vọng tưởng! Chuyện này là sự thật!...
Ngài Hạ-Liên-Cư nói: “Niệm Phật không được cầu nhất tâm bất loạn”.Có nhiều người than phiền rằng, tôi niệm Phật mà sao cứ vọng tưởng hoài, không bao giờ hết vọng tưởng. Thì Ngài lại nói: “Niệm Phật không được cầu cho hết vọng tưởng”. Lạ lắm! Rồi Ngài nói: “Niệm Phật để cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Đem ý này so sánh với lời giải của ngài Tịnh-Không, Ngài nói rằng, niệm Phật, một lòng niệm Phật đến lúc lâm chung A-Di-Đà Phật gia trì chúng ta được “Nhất tâm bất loạn”. Thì lời nói của ngài Hạ-Liên-Cư cũng giống như vậy... “Niệm Phật không được cầu nhất tâm bất loạn, niệm Phật không được cầu hết vọng tưởng”. Vọng tưởng sao cũng kệ nó, cứ cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc đi, khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì không nhất tâm bất loạn cũng được nhất tâm bất loạn. Hai câu nói có ý nghĩa tương đồng với nhau.
Cho nên khi có những người đưa ra cái chương trình này, chương trình nọ để đại chúng làm theo cho “Nhất tâm bất loạn”. Nếu suy nghĩ cho thật kỹ thì đây đúng là một sự sơ suất! Tại sao? Ví dụ như, ngài Tuyên-Hóa, Ngài gặp Hòa Thượng Quảng-Khâm là hai vị đại Tôn-Sư thời đại, hai người gặp nhau, ngài Quảng-Khâm giơ tay lên: “Như Thị”, Ngài nói như thị thôi. Ngài Tuyên-Hóa cũng giơ tay lên: “Như Thị”. Các Ngài lặng lẽ không nói gì nữa cả. Các Ngài đã biết hết trơn rồi, chứ đâu có nói là tôi thì chứng như thế này, chứng như thế nọ, thì tôi mới nhất tâm bất loạn đâu? Tôi mới minh tâm kiến tánh đâu? Các Ngài thấy hết trơn rồi...
Đại Sư Vĩnh-Minh đời nhà Tống, Ngài gặp một vị Hòa Thượng tai dài, ăn mặc xốc xếch, thật ra vị Hòa Thượng đó là Định-Quang Cổ Phật tái lai trong thời đó. Hai Ngài gặp nhau làm thinh không nói gì hết. Một ông thì xồng xộc lên ngồi hàng ghế trên. Khi mãn tiệc về rồi, nhà vua hỏi, hôm nay ta cúng dường trai tăng có vị Thánh Nhân nào đến không? Thì ngài Vĩnh-Minh mới thố lộ:
- Thưa có.
- Ai vậy?
- Cái ông già lếch xếch đó, ngồi ở trước đó. Đó là Định-Quang Cổ Phật tái lai.
Các Ngài biết hết trơn rồi. Không bao giờ nói ra hết. Chính vì vậy mà ta muốn cho “Nhất tâm bất loạn”, không có cái gì khác hết hơn là chư vị “Thành Tâm - Chí Thành - Chí Kính”, những gì mà trước nay chúng ta đã nói ra chính là để cho chúng ta được vãng sanh về Tây Phương. Khi vãng sanh về Tây Phương thì…
- Không nhất tâm cũng nhất tâm.
- Không chứng đắc cũng chứng đắc.
- Không khai ngộ cũng khai ngộ.
Đâu cần lo gì đến chuyện như bây giờ chúng ta phải bàn luận là nhất tâm hay nhị tâm...
Cứ một lòng niệm Phật Tín-Hạnh-Nguyện nhất định như ba cái chân vạc vững vàng. Tín thì quyết lòng khôngnghi.Những người nào mà nghi, thì cái Tín đó nó đã quẹo lại rồi! Cũng giống như chân vạc, ba cái chân vạc, một cái chân Tín bị quẹo, thì cái vạc nó sẽ ngã ầm xuống liền. Không được! Không nghi là không nghi! Nhiều người cứ ưa nghi lắm... Nghi là chết! Nghi là tiêu! Nghi thì tu năm chục năm coi chừng không được vãng sanh! Mà không nghi thì tu ba ngày thôi, vãng sanh...
Có những người tu rất lâu mà vì mối nghi này không phá được. Không phá được nên sau cùng mất vãng sanh. Từ mối nghi này nó phá hết tất cả những cái khác. Vì nghi nên tu hoài tu hoài mà thiện căn không lên. Thiện căn không lên thì phước đức không có. Phước đức không có thì trong lúc đó nghiệp chướng cứ tràn... tràn... tràn lên. Một năm có 365 ngày, ta có hết 300 ngày giúp cho nghiệp chướng tăng trưởng rồi. Còn lại 65 ngày tu, thì một ngày tu chỉ có một giờ. Nghĩa là 65 ngày tu hành, thì có tới hơn 60 ngày để tăng trưởng cái nghiệp nữa rồi, còn cái phước chỉ có chưa tới năm ngày. Năm ngày làm sao địch được với 360 ngày? Chính vì vậy mà sau cùng ta bị trở ngại! Cho nên phải tin cho vững.
Phật nói: “Một câu A-Di-Đà Phật niệm, dẫu cho mười niệm mà không được vãng sanh ta thề không thành Phật”. Cứ quyết tâm niệm Phật để lúc nằm xuống nhất định ta niệm cho được mười câu A-Di-Đà Phật. Phải quyết lòng niệm cho được. Nếu không quyết tâm bây giờ, nhất định lúc đó một niệm ta niệm cũng không vô. Chắc chắn! Tại vì bây giờ còn tỉnh táo như thế này mà không tin, thì lúc đó làm sao mà mình tin? Mà không tin thì phước đức không có. Phước đức không có thì nghiệp chướng tăng. Về nghiệp chướng, hôm trước mình nói rồi, trong nghiệp chướng nó có oan gia trái chủ chướng, hai cái đó nó sẽ tấn công mình đến nỗi không còn một niềm tin nào có thể khởi lên, thì bây giờ có một ngàn người tới hộ niệm cho chúng ta, chúng ta cũng chìm trong cảnh giới đó mà đi đọa lạc. Cho nên quyết lòng không được “Nghi”.
“Nguyện vãng sanh”. Nguyện vãng sanh thì phải tập buông xả thế gian ra, đây là lời Hòa Thượng Tịnh-Không nói. Ngài không dạy chúng ta là phải quyết lòng nhất tâm bất loạn, mà phải quyết lòng buông xả. Tại vì buông xả thế gian ra thì chúng ta bám chặt vào Tây Phương Cực Lạc, về Tây Phương Cực Lạc thì không nhất tâm cũng nhất tâm. Nói đi nói lại, thực ra các Ngài giảng giống hệt với nhau, mà chỉ là cách nói khác thôi, chứ không có gì hết.
“Hạnh”. Hạnh là niệm câu A-Di-Đà Phật. Tranh thủ niệm câu A-Di-Đà Phật. Mình thấy một sự chứng minh cụ thể là hôm trước, một bà Cụ tuần trước đó thì con cái dẫn bà tới đây để nhờ mình hộ niệm. Mình dặn rõ ràng, mình năn nỉ bà Cụ:
- Bác ơi! Bác về cố gắng niệm mỗi ngày: sáng năm chuỗi, trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi...
Mười lăm chuỗi thì mới có một ngàn rưỡi chứ mấy đâu à. Ấy thế mà suốt trong mười ngày sau không niệm một chữ. Rõ ràng không niệm một chữ!...
Bây giờ không niệm, lúc đó làm sao niệm? Bây giờ mình khỏe ru thế này mà không tập niệm, làm sao lúc mình nằm xuống mà niệm được? Lúc mình nằm xuống thì cái lưỡi mình đã đớ rồi, hay gọi là cấm khẩu đó. Niệm Phật mà những người bị trúng gió, á khẩu không được vãng sanh. Trúng gió tức là các cơ của mình đã bị đớ rồi niệm Phật không được. Có nhiều người còn cẩu thả như thế này nữa chứ!...
- Cái miệng tôi niệm không được mà cái tâm tôi niệm được.
Đâu có được! Những sợi dây thần kinh nó đã liệt rồi, đến nỗi nó điều khiển cái lưỡi không được làm sao nó điều khiển cái tâm? Thì tất cả những cái đó nó chìm trong sự mê man bất tỉnh không biết gì nữa cả. Còn tâm nào đâu nữa mà niệm?
Xin đừng có cẩu thả chuyện này. Phải tập niệm ngay từ bây giờ. Cho nên tôi thấy công cứ nó hay vô cùng. Quý vị niệm mà không lập công cứ... mình thì cứ tưởng niệm giỏi, nhưng hãy mở cái công cứ ra mà ghi thử coi? Trời ơi!... Sao mà trống rỗng thế này nè! Một ngày mình niệm chưa đến một ngàn câu Phật hiệu. Một ngàn câu Phật hiệu thì làm sao điền xong được một tờ công cứ đó? Thấy thế mới giựt mình! Thôi thôi! Ngày mai tôi sẽ ráng niệm hai ngàn, ba ngàn. Công phu tự nhiên tăng lên. Tăng lên như vậy thì tự nhiên một tháng sau ta tô tràm tờ công cứ đó. Điều này chứng tỏ là công phu niệm Phật của mình đã tăng lên.
Có bắt đầu đi thì tự nhiên thành công đến. Không chịu bắt đầu đi, thì cứ đứng yên tại chỗ. Dòng đời lúc nào cũng tiến, mình đứng lại tức là lùi. Đạo pháp cũng vậy, lúc nào cũng phải tiến, nếu không tiến thì lùi. Nhất định đây là cái quy luật của pháp giới.
Chính vì vậy, muốn cuối cùng mình niệm được câu A-Di-Đà Phật, thì phải tập sự ngay từ bây giờ. Đừng nghĩ tới chuyện “Nhất tâm bất loạn” làm chi. Hãy nghĩ tới chuyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhất định nếu chúng ta hạ quyết tâm từ bây giờ thì chắc chắn con đường vãng sanh không thể nào A-Di-Đà Phật bỏ rơi ta được...
Tại vì ta lơ là, bỏ rơi con đường vãng sanh, nên dù Ngài thương chúng sanh tới đâu mà cũng không cứu được là như vậy đó!...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa đàm 43
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Được vãng sanh về Tây Phương chủ lực là do Công Phu tu hành của mình và điều cần thiết là được “Hộ Niệm”trong những giờ phút cuối cùng để chúng ta vượt qua tất cả ách nạn mà vãng sanh về Tây Phương. Muốn vượt qua khỏi ách nạn thì trong lúc tu hành này cố gắng tinh tấn, chuyên cần, phát tâm dũng mãnh. Một lần phát tâm như vậy thì tai ách sẽ biến đi, mất đi.
Cho nên...
- Một cái phiền não xảy ra thì có nhiều cái phiền não khác tiếp theo đó mà xảy ra.
- Một sự phát tâm tinh tấn thì tự nhiên quang minh của Phật gia trì làm cho chúng ta vượt qua nhiều ách nạn để thành tựu.
Hôm nay chúng ta bắt đầu trả lời những câu hỏi. Những câu hỏi này thấy đơn giản nhưng thực sự hay, có thể có nhiều người muốn hỏi tới. Câu hỏi như thế này:
- Tôi tu hành thì Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ, quyết lòng vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhưng mà tôi ăn chay trường chưa được, tiếc là tôi chỉ ăn có mười ngày thôi. Kẹt dữ quá! Như vậy có được vãng sanh hay không?
Không biết ở trong cái kẹt này có cái kẹt “Thèm” không hé?... Câu hỏi này làm cho tôi nhớ, có một lần tôi đi về Việt-Nam, khi đi đến một vùng nọ, thì có một chị đó hỏi:
- Anh Năm ơi! Bây giờ nhờ anh giúp giùm tôi, tôi ăn chay trường nhưng tôi không dám nói người ta biết. Tôi mắc cỡ!... Rồi hôm đó người ta mời tôi đi ăn giỗ. Trời ơi! Cái bà chủ nhà cứ gắp thịt bỏ đầy chén của tôi... Tôi ăn chay trường mà bà đó không biết, cứ gắp thịt bỏ đầy chén của tôi. Bây giờ làm sao đây?
Tôi trả lời:
- Thì ăn ngon chứ sao?...Tại vì trước đó mình ăn thịt thấy ngon, bây giờ mình mới phát tâm chay mà còn mắc cỡ, tức là giả đò phát tâm chứ có phát tâm thiệt đâu? Vậy khi họ mời thịt thì mình cứ ăn cho ngon, chứ mắc mớ gì đâu mà sợ!...
Trở lại câu hỏi này. Hòa Thượng Tịnh-Không đã có trả lời chuyện này, Ngài nói trong ba bộ kinh, gọi là Tịnh-Độ Tam Kinh, Phật nói: “Tín-Nguyện-Hạnh”vãng sanh, chứ Phật không nói ăn chay trường để vãng sanh.Cho nên quý vị mà còn thèm thịt thì không sao hết, yên chí đi! Ngài dặn là tuyệt đối đừng có sát hại sinh vật. Như vậy bây giờ mình thèm thịt quá thì mình hãy ra ngoài shop, ngoài chợ... mua đem về ăn, để tránh đi cái tình trạng trực tiếp sát sanh. Mình dùng“Tam tịnh nhục”để ăn.
Trong pháp gọi là “Trai Chay”, có ba phẩm. Phẩm Hạ gọi là ăn tam tịnh nhục; phẩm Trung là ăn chay trường; còn phẩm Thượng là thêm phần phóng sanh nữa, nó có ba đợt như vậy. Nếu ta ăn chay trường không được thì có thể ăn tam tịnh nhục. Nhưng nếu có nhiều người ăn chay không được thì mình khuyên nên ăn hai ngày một tháng... Hai ngày một tháng được, thì thôi bốn ngày có hơn là bao nhiêu đâu? Thêm hai ngày nữa đi. Tiến lần, tiến lần lên...
Phát một cái tâm ra thì 84.000 chướng nạn mất đi. Mình phát một cái tâm “Ăn chay trường” ra thì có thể giảm được cho mình 84.000 chướng nạn. Hay vô cùng! Rồi khi ăn chay như vậy, tự nhiên cái tâm từ bi của mình mở ra. Tâm từ bi mở ra, thì khi gắp miếng thịt lên, nhìn miếng thịt hình như mình thấy có một bài pháp. Bài pháp gì? “Ai xẻ thịt mình ăn mà mình lại xẻ thịt con vật ra ăn?”. Tự dưng cái “Tâm bất nhẫn” mình phát lên một lần nữa. Phát một cái tâm từ bi thương chúng sanh, 84.000 chướng nạn theo đó lại mất nữa. Cũng như, một cái phiền não khởi ra nó duyên tới 84.000 phiền não khác tiếp tục nổi ra làm cho mình tai họa, thì phát một cái tâm thiện lành ra, có 84.000 phước đức đến với mình. Cứ vậy mà nó tăng lên. Cho nên khi đến một thời điểm nào đó, chúng ta sẽ thấy, khi cầm miếng thịt của con vật lên ăn, mình sẽ rơi nước mắt liền! Đó là lúc mà tâm từ bi của mình đã mở ra rồi đó. “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, là chỗ này.
Trở lại vấn đề ăn chay. Thực tế ăn chay là tu bố thí“Vô Úy”. Vô úy là không có não hại chúng sanh, không làm cho chúng sanh đau khổ. Khi mình cầm miếng thịt lên, mình nghĩ con vật này bị một người nào đó đã đâm cổ nó, rồi rót máu của nó ra, rồi xẻ thịt của nó, cắt từng mảnh từng mảnh cho mình ăn!... Mình không trực tiếp làm điều này. Nhưng mà khi nghĩ tới chuyện đó, tự nhiên lòng mình đau đớn! Lòng từ bi của mình làm cho mình cảm thấy bất nhẫn! Khi mình thấy bất nhẫn như vậy thì tự nhiên cái tâm của mình nó sẽ tự khuyên mình: “Đừng nên ăn thịt chúng sanh nữa”, để cho lòng từ bi của mình càng mở rộng ra, mà tâm càng mở rộng chừng nào thì chúng ta lại tương ưng với tính đại thiện đại lànhcủa cõi Tây Phương chừng đó. Nói rõ hơn, mình ăn chay được thì tự nhiên phước phần của mình lớn để được gần gũi với con đường vãng sanh. Mình ăn chay không được thì mình có thể chịu nhiều ách nạn. Nhiều ách nạn thì nếu mình cố gắng vượt qua ách nạn thì cũng vẫn có thể đi về Tây Phương được. Nhưng thực ra, càng nhiều ách nạn là càng có dấu trừ (-) trong con đường vãng sanh về Tây Phương! Càng nhiều phước đức là thêm dấu cộng (+) trên con đường về Tây Phương vậy.
Ngài Tịnh-Không không khuyên ăn chay, nhưng Ngài dạy cứ khuyên người ta niệm Phật đi. Trong gia đình của Diệu Âm có tất cả là mười một người anh em, chết hai người từ lúc nhỏ còn lại chín người. Chín người, Diệu Âm không bao giờ khuyên họ ăn chay hết, mà chỉ một lòng một dạ khuyên niệm Phật, quyết lòng vãng sanh, và đi hộ niệm cho người ta. Ấy thế mà hầu hết bây giờ chín người hình như ăn chay trường hết. Lạ lùng không? Chỉ có một ông anh không chịu tu... không chịu niệm Phật. Ổng không chịu niệm Phật thì Diệu Âm cũng lặng lờ. Không khuyên nữa! Không thèm nói nữa! Tại vì nếu trong suốt cuộc đời này mà ông anh đó không niệm Phật thì đến lúc chết xuống, Diệu Âm này cũng chỉ về thăm một người bị đọa lạc, chớ không có cách nào cứu được! Có một người em, em gái làm việc... đen thui à, mà cũng không chịu niệm Phật. Không chịu niệm Phật thì dù thương gì thương cũng đành chờ chết rồi mình về thăm, thăm một người bị đọa lạc, chứ không cứu được! Thật sự là đời này ai tu nấy chứng, ai làm lành được hưởng phước, ai làm ác phải chịu nạn. Không ai cứu ai được cả. Chính Phật cũng chỉ dẫn giải chúng ta con đường đi. Chúng ta theo được, theo càng sát thì chúng ta càng dễ được giải thoát. Thế thôi!...
Cho nên, những người nào thực sự không ăn chay được, thì biết rằng đây là một cái yếu của mình. Vậy thì có thể tăng những cái ưu điểm khác lên. Tăng cái gì? “Tín tâm cho vững, quyết lòng tin tưởng Phật pháp, nguyện vãng sanh tha thiết”. Tại vì một lần ăn một miếng thịt thì mình vướng cái nợ của chúng sanh. Vậy ta phải làm sao về cho được tới Tây Phương để tìm cách cứu họ, chứ còn không thì, như ở trong kinh Phật có nói một câu, dù không liên quan gì đến chuyện ăn mặn nhưng cũng gợi cho chúng ta một suy nghĩ, khi có người cúng dường cho ta... Hòa Thượng thường hay nói:
- Một hạt gạo của thí chủ nặng như núi Tu-Di, đời này không liễu đạo thì đời sau mang lông đội sừng mà trả.
Thì bây giờ đây ta ăn miếng thịt của chúng sanh cũng vậy. Nếu chúng sanh tự nguyện cúng dường cho chúng ta, chúng ta ăn mà còn có thể bị nợ như thế, thì huống chi nó không đành lòng cúng dường? Mà ngược lại, chúng ta còn ép buộc nó, đập nó, giết nó để xẻ miếng thịt của nó ra ăn, thì coi chừng món nợ này nó sẽ tìm cách đòi... Cho nên, ta phải tìm mọi cách để về Tây Phương cho được. Chính vì vậy Hòa Thượng mới nói “NÊN ĂN CHAY” để giảm bớt cái nghiệp của chúng ta...
Còn vấn đề “Tam tịnh nhục” là như thế này:
- Con vật đó không vì ta mà chết.
- Ta không nghe tiếng nó kêu.
- Ta không thấy nó chết.
Tức là khi người ta giết, ta không thấy; nó đau đớn khi bị người ta giết, ta không nghe và không phải vì mình mà nó chết. Thì những món ăn ở đó có thể là tam tịnh nhục. Nhưng cũng coi chừng, khi mình khởi cái tâm thèm miếng thịt, thì mình đã vướng tới cái nạn: “Giống như mình lập lờ để nó bị giết đi, để có miếng thịt cho mình ăn”, thì cũng có thể vướng!... Nhưng so ra cũng nhẹ đi phần nào!
Chính vì vậy, mà quý vị cứ yên chí. Hãy quyết lòng thành tâm niệm Phật cho nhiều. Đừng bao giờ cho rằng đủ. Khi niệm Phật thật là chí tâm, thật là thành kính, đến một lúc tự dưng chúng ta ngộ ra... Lúc đó chúng ta sẽ ĂN CHAY TRƯỜNG thôi.
Sẵn đây xin kể một câu chuyện hết sức là thực tế, của chính Diệu Âm. Có một năm đi về Việt Nam. Thường thường thì cô Kim Ngọc mua vé. Bữa đó Diệu Âm đi ra mua vé. Thày lay đi mua vé mà quên dặn người ta làm món chay. Chừng lên máy bay rồi mới trực nhớ. Ôi chao! Bây giờ làm sao đây hén? Đến buổi ăn sáng, mới nói với ông cho ăn:
- Ông giúp tôi miếng ăn chay được không?
Ông nói,
- Để coi thử coi?...
Tức là ông đi tìm cho mình mấy miếng bánh mì, rồi mấy cái gì đó, rau cỏ gì cũng được. Tới bữa trưa, thì hỏi tiếp:
- Ông có thể giúp tôi miếng rau gì đó được không?
- Không! Khôngđược!... Bây giờ, một là thịt gà, hai là thịt bò, ba là cá. Ông muốn cáinào?
Thì ba món, mình phải chọn một món, chứ làm sao bây giờ? Tôi nói:
- Thôi thìcho tôi cá...
Tức là, một đĩa đồ ăn, nửa miếng cá, rồi nửa miếng cơm. Không có rau! Ban đầu tôi vẹt miếng cá ra để ăn cơm. Ăn cơm xong thì thấy miếng cá trắng phau! Đẹp quá... Tôi mới nghĩ:
- Ủa! Hồi trước mình cũng ăn cá, tại sao hôm nay thấy món cá lại ngại? Ồ! Sao miếng cá này nó... nó trắng phau, đẹp quá!... Thôi làm một miếng thử coi?...
Tôi lấy tiêu rắc rắc lên cho nhiều. Mà nên nhớ, lúc đó tôi đã ăn chay trường rồi đó nghe... Tôi lấy cái muỗng múc một miếng cá (rất nhỏ) để ăn thử coi?... Quý vị biết không? Một miếng cá tí tẹo như thế này thôi, một miếng bằng đầu ngón tay út thôi... bỏ vào miệng... Trời ơi! Một chút xíu nữa là tôi làm ra đầy hết cả cái… cái... cái sàn máy bay của người ta rồi! Ói mửa đó. Muốn ói liền lập tức! Không chịu nổi!... Trời ơi!... Tôi chụp nhanh cái... cái túi, tôi ói vô trong đó liền!...
Thực sự, khi mình biết ăn chay rồi, ngửi tới miếng thịt chịu không nổi! Ngửi tới miếng cá chịu không nổi! Mà nhiều khi, vừa nhìn thấy miếng cá thì mình muốn rơi nước mắt rồi!... Thì làm sao mà ăn được? Lúc đó cái tâm từ bi của mình nó đã phát ra rồi...
Vậy thì, những điều này xin quý vị cứ để tùy tâm, đừng nên ép. Nhắc như vậy cũng có nghĩa là, những người nào mà ăn chay trường rồi, đừng nên tự vỗ ngực xưng tên rằng mình sẽ được vãng sanh. Không phải đâu! Đây chẳng qua là cái phước của mình. Có phước thì phải tận hưởng cái phước đó khi lâm chung. Chứ không thôi, một khi mình vỗ ngực ỷ lại, thì sự ngã mạn này nó tàn phá hết tất cả cái phước mình rồi đó.
Nói như vậy để cho chúng ta biết mà điều chỉnh đường đi. Nhất định, “Cứ một câu A-Di-Đà Phật mà niệm đi, chân thành đi... Tất cả sẽ được ánh sáng của Phật soi rọi cho cái tâm của chúng ta, ta đi sẽ đúng đường thôi”...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 44
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trước khi trả lời câu hỏi của ngày hôm nay, Diệu Âm xin đọc một cái tin mới, tin này vui chứ không có buồn, tin viết như thế này:
A-Di-Đà Phật, xin hoan hỷ báo tin cùng chư vị liên hữu, cư sĩ Diệu Âm Úc Châu, các vị Phật tử. Cụ Bùi Văn Truyện, ở xóm 3, Kim-Chính, Kim-Sơn, Ninh-Bình, Việt Nam, đã được đức A-Di-Đà Phật cùng Bồ-Tát Thánh-Chúng gia trì và đã được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngày 7/3/2011 với tướng hảo tuyệt vời, da dẻ hồng hào, toàn thân chân tay mềm mại, lạnh toát và hơi nóng phát ra ở đỉnh đầu dưới sự chứng kiến của Sư Cô, ban hộ niệm Hà-Nội, chị Nguyệt đội trưởng. Thay mặt gia đình kính gởi cư sĩ, các ban hộ niệm, chư vị liên hữu đồng tu lời tri ân.
A-Di-Đà Phật,
Minh Đạt.
Anh Minh Đạt là người ở bên cộng hòa Séc, anh đang định tổ chức phái đoàn của Âu Châu qua đây, không biết chừng nào qua? Khi nào qua thì quý vị có thể hỏi anh ta rõ hơn. Anh Đạt này là một trưởng lão của hội Phật giáo ở cộng hòa Séc. Bây giờ anh ta dùng cái nhà của anh để làm Niệm Phật Đường và anh cố gắng cộng tu giống như đạo tràng A-Di-Đà ở đây. Tất cả những bài cộng tu đều gửi qua cho anh hết. Khi gặp anh vào năm ngoái... hay năm kia gì đó. Mới đây mà hai năm rồi. Anh quyết lòng buông hết để niệm Phật. Bây giờ các vị trong hội Phật giáo bên đó cũng áp dụng theo phương thức niệm Phật này. Từ khi bắt đầu áp dụng phương thức hộ niệm, thì đây là người đầu tiên của anh.
Cụ Bùi Văn Truyện là người trong gia đình của anh, hổm nay mình có hồi hướng cầu an. Khi biết được hộ niệm vãng sanh thì Cụ tin tưởng vững vàng và quyết lòng về Tây Phương, không ý kiến gì hết. Bây giờ kết quả là vậy đó. Vì đây là tin vui đầu tiên của anh Đạt, nên cũng hoan hỷ thông báo lên đây, chứ sau đó thì thôi, đâu thông báo nữa làm chi… Nhiều quá!
Có nhiều người tu suốt cả một cuộc đời, đến sau cùng chưa chắc đã hưởng được cái phước phần ra đi mà thân tướng mềm mại, tươi hồng, toàn thân thì lạnh toát, tay chân thì mềm mại mà đỉnh đầu thì ấm. Không dễ gì đâu à! Nói thực với quý vị… Không dễ gì đâu! Ấy thế mà có nhiều người không tin, cứ lo tìm những phương pháp gì thiệt là hay(?), còn con đường mà đức A-Di-Đà Phật tiếp độ vãng sanh về Tây Phương nằm sát bên mình mà không chịu chộp lấy, để sau cùng lại bám lấy lý luận mịt mờ, để đi đến chỗ mờ mờ mịt mịt nào đó, để lại tướng xấu vô cùng! Hễ tướng xấu là cái tiên triệu báo tin cho tương lai vô cùng mờ mịt!
Biết được chuyện này rồi, xin hãy cố gắng tin tưởng cho vững. Chính niềm tin của mình nó hướng dẫn mình đi đúng. Nếu mình tin mập mờ, mình lý luận này, lý luận nọ, những cái lý luận này nó che mất tương lai giải thoát của chính mình vậy!
Mong chư vị gặp được cơ duyên này phải quyết lòng. Nên nhớ rằng, khi mình đã loan báo, phổ biến chương trình hộ niệm ra rộng rãi chính là để mình cứu người, mà cũng chính là để người cứu lại mình. Thực sự, nếu mình không biết phương pháp hộ niệm thì mình không biết làm sao và làm những gì trong lúc mình xả bỏ báo thân? Mình không biết hộ niệm thì những người chung quanh của mình cũng không biết hộ niệm. Do đó, cứu người thì không biết cách cứu, mà người cứu ta thì cũng không có ai biết làm sao cứu luôn! Cho nên, sau cùng mỗi người tự lực mà đi. Tự lực để chứng đắc, thì xin thưa thực, một vạn người tự lực tìm chưa ra một người chứng đắc, khó lắm!...
Ấy thế mà nương vào đại nguyện của đức A-Di-Đà để hộ niệm cho nhau, dẫn dắt cho nhau, chúng ta từng người từng người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là một cơ hội ngàn vàng đổi không được! Ngàn kiếp tìm không ra! Xin đừng khinh thường chuyện hộ niệm.
Trở lại vấn đề trả lời câu hỏi. Một câu hỏi khác của một vị đồng tu hỏi là:
- Tôi bận bịu quá, nên không dám nhận công cứ có được không?
Câu này nói là bận bịu quá nên không nhận công cứ!... Bây giờ mình có rảnh gì rảnh mà không nhận công cứ thì cũng không ai nói gì mình. Tự nguyện thôi. Ngược lại, mình bận gì bận,nhưng nhận công cứ vẫn được như thường. Vì dù bận gì bận, một ngày mình bận tới hai mươi tiếng đồng hồ, thì ít ra cũng còn được một tiếng để thở, trong lúc một tiếng để thở đó mình cũng có thể cầm cái máy bấm lên bấm… bấm… bấm... mình kiếm được vài trăm câu. Có vài trăm câu để mình ghi vào cái tờ giấy đó. Khi mình treo tờ giấy đó lên tường, mới thấy… À! Tờ giấy này sao mình ghi được mới hai ô à!... Có một ô à!... Vậy thì biết chừng nào mới xong đây? Chưa biết chừng nào xong cái công cứ, thì con đường vãng sanh của mình về Tây Phương nó còn bấp bênh quá!...
Thấy vậy, thì chính mình phải tự lo cho mình. Cũng giống như đưa ra mấy trường hợp hổm nay mình gặp khi hộ niệm đó. Một người mình nói muốn dẻo nước miếng, năn nỉ mỗi sáng niệm năm chuỗi thôi, trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi thôi. Thế nhưng một tuần sau quay lại, hỏi ra thì biết đã không niệm một câu. Mình năn nỉ niệm Phật là để cứu người đó, chứ đâu phải để cho mình có lợi? Ấy thế mà cứ kèo kè bớt một, thêm hai không chịu niệm. Không chịu niệm thì thôi đành chịu thua! Điều đó thật ra mình chỉ mớm mồi để cho người ta phát cái tâm ra, khi phát tâm ra rồi, mình mới nương theo cái tâm đó mà cứu họ. Vậy mà không chịu niệm, lại còn tuyên bố là tôi đã đau bịnh này mấy chục năm nay rồi, nhưng tôi đâu có chết?!... Đùng một cái, mới có ba ngày, chưa kịp tới lần thứ hai để coi thử như thế nào? Mình còn dự định hù dọa thêm một phen nữa để cho người ta niệm Phật. Nhưng chưa kịp hù dọa lần thứ hai thì đã chết rồi. Đau khổ! Bất ngờ! Đúng là: Dép dưới giường lên giường vội biệt, sống ngày nay há biết ngày mai!...
Vậy thì, chúng ta bây giờ chờ cái gì đây? Không bao giờ có thể chờ được đâu!...
Công cứ này là cho ích lợi của chính chúng ta. Tại sao với một người bịnh như vậy mà tôi vẫn cứ đưa cái công cứ cho người ta? Tại vì nhờ công cứ này mà bà Cụ đó niệm Phật, chớ đâu phải đưa cái công cứ đó mà làm tội cho bà ta đâu! Khuyên cho bà ta niệm một ngày niệm năm ngàn nghe. Nếu bà mệt quá, bà niệm chỉ có hai ngàn, hai ngàn thì bà cũng có hai điểm, bà niệm có một ngàn rưỡi thì ít ra bà cũng có được một điểm. Còn không có cái công cứ đó thì cũng niệm, cứ niệm tới... Tưởng là ngon lắm, nhưng thực ra niệm có mấy trăm câu là thấy mệt rồi, là tưởng nhiều lắm rồi! Nó không có cái mức thang để đi. Mà có đi được rồi, thì giống như chiếc xe đã lăn bánh, lăn được rồi thì có trớn để tiếp tục lăn... Lăn đến bờ Giác. Còn không lăn được, thì nó cứ chùi, chùi lần... chùi lần xuống! Giống như trên dòng sông nước chảy, mình phải bơi, mình đi lên thì tự nhiên sẽ lên, còn đứng lại thì sẽ bị lùi xuống. Lùi lại tới chỗ khổ nạn!
Chính vì thế, làm công cứ được thì tốt cho chính mình. Không làm công cứ được thì chính mình có thể dùng phương thức nào khác cũng được. Nhưng thực ra, niệm Phật theo công cứ là vững chắc nhất, an toàn nhất. Khi về nhà, thấy mình cứ niệm niệm niệm, tưởng mình niệm đủ. Nhưng khi dùng đến công cứ, thì mới thấy mình niệm yếu vô cùng yếu! Yếu đến nỗi không thể tưởng tượng được!...
Ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói: Niệm Phật cần sâu, cần thành tâm, chứ không cần nhiều. Nhưng cái tiêu chuẩn của Ngài đưa ra là một ngày niệm ba chục ngàn câu A-Di-Đà Phật. Đây là ít của Ngài đó.
Ấn-Quang Đại Sư nói: Niệm Phật cần phải chí thành chí kính.Buông xả, chí thành, chí kính niệm Phật. Mình tưởng niệm như vậy là đã chí thành chí kính rồi đó!... Chúng ta có biết chăng, tiêu chuẩn của Ngài đưa ra là một ngày niệm năm chục ngàn câu A-Di-Đà Phật đó quý vị ạ! Ngài là một vị đại Tôn-Sư rồi đó! Là vị Bồ-Tát tái lai mà Ngài niệm như vậy đó.
Hòa Thượng Thiện-Đạo đời nhà Đường, Ngài niệm Phật, quý vị biết không? Niệm Phật mà Ngài không dám ngủ, đến nỗi Ngài thức niệm vì sợ không kịp!... Ngài là một vị đại Tổ Sư nghe, Ngài cứ ráng niệm Phật, không ngủ... lâu dần thành quen luôn, suốt 25 năm trường không ngủ đến lúc vãng sanh luôn. Mình làm đâu có được như Ngài! Thực ra mình ngủ mà còn ngáp lên ngáp xuống nữa, chứng tỏ rằng công phu của mình dù có gì đi nữa vẫn còn yếu! Vẫn còn yếu như vậy thì sợ rằng khi lâm chung xuống, nghiệp khổ hiện hành, oán thân trái chủ hiện hành, làm cho chúng ta vượt qua cái ách nạn đó không được. Ta tu như thế này công phu của ta cũng chưa đáp ứng được những lúc mà ta hành hình, sát hại mạng chúng sanh! Cái nợ này chắc chắn chúng ta phải trả và mối thù này họ không đội trời chung, không dễ gì mà họ buông ra. Nếu mình không có thành tâm, nếu mình không quyết lòng đem công đức càng nhiều càng tốt để hồi hướng cho họ, sợ rằng là họ không đoạn đành tha cho mình, thì lúc đó ban hộ niệm tới, chưa chắc sẽ giúp gì được!...
Cho nên quý vị thấy ông Bùi Văn Truyện này, Ông ngộ ra bao lâu? Khi biết được phương pháp hộ niệm của người cháu đem về, chính tôi đã gặp và hướng dẫn cho người cháu này mà. Ở từ bên Âu Châu ông đi về khuyên một lần thì ông Cụ đã quyết đi liền lập tức. “Quyết đi liền lập tức” và “Đi tà tà” hoàn toàn có giá trị khác nhau. Chúng ta mỗi ngày tới đây tu. Tu mà đi tà tà hoàn toàn khác nhau! Một người nào đó vừa nghe câu A-Di-Đà Phật, vừa nghe pháp môn niệm Phật, quyết lòng đi liền lập tức không chần không chờ nữa, mạnh dạn mà đi, hoàn toàn khác nhau.
- Đây là do “Tín năng siêu xuất chúng ma lộ”.
- Đây là do “Tín năng trưởng dưỡng chư thiện căn”.
- Đây là “Tín tâm thanh tịnh tức sanh thực tướng”.
Mình quyết lòng đi tức là tín tâm mình thanh tịnh. Mình không quyết lòng đi tức là tín tâm tà tà, tín tâm ngờ ngờ vực vực, nên không tạo được công đức. Không tạo được công đức, thì hỏi rằng chính mình có bị đọa lạc hay không? Người hộ niệm chẳng qua là thương một chút xíu, than một chút xíu, hay là an ủi gia đình một chút xíu, chứ không cách nào người hộ niệm có thể cứu mình được. Mà chính mình phải mở cái tâm lực mạnh mẽ ra, phát tâm mà đi, đi bằng tất cả mọi cách, thì lúc đó ban hộ niệm sẽ hướng dẫn tích cực. Mình có sót chỗ nào người ta hướng dẫn tích cực, người ta hỗ trợ mình tích cực và A-Di-Đà Phật phóng quang gia trì, chư Thiên-Long Hộ-Pháp phóng quang gia trì, chư vị Oan-Gia Trái-Chủ cảm thông mà để cho ông này đi vãng sanh, để cho mình được lợi...
Tất cả đều do chính mình hết chứ không phải là do một người nào khác. Cho nên công cứ niệm Phật ở đây có phát hành, nhưng mà người nào tham gia thì cứ tự quyền tham gia, không tham gia cũng được, không ai bắt buộc cả. Hoàn toàn chỉ có lợi cho mình chứ không có hại. Nhất định. Cũng giống như khi đi học ở trường, không có bài thi thì mình không bao giờ biết được mình học tới đâu hết, mà có bài thi là tự nhiên mình lo học liền. Lo học nên mình mới đậu, còn một ông thầy không cho bài thi, không cho bài làm thử, cứ để học trò học tà tà... tà tà. Đến lúc học xong rồi, như Hòa Thượng Tịnh-Không nói, học thì thấy ngon lắm, nhưng chừng đi thi thì rớt. Rớt vì không có bài test, không có bài thi thử, không có kinh nghiệm thi. Thì công cứ này cũng giống như bài thi thử cái năng lực của mình. Hãy treo cái công cứ lên bảng, nhìn vô mình biết liền.
Do đó, khi gặp những bà Cụ cầm tờ công cứ tới đây nộp lại, tôi cảm động vô cùng! Thực sự đó chư vị... Cảm động vô cùng! Là tại vì biết bà này quyết lòng đi, còn một bà Cụ mà đưa tờ giấy hộ niệm, hai tháng cũng chưa nộp lại, ba tháng cũng chưa nộp lại, cứ tà tà, tà tà... Viện lý do mệt quá để hẹn nay hẹn mai! Hẹn nay hẹn mai thì công cuộc vãng sanh về Tây Phương nó cũng hẹn lại một kiếp nào đó trong tương lai, chứ nó không đến với mình trong kiếp này đâu. Đây là tại vì mình quá lơ là! Nếu lỡ sơ suất, cơ hội này luống qua thì uổng lắm!... Đây là cơ hội, xin thưa thực, vạn kiếp rồi chúng ta mới gặp đó.
Mong cho chư vị cố gắng quyết lòng mà đi để chúng ta cùng nhau về Tây Phương, chắc chắn, đơn giản, dễ dàng. Chỉ cần đi là tới.
Còn không đi thì vô lượng kiếp về sau, không biết ngày nào mới tới được Tây Phương Cực Lạc…
A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 45
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Mỗi lần chúng ta đi hộ niệm là một lần chúng ta làm giàu kinh nghiệm tu hành để vãng sanh. Khi tham gia một số ca hộ niệm rồi, quý vị mới thấy phương pháp hộ niệm phải cần được mở rộng, phải giao lưu cho rộng rãi, vận động cho đa số quần chúng biết được, có như vậy mới hy vọng cứu được chúng sanh. Nhiều người biết được phương pháp hộ niệm làm cho chính ta cũng an tâm trên con đường vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
Trong mấy tuần qua trên bảng cầu siêu của chúng ta có thêm một số người, trong đó có những người có liên quan tới chúng ta. Tôi xin nêu ra những trường hợp đặc biệt cụ thể để chúng ta rút kinh nghiệm trong con đường cứu người.
Có bốn trường hợp ra đi trong mấy tuần qua, trong đó thì có ba trường hợp ở trong nước, một trường hợp thì ở đây. Trong bốn trường hợp đó, mỗi trường hợp mỗi khác nhau.
- Trường hợp thứ nhất:
Là một vị cũng có duyên với đạo tràng, đã đến đây xin hộ niệm. Ngay lần đầu tiên gặp gỡ, chúng tôi dặn dò rất kỹ, đưa cái bản nội quy, khuyên phát tâm niệm Phật liền, không được chờ và đưa ra tiêu chuẩn rất thấp là cố gắng niệm một ngày mười lăm chuỗi đủ rồi, sáng năm chuỗi, trưa năm chuỗi, chiều năm chuỗi. Đó là cái tiêu chuẩn thấp nhất, vì biết rằng người này không chịu niệm Phật, nhờ cái đà đó mà mình sẽ giải quyết trong những lần sau. Thế mà người đó không chịu niệm, để rồi chúng ta chưa kịp làm gì hết thì vị đó đã ra đi.
Đây là trường hợp người không chịu niệm Phật! Thôi! Đành phải chấp nhận thương đau trong vô lượng kiếp, không cách nào có thể cứu được!
Khi chúng ta tới đây niệm Phật, không phải là thấy ở tại đây có ban hộ niệm thì ỷ lại. Nhiều người có cái vọng tưởng như thế này:
- Ông Diệu Âm hộ niệm hay lắm. Hễ có ổng là vãng sanh!
Điều này hoàn toàn sai lầm! Vì khi gặp tôi, tôi cũng đặt điều kiện rất cứng rắn, là chư vị phải niệm Phật, phải lo niệm Phật ngày đêm thì may ra mới có thể cứu được. Chứ còn không, nên nhớ chính tôi cũng là một phàm phu tục tử, chưa chắc gì giúp ích cho chư vị nếu tự cá nhân chư vị không chịu hạ thủ công phu niệm Phật. Đây là trường hợp thứ nhất đã quá rõ ràng, chúng ta không cần giải thích thêm nữa.
- Trường hợp thứ hai:
Một người đã qua cái tuổi bát tuần, gặp một cơ duyên đọc một quyển sách tự nhiên “Ngộ Đạo!” và lo niệm Phật. Nhưng vừa mới niệm Phật, thì người con mừng quá tới nói với tôi mà rơi nước mắt:
- Trời ơi!... Anh biết không? Cha tôi 76-77 tuổi rồi, từ nhỏ đến lớn chưa biết niệm Phật, mà vừa đọc cuốn sách đó thì phát tâm niệm Phật.
Vui mừng đến nỗi nói mà rơi nước mắt. Thế thì anh đó tìm gửi không biết bao nhiêu là Pháp về cho ông Cụ.
Gặp như vậy tôi chận lại và nói, nếu anh muốn ông Già anh niệm Phật vãng sanh thì anh đừng có gửi Pháp tới nữa, mà hãy lợi dụng ngay cái bộ sách đó, ngay cuốn sách đó, tại có duyên mà. Hãy cứ nương theo đó để củng cố con đường niệm Phật cho ông Cụ, thì dễ cứu ông Cụ vãng sanh.
Người đó không chịu nghe, cứ nói rằng, Pháp này quá hay, tuyệt vời... Nếu không nghe kịp thì làm sao mà vãng sanh? Thế là anh cứ gửi về, gửi về... Tôi nói, nếu anh không nghe lời tôi, coi chừng vài tháng sau ông Cụ không niệm Phật nữa đó. Thật đúng như vậy, khoảng sáu tháng sau, ông Cụ nói:
- Sao mà cái này nói như thế này, cái kia nói như thế kia? Mệt quá! Thôi! Ta không niệm nữa.
Ông Cụ đã nói thẳng thắn rằng không niệm nữa, sau đó trở lại tiếp tục nhậu nhẹt, để cuối cùng thì ra đi trong mê mê mờ mờ. Thật là tăm tối!... Đây là trường hợp thứ hai. Một chuyện cụ thể có tính điển hình để chúng ta rút kinh nghiệm về con đường hướng dẫn hộ niệm vãng sanh.
Đi đường nào phải đi một con đường. Phải chuyên, nhất định không được đa tạp. Mỗi người có một cái “Duyên”. Một cuộc đời của một ông Cụ chưa biết tu, nhưng nhờ thiện căn phước đức hay sao đó không biết, có duyên gặp một bộ sách, đọc được mấy câu rồi phát tâm niệm Phật. Như vậy, chính cái duyên của ông Cụ là tập sách này. Đúng ra thì cứ từ từ để cho ông Cụ niệm Phật đi, mình củng cố con đường niệm Phật cho ông Cụ. Ông phát tâm niệm Phật, niệm Phật thì có thể được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ đâu phải nghe Pháp là vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc? Vì quá vội vã nên hướng dẫn sai! Quyết định sai! Sai rõ rệt! Mình ở đây ngày nào cũng tu, 365 ngày đều niệm Phật, chưa chắc gì mình nghe được cái núi Pháp đó. Giờ đâu mà nghe? Thế thì làm sao có thể bắt một ông Cụ phải nghe? Mà nghe rồi thì sao? Mình tưởng rằng những bài Pháp này đơn giản lắm à? Thực ra, đối với những người mới biết đạo, không thể nào họ tiếp thu dễ dàng được!
Đây là trường hợp không chịu chuyên, không chịu bắt lấy một cái cơ hội. Chỉ có một cái cơ hội đó thôi được vãng sanh. Nếu tạo ra quá nhiều cơ hội khác thì loạn cái tâm đi. Chính vì vậy mà không được thành tựu. Đây thực là một kinh nghiệm đáng giá cho chúng ta suy nghiệm.
- Trường hợp thứ ba:
Cũng rất đáng chú ý để chúng ta rút kinh nghiệm. Cũng là một người biết tu, người con đã biết hộ niệm nhưng lại không chịu nghiên cứu kỹ phương pháp hộ niệm. Khi hộ niệm cho người thân của mình, lại áp dụng phương thức hoàn toàn sai!... Sai ở chỗ nào? Cứ bắt buộc, ép buộc người bịnh phải làm theo ý mình mới được. Đây là cách hướng dẫn hoàn toàn đi ngược với phương pháp hộ niệm cho người vãng sanh.
Sau này chúng ta đi hộ niệm cho một người cũng phải chiều cho được người đó, hãy nương theo ý muốn của người đó để tìm cách chuyển lần, chuyển lần. Phải vận dụng phương tiện, nương theo sở thích của người đó mà giúp cho họ. Giả sử như sau cùng giúp không được, thì cũng tại vì duyên phần của người ta, chứ không cách nào khác hơn.
Ta không thể nào nói rằng, Ba phải nghe như thế này, Mẹ phải nghe như thế kia để được vãng sanh. Hoàn toàn sai lầm! Vì không hiểu, đã áp dụng quá nguyên tắc, đem tới cho người bệnh nhiều phiền não! Mình thì niệm Phật, người bệnh thì phiền não. Chính người bệnh phiền não thì họ bị đọa lạc! Đây cũng là trường hợp cần phải nhớ khi đi hộ niệm.
Nên nhớ, mình thấy điều này hay, mình khuyên bà Cụ, khuyên ông Cụ, khuyên người bịnh nhưng phải biết áp dụng phương tiện thiện xảo, không thể nào quá cứng ngắc.
- Người bệnh nói, tôi niệm “A-Mi-Đà Phật”. Mình nói, “A-Di-Đà Phật” mới được! Mình niệm trái ý người bệnh thì nhất định họ mất phần vãng sanh!
- Một người bệnh nói, tôi niệm “Nam Mô A-Di-Đà Phật”. Mình nói “A-Di-Đà Phật” đủ rồi, bỏ chữ “Nam Mô” đi. Mình bắt người ta phải bỏ chữ “Nam Mô”, người ta mất vãng sanh!
- Một người nào đó họ nhất tâm niệm “A-Di-Đà Phật”. Bây giờ mình thấy âm “A-Mi-Đà Phật” hay quá, mình nói “A-Mi-Đà Phật” mới đúng, không được niệm “A-Di-Đà Phật”. Cưỡng bức người bịnh thì làm cho họ mất phần vãng sanh!
Làm như vậy là ứng dụng sai nguyên tắc hộ niệm!
Nghiên cứu về hộ niệm, chúng ta cần phải đi sâu vào mới thấy. Rõ ràng nó bao trùm cả pháp giới chứ không phải đơn giản. Chính vì không biết uyển chuyển, không chịu để cho người bịnh thoải mái, thành ra sau cùng cũng đành khóc ròng để tiễn đưa người thân của mình đi vào những chốn khổ nạn trong tương lai! Đành chịu thôi, chứ biết cách nào khác hơn?
- Một trường hợp thứ tư:
Xảy ra cũng mới vừa đây, người đó được vãng sanh, mà như hôm qua tôi báo cáo cho chư vị. Thật bất khả tư nghì!
Trường hợp này tôi cũng biết, người này có một người cháu ở bên Tiệp, trong năm ngoái có gặp tôi, học cách hộ niệm rồi về ứng dụng liền. Ông Cụ này không phải là không tu, cũng có tu, nhưng mà tu cũng giống như những người khác. Khi biết được phương pháp hộ niệm, tự nhiên Ông ta phát tâm niệm Phật liền. Nương thẳng vào cơ hội này, Ông ta niệm Phật ngày đêm quyết lòng về Tây Phương, rồi người cháu đó về quê thành lập một ban hộ niệm tại chỗ để hộ niệm cho ông Cụ. Trước đây cỡ chừng ba, bốn tuần, chúng ta có để tên của ông Cụ để cầu an, tiêu tai giải nạn. Bây giờ người cháu đã thông báo rằng ông Cụ ra đi để lại một thoại tướng bất khả tư nghì.
Đây là một trường hợp tích cực để chúng ta rút thêm kinh nghiệm! Tại sao ông Cụ này lại được vãng sanh? Chính là do “Duyên Phần”. Khi gặp được phương pháp hộ niệm nói về vãng sanh, ông Cụ hạ quyết tâm ngay lập tức, buông xả hết tất cả, không sợ gì nữa, quyết lòng niệm Phật. Ông Cụ niệm Phật ngày, niệm Phật đêm quyết định đây là con đường phải đi. Quý vị thấy đó, ban hộ niệm đã hộ niệm được mấy tháng thì vãng sanh. Trước khi vãng sanh ông Cụ vẫn bị đau đớn, vẫn bị khổ sở bởi nghiệp chướng báo hại ông ta cả mấy tháng trường chứ không phải tầm thường. Thế nhưng ông Cụ quyết lòng niệm Phật, kiên trì, không sợ gì hết. Quý vị thấy, một lần phát tâm tự nhiên có sự gia trì.
Chúng ta tới đây hàng ngày niệm Phật với nhau, chúng ta hạ quyết tâm nhưng tu theo kiểu tà tà thì coi chừng thua ông Cụ. Ông Cụ mới phát tâm, hình như là chưa tới hai năm, hơn một năm thôi. Hạ quyết tâm ông Cụ thành tựu. Không hạ quyết tâm, nếu ông Cụ cứ chờ... chờ... chờ!... Chờ thì nhất định bị hại! Chính vì vậy, đây chính là một kinh nghiệm có giá trị đối với con đường giải thoát.
Bây giờ xin hỏi, ta đã hạ quyết tâm chưa? Nếu ta đã hạ quyết tâm, thì chứng tỏ có niềm tin vững. Niềm tin này nó sẽ soi sáng con đường vãng sanh, chứ không phải cứ nói rằng tới đây có ban hộ niệm, ban hộ niệm này sẽ giúp mình... Hoàn toàn không phải. Ban hộ niệm chỉ có hướng dẫn cho mình từng chút từng chút để mình đi.Mình hạ quyết tâm thì:
- Mình tiếp xúc được với quang minh của Phật.
- Mình tiếp nhận được lời khai thị của ban hộ niệm. và...
- Mình theo như vậy, mình đi đúng đường, mình được vãng sanh.
Mình tới đây với lòng hồ nghi!... Hồ nghi! Sự hồ nghi biến thành một cái tấm màn chắn, giống như tấm bảng, tấm chắn đó ngăn cản đường vãng sanh. Quang minh của Phật luôn luôn phổ chiếu tới mình, nhưng quang minh của Ma Vương cũng luôn luôn phổ chiếu tới, tranh giành một cái thân khổ nạn này. Nếu mình không tin tưởng thì giống như có một cái tấm chắn, chận ngang quang minh của Phật lại. Quang minh của Phật vì cái tấm chắn này chiếu qua không được. Khi quang minh của Phật bị chận, thì những quang minh khác tự do tràn ngập. Quý vị có thể tưởng tượng như vầy, ví dụ, có một ánh đèn xanh bên này, một ánh đèn đỏ bên kia, mình lấy một cái màn chận ánh sáng đỏ lại, thì tự nhiên cả cái thân người của mình toàn màu xanh hết, tại vì cái quang minh màu đỏ không chiếu tới được. Mình tin tưởng cho vững vàng lời A-Di-Đà Phật thì tự nhiên có một cái tấm chắn… chắn tất cả những quang minh khác, những sức tiếp độ khác, quang minh của Phật hoàn toàn tiếp xúc với mình, mình đi về với Phật. Mình không chịu tin, mình đi mập mờ, thì tự nhiên quang minh của Phật vì lòng tin mập mờ của mình mà bị ngăn chặn, đây gọi là ngăn ngại, ái ngại, chướng ngại... Do đó tất cả những luồng quang minh của lục đạo luân hồi sẽ phổ quát ra, sẽ tự do bao trùm mình lại, lôi mình đi vào con đường đọa lạc...
Bốn trường hợp này đều là kinh nghiệm quý báu cho chúng ta suy nghiệm. Xin nhắc lại thật kỹ những điểm quan trọng:
- Niềm tin vững chưa? Niềm tin vững thì...
- Phát nguyện vững chưa? Tha thiết chưa?... Nguyện vãng sanh về Tây Phương.
- Đường đi vững chưa? Niệm câu A-Di-Đà Phật có chuyên nhất hay không?
Ba điểm này giúp cho chúng ta vãng sanh về Tây Phương, nhất định không thể nào bị trở ngại!
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 46
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Mấy ngày hôm nay chúng ta nghe những tin động đất ở bên Nhật, nhìn thấy những cảnh nước tràn tàn phá đất nước của Nhật, mà chúng ta rợn người! Hòa Thượng Tịnh-Không liên tục trong mấy năm nay kêu gọi tất cả đồng tu ráng cố gắng tu hành, làm “Tam Thời Hệ Niệm” hết năm này qua năm nọ và Ngài đang cổ động liên tục 100 thất là 700 ngày, làm “Tam Thời Hệ Niệm” để hồi hướng cho chúng sanh hóa giải cái ách nạn này.
Ta ở đây 365 ngày tụng kinh niệm Phật, cách niệm Phật của chúng ta là một phần của “Tam Thời Hệ Niệm”, chỉ có khác một chút là chúng ta tăng thời gian niệm Phật lên và không có những lời khai thị. Chúng ta cũng có niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát để cầu tiêu tai giải nạn. Nếu chúng ta cứ tiếp tục như vậy thì công đức này cũng đóng góp một phần rất khá để giảm bớt nạn tai của thế giới. Kính mong chư vị cố gắng vì thương chúng sanh, ráng tinh tấn hơn nữa, hãy tới đây cộng tu tạo thêm công đức để hồi hướng.
Tại sao lại bị động đất? Về khoa học thì chúng ta không nói, nhưng mà về Phật pháp thì Hòa Thượng Tịnh-Không thường giảng rằng sự địa chấn nó liên quan tới cái lòng sân giận. Vì khổ quá, vì bị bức bách quá nên chúng sanh uất hận, mà trong sự uất hận của chúng sanh nó liên quan đến nghiệp ác của con người, thường thường là tội sát sanh. Khi đã bị nạn rồi thì cái oán hận càng ngày càng chồng chất, nhất là những vị gọi là chúng đẳng vong linh ở trong những cảnh khổ. Họ đã chịu đựng quá nhiều cho nên lòng uất hận của họ càng ngày càng nhiều. Nên nhớ rằng các vị vô hình, các vị bị nạn trong tam ác đạo họ nhiều hơn loài người chúng ta tới hàng ngàn hàng triệu lần chứ không phải là ít.
Mình hiểu được như vậy, nên xin chư vị cố gắng phát tâm dũng mãnh hơn nữa, tu hành niệm Phật cho nhiều để hồi hướng công đức, mong cho những oán hận này giảm xuống để tai nạn thế giới bớt đi.
Trong kinh Phật có dạy rằng, người học Phật thì đức hạnh đầu tiên là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Tại sao chúng ta lại nhắc tới sự hạnh hiếu dưỡng phụ mẫu? Vì xin thưa thật, là chính ông bà, cha mẹ, những người thân kính quyến thuộc của chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp vụng tu nên bị đọa lạc nhiều lắm. Ta thường gọi là hồi hướng công đức cho các chư vị vong linh, chứ thật ra thì ông bà, cha mẹ chúng ta nhiều lắm trong đó. Khi ta biết đường tu như thế này, thường thường là ông bà, cha mẹ chúng ta nghe được thì họ mừng lắm, đang hằng giờ mong cầu đứa con, đứa cháu, tức là chúng ta, hồi hướng công đức cho họ. Nếu chúng ta không có công phu tu hành, không có công đức, hoặc có mà nhiều khi quên hồi hướng công đức cho họ, thì chính những người thân của mình lại nổi cơn sân giận nhiều hơn là người thường đó.
Nếu sau này có cơ duyên đi hộ niệm cho người ta, quý vị mới thấy được những điều này, là hầu hết những hiện tượng gọi là nhập thân báo đời, thì có thể nói hơn 90% là dòng họ của người đó. Không cha thì mẹ, không mẹ thì ông nội, ông ngoại, ông chú, ông bác gì đó... Thường thường là như vậy. Có những người rất là hung hãn. Tôi đã gặp nhiều trường hợp mà chính người thân nhập vào người thân, mà mỗi lần nhập vào như vậy thì họ cầm dao cầm búa đâm vào người. Dễ sợ lắm! Họ đánh người thân, họ tìm cách giết người thân đó, và mỗi lần như vậy, họ nói:
- Tại sao mày giết tao? Tại sao mày hãm hại tao? Tại sao tao có làm gì tội lỗi với mày mà mày đối xử tệ như vậy?...
Quý vị không tưởng tượng được đâu! Họ căm hờn như vậy. Đó là những trường hợp mình biết, còn những chuyện căm hờn khác xảy ra khắp nơi mà mình không hay.
Ví dụ như trong vô lượng kiếp của chúng ta, thì chúng ta có vô lượng vô biên ông bà, cha mẹ đã bị đại nạn. Khi chúng ta tu hành như thế này thì thường thường những ông bà cha mẹ đó có thể cảm ứng được, cứ mong sao cho một đứa con, một đứa cháu hồi hướng công đức. Bây giờ thứ nhất là thấy một đứa con, một đứa cháu đang biết tu hành mà không chịu hồi hướng. Thứ hai là tu hành tà tà, tu hành giỡn giỡn, tu hành không vững, hồi hướng không có một chút xíu nào hết, làm cho họ càng ngày càng đau khổ hơn. Góp phần làm cho niềm sân hận nảy sinh ra.
Phật dạy, người Phật tử đầu tiên là phải “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Nếu chúng ta biết niệm Phật, biết con đường về Tây Phương, thì sự hiếu dưỡng này phải cụ thể một chút, không phải cứ đợi tới tháng bảy mùa Vu Lan báo hiếu, tới làm một cái lễ gì đó gọi là báo hiếu! Không có bao nhiêu hết trơn! Mà hằng ngày chúng ta niệm Phật hồi hướng công đức, thành tâm hồi hướng thì tự nhiên công đức này biến Pháp giới.
Trong công cứ của chúng ta gọi là Cửu Phẩm Liên Đài, thì tờ đầu tiên chính là tờ “Báo Ân Niệm Phật”, trong đó có bốn câu:
Phật ân, Thân ân.
Hạo thiên võng cực.
Dục báo chi đức.
Niệm Phật đệ nhất.
Có nghĩa là ân Phật, ân Cha Mẹ, “Hạo thiên võng cực”là lớn bao trùm cả pháp giới, lớn lắm, không có cách nào mình có thể diễn tả nổi. “Dục báo chi đức”là muốn báo đền cái công đức này, “Niệm Phật đệ nhất”là không có gì bằng niệm Phật hết.
Chúng ta niệm Phật ở đây không phải là chỉ tu riêng cho chúng ta đâu mà tu luôn cho ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ nhiều đời nhiều kiếp của chúng ta nữa. Hằng ngày ráng cố gắng tinh tấn hơn, thay vì chúng ta dành thời gian đi chơi uổng lắm! Hãy dành thêm thời gian niệm Phật, thay vì chúng ta cứ nghĩ này nghĩ nọ, buồn khổ để làm gì?...
- Một cơn buồn xảy ra phá tan biết bao nhiêu công đức.
- Một sự lo âu nổi lên phá tan biết bao nhiêu công đức.
- Một sự khổ sở nổi lên nó nhập vào trong tâm chúng ta: Nếu không súc sanh thì cũng là ngạ quỷ, không ngạ quỷ cũng là địa ngục.
Cảnh khổ là cảnh tam ác đạo. Rơi vào đó thì làm sao có cơ hội “Ly khổ đắc lạc” để đi về Tây Phương được?... Chính vì vậy, vì không biết tu nên nỗi khổ nó cứ đến, càng ngày càng thâm nhập vào chúng ta. Trong lúc ngồi trong Niệm Phật Đường thay vì ta nhiếp tâm niệm Phật quyết lòng về Tây Phương, thì những cái cảnh khổ đó cứ hiện ra trong lúc chúng ta đang niệm Phật, vô tình câu niệm Phật chúng ta không mang lại một công đức nào hết trơn. Chính vì không nhiếp tâm nên không có công đức. Không có công đức thì không hồi hướng được cho pháp giới chúng sanh, không có hồi hướng được cho ông bà cha mẹ...
Xin thưa thật, báo hiếu cha mẹ không phải cha mẹ còn sống mới báo hiếu, mà phải cần hồi hướng luôn cho cả ông bà, cha mẹ đã qua đời rồi, tại vì ông bà, cha mẹ của chúng ta nhiều khi không được sự hướng dẫn tu hành, nên thường bị đọa lạc, họ chờ từng ngày từng giờ... Đừng nên báo hiếu bằng cách chờ tới ngày giỗ kỵ làm vài con gà để cúng mà báo hiếu cha mẹ... Sai lầm vô cùng! Làm vậy cha mẹ mình càng ngày càng bị đọa lạc...
Khi chúng ta biết được báo hiếu không có gì khác hơn là quyết lòng quyết dạ vãng sanh về Tây Phương. Xin thưa thật công đức vãng sanh về Tây Phương chính là cái công đức báo hiếu triệt để. Tại sao vậy? Vì Hòa Thượng thường hay nói rằng, khi chúng ta vãng sanh về Tây Phương thì ngày đó là ngày ông bà, cha mẹ, cửu huyền thất tổ của chúng ta thoát được cảnh tam ác đạo.Người ta đang chờ từng giây từng phút cái ngày chúng ta vãng sanh để cho họ thoát khổ. Tôi không nói là họ đi về Tây Phương, mà họ thoát được ba cảnh khổ. Mình biết rằng không phải ta chỉ có một ông cha, hai ông cha, ba ông cha, mà có tới vô lượng vô biên ông cha, vô lượng vô biên đứa con, vô lượng vô biên ông nội, bà nội... họ thoát được. Cái công đức này lớn vô cùng lớn.
Chính vì vậy mà sắp tới đây chúng ta sẽ cố gắng tìm cách tăng thêm chương trình Tinh Tấn Niệm Phật. Thay vì một ngày, ta tiến lên hai ngày, tiến lên ba ngày, được bao nhiêu người tu bao nhiêu người. Để chi? Để góp phần với chư vị trên thế giới cùng nhau hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, giải bớt tai nạn và quyết lòng vững vàng đi về Tây Phương.
Một là giải cái ách nạn cho chính mình. Mỗi người chúng ta ai ai cũng đầy hết cả nghiệp ác trong này nè. Người ta chuẩn bị, người ta chờ từng giây từng phút mà khởi lên đó. Oan gia trái chủ của mỗi người nhiều lắm ở trong đó. Nếu chúng ta không thành tâm niệm Phật, không quyết lòng niệm Phật thì các vị đó không bao giờ đoạn đành bỏ quên cái mối thù sát sanh hại mạng của họ đâu. Chính vì họ không biết về nhân quả, nên họ không bỏ, họ không xả. Nghiệp ác này nó cộng vào cộng nghiệp của chúng sanh mà sanh ra tai nạn. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, cái nạn tai trên thế giới của chúng sanh bây giờ lớn lắm rồi, tại vì trong vô lượng kiếp tới giờ ta đã làm nghiệp ác lớn quá rồi chứ không có gì cả.
Quý vị nghĩ thử coi, lập một cái Niệm Phật Đường lên tốn tiền, tốn bạc, tốn công, tốn sức, tốn đủ thứ... nhưng nhiều lắm cũng chỉ có năm người, mười người, hai chục người... tới niệm Phật mà thôi. Còn hàng vạn người khác không bao giờ niệm Phật đâu à!... Hàng triệu người khác người ta vẫn tiếp tục sát sanh hàng ngày. Nạn sát sanh giải không được.
Hiểu được điều này rồi, khi đến Niệm Phật Đường niệm Phật chúng ta phải trực nhớ là mình đang ở trong cái cơ hội vãng sanh thành đạo, thoát tất cả những ách nạn mà trong vô lượng kiếp chúng ta bị đọa đày. Khi mà thoát rồi, chúng ta sẽ có năng lực đi cứu độ chúng sanh, đi cứu cái ách nạn này. Cho nên muốn hết những nạn sóng thần, thì nhiều người vãng sanh về Tây Phương thì cái nạn này mới hết. Thực sự như vậy.
Một người mà vãng sanh thì người ta có thần thông đạo lực, họ đi giải cứu những ách nạn này. Chư Phật mười phương thay phiên nhau cứu độ chúng sanh, nhưng mà cứu không hết. Nạn tai nhiều quá! Chúng ta phải hiểu được như vậy thì ráng cố gắng mà tu để về cho tới Tây Phương Cực Lạc, hợp tác với chư Phật mười phương. Rồi khi ngài Di-Lặc hạ sanh xuống, mình cũng theo Ngài xuống đây hoằng dương Phật pháp cứu độ chúng sanh. Đây là sự thực!... Xin chư vị vững lòng tin tưởng. Tín-Hạnh-Nguyện, Tín-Hạnh-Nguyện mà đi.
- Nếu Lòng Tinchưa vững, nay tin cho vững đi.
- Nếu Sức Nguyệncủa mình sai lầm, nay nguyện lại đi.Càng vãng sanh sớm chừng nào càng hay chừng đó. Chính sức nguyện này là cái duyên rất đậm để chúng ta về Tây Phương.
- Còn Hạnhlà gì? Làm lành lánh dữ là trợ hạnh. Niệm câu A-Di-Đà Phật thiết tha về Tây Phương chính là Chánh Hạnh.
Cho nên Chánh Hạnh, Trợ Hạnh phải phân minh. Một lòng một dạ ngày ngày trì giữ câu A-Di-Đà Phật. Quyết lòng! Người nào niệm năm ngàn thì ráng cố gắng lên bảy ngàn, tám ngàn câu A-Di-Đà Phật một ngày. Đã được tám ngàn rồi thì tại sao không tăng lên chín ngàn?... Tăng lên mười ngàn? Ngài Ấn-Quang Đại Sư đưa ra cái mẫu mực năm chục ngàn là tại vì Ngài thấy cái ách nạn của thế giới lớn quá đi! Ngài đã quỳ xuống lạy chúng sanh niệm Phật để mà tiêu tai giải nạn, để mà chính mình được thoát nạn.
Xin chư vị quyết lòng niệm Phật nhất định đi về Tây Phương thành đạo Vô Thượng cứu độ chúng sanh…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 47
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Tu hànhtrong thời đại này nhất định chúng ta phải cẩn thận, phải hợp căn hợp cơ, không được sơ ý!...
Trong ngày hôm nay chúng tôi lại nghe một tin, có một người tu hành vì sơ ý không xét rõ căn cơ của mình mà bị trở ngại, và sự trở ngại cũng rất là bi ai!...
Cho nên chúng ta nói đề tài “Khế Lý - Khế Cơ” thật sự là quan trọng. Xin tất cả chư vị chú ý.
Trong tất cả các pháp môn, pháp môn niệm Phật là dễ nhất. Ta chọn pháp môn dễ nhất là tại vì căn cơ của chúng ta thấp, những pháp môn khó chúng ta không đủ khả năng. Giữa cái khó và cái dễ, ta chọn cái dễ, đó là hợp căn cơ. Dễ mà hợp căn cơ thì cũng được thành tựu mỹ mãn. Cũng giống như trong trường đời, người tiến sĩ thì người ta có thể đọc nhiều, nghiên cứu bất cứ một tài liệu nào cũng không trở ngại, còn người bình dân như chúng ta không thể nào vào trong viện nghiên cứu để nghiên cứu được…
Nên nhớ rằng hợp với căn cơ thì dễ thành công. Thế gian không thiếu gì người học lớp một, lớp hai, nhưng khi làm một việc gì hợp với sức, hợp với khả năng, người ta cũng có thể trở nên tỷ phú.
Tu hành cũng giống như vậy. Trong pháp môn niệm Phật, khi thực hành ta cũng phải biết chọn cái phương thức nào dễ, mà hợp với chính ta nữa thì mới thật sự là đúng.
Ví dụ:
- Nhất tâm bất loạn? Khó quá!Chí thành chí kính? Dễ!Ta chọn phương pháp “Chí Thành Chí Kính”. Niệm A-Di-Đà Phật, cứ chí thành chí kính như vậy mà niệm Phật, thì với lòng thành kính này nhất định chư vị được vãng sanh. Vãng sanh tức là thành đạo.
- Tu chochứng đắc? Khó quá! Khiêm nhường, tập khiêm cung? Dễ!Xin chư vị hãy lấy cái “Khiêm Cung” này làm kim chỉ nam. Càng tu càng khiêm nhường, càng khiêm nhường ta càng dễ thành tựu. Khi thành tựu rồi thì cao hay thấp cũng như nhau.
Chúng ta mới thấy rằng, phải cần tuyển trạch, chọn lựa kỹ càng mới có thể thành công được. Nếu sơ ý, khi đã bị vướng nạn rồi thì chịu thua!... Một người bạn sát bên cạnh cũng không cứu được! Cha không cứu con, con không cứu cha, vợ không cứu chồng, chồng không cứu vợ được. Thành ra trước khi chúng ta hạ thủ công phu làm cái gì, nhất định phải cân nhắc cho thật kỹ, tức là phải quán xét coi căn cơ của mình ở chỗ nào. Đó gọi là hợp cơ.
Ví dụ, như ta tu để cho nhất tâm bất loạn không được, nên ở ngay tại đây chúng ta dùng phương pháp công cứ. Công cứ có nghĩa là cần cù siêng năng niệm Phật. Về chứng đắc? Chúng ta chứng không được! chơn tâm tự tánh hiển lộ? Chúng ta làm không được. Nhưng mà…
- Cần cù niệm câu A-Di-Đà Phật, chúng ta niệm được.
- Người cần cù niệm Phật là người khiêm nhường.
- Người cần cù niệm Phật là người thành tâm thành kính.
Rõ ràng chúng ta đi con đường căn bản để sau này được dễ dàng thành đạo, chắc chắn như vậy. Tại vì A-Di-Đà Phật đã phát đại thệ:
- Những người nào nghe danh hiệu của Ngài thành tâm chí thành chí kính mà niệm, tâm tâm hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc...
Ngài không có nói…
- Người nào nghe danh hiệu của Ta phải niệm Phật cho nhất tâm bất loạn, phải niệm Phật cho chơntâm tự tánh hiển lộ rồi Ta mới rước về Tây Phương.
Ngài không có phát tâm nguyện này. Chúng ta tu ở đây là tu thật sự, là theo đúng kinh Phật, chắc chắn ta sẽ thành tựu, đơn giản như vậy.
Chính vì vậy, mà có nhiều người than rằng:
- Sao tôi vẫn còn vọng tưởng nhiều quá!...
Không sao đâu! Vọng tưởng cứ để nó vọng tưởng đi, đừng lo ngại tới làm chi cho cực, mắc công lắm!...
- Sao tôi niệm không nhất tâm bất loạn...
Không có sao đâu! Nhất tâm bất loạn có hay không cũng kệ nó, đừng sợ. Cứ một lòng thành tâm niệm Phật là được.
Như hôm trước ta nói, đi ngang Phật mình phải cung kính chấp tay xá Phật đàng hoàng. Vô trong đạo tràng thành tâm niệm Phật cung kính với người ta... Cứ vậy mà đi, nhất định chư Thiên-Long Hộ-Pháp sẽ gia trì cho chúng ta, sẽ bảo vệ cho chúng ta và chư đại Bồ-Tát bảo vệ cho chúng ta tới ngày chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc luôn.
Trong cách tu hành, lớn nhỏ nó đều tùy vào tâm của mình, chứ không phải tùy theo số lượng đâu! Ví dụ như bố thí, có nhiều người than với Diệu Âm!...
- Tôi bây giờ nghèo quá, không biết làm sao cúng dường bố thí?
Tôi nói, không cần. Tới Niệm Phật Đường người ta có tiền cúng dường bố thí năm chục ngàn, sáu chục ngàn, bảy chục ngàn... gì cũng kệ họ. Mình không có tiền thì ra phía sau nhổ cỏ. Người thành tâm nhổ cỏ, thời thời phước huệ tăng. Người ta bố thí nhiều thì thích khoe ra, nhưng ra ngoài shop khi cầm bó rau muống lên thì lựa lên lựa xuống... Mất hết tất cả công đức rồi! Rõ ràng, một cộng rau muống hư mà không xả được, thì làm sao dám cầm đồng tiền ra mà “Chân thành bố thí”?...
Chính vì vậy, phương pháp tu chúng ta phải biết cho rõ. Một người lên xe bus chọn ghế cao ghế tốt mới ngồi, ghế thấp không chịu ngồi, thì tâm bố thí không có!
- Nếu chỗ nào ngồi cũng được: “Dễ!”.Chọn cái ghế cao quá, chọn ghế tốt quá: “Khó!”.Chọn như vậy thìchúng ta đã đi con đường khó rồi!
Người có tâm tu hành thì phải biết nhường những chỗ tốt cho người khác ngồi. Ta ngồi mà thấy một cô phụ nữ này chưa có chỗ ngồi, tại sao mình không nhường? Nhường đó chính là tâm bố thí. Mua một vé máy bay, ghế ngồi thì chọn lựa lên, chọn lựa xuống, trên máy bay ghế nào cũng bọc nệm hết trơn, tại sao mình không lựa chỗ nào eo eo để ngồi, nhường cái chỗ tốt tốt một chút cho người ta ngồi? Đây là tâm bố thí. Chúng ta cần biết hy sinh một chút xíu. Ghế nào cũng là ghế, mình chọn ghế tốt ư? Chọn ghế tốt thì có một bà già phải ngồi ghế dở. Đây là tâm phân biệt! Tâm eo hẹp! Cái chỗ ngồi, cái ghế... nó không có gì hơn cho mấy, mà mình cũng tranh cũng giành, thì làm sao mà có tâm bố thí lớn được?...
- Như vậy thì ngồi chỗ nào cũng được: “Dễ!...Chỗ nào mình cũng cười hè hè. Chọn cho được cái ghế tốt: “Khó!”...Vì lỡ không còn ghế tốt, mình ngồi cái ghế không vừa ý, cái tâm của mình sẽ phiền não! Phiền não nó nổi ra ngay trong lúc này.
Cho nên buông xả là ngay trong lúc này, chứ không phải buông xả là cái gì khác đâu! Ngài Tịnh-Không luôn luôn nhắc nhở, tập buông xả, buông xả tối đa. Mỗi lần khi tôi đi tới chỗ nào, người cứ chọn cho tôi cái ghế tốt một chút. Nhưng tôi không có thích cái ghế tốt đó một chút nào hết. Tôi bảo là cứ chọn đại đi. Tôi đi mua vé máy bay, họ hỏi chọn chỗ nào? Tôi nói chỗ nào cũng được. Như vậy thì tự nhiên dễ dàng. Ngồi bên cửa sổ thì mình nhìn mây, ngồi phía trong thì mình niệm Phật. Có gì đâu mà phải chọn?
Xin chư vị phải tập buông xả từng chút, từng chút như thế này, đó gọi là hợp với căn cơ của chúng ta. Chứ nếu chúng ta cứ nói buông xả... buông xả... Nhưng thật ra thì từng chút, từng chút mình phân đo, kèn cựa. Đi ra ngoài shop cầm bó rau muống lựa lên, lựa xuống, cầm bó rau lang lựa lên, lựa xuống! Lựa như vậy thì bao nhiêu phước của mình mất hết. Uổng vô cùng! Tại sao mình không có cái tâm... tôi lấy bó rau muống này thì bị thua thiệt hai cộng rau, nhưng thua thiệt hai cộng rau muống mà ông chủ bán được, ông chủ bán được thì ông chủ lời, ông chủ lời thì mình mừng cho ông chủ... Hòa Thượng Tịnh-không nói, vì chúng sanh mà làm đạo thì tự nhiên phước mình tăng lên. Nếu vì mình làm đạo, vì mình cho tiện nghi một chút, thì bao nhiêu cái nghiệp sẽ đổ dồn vô mình mà không hay.
Vậy thì, tu hành không có gì là cao siêu hết!
- Chính là làm những gì bình thường nhất…
- Chính là làm những gì đơn giản nhất…
- Chính là làm những gì dễ dàng nhất…
Mình dễ dàng từng chút từng chút như vậy thì tự nhiên tâm mình buông xả, chứ đừng nghĩ rằng bỏ đồng tiền ra cúng dường này, cúng dường nọ mới là bố thí… Không phải!
Buông xả! Cái tâm bố thí là chỗ này. Buông xả vạn duyên là chỗ này. Thành tâm niệm Phật là chỗ này. Tự nhiên chúng ta sẽ thành đạo.
Hôm trước có một vị tới đây khoe với tôi:
- Tôi đang niệm Phật để cho chứng tới cảnh Niệm Vô Niệm.
Tôi nói thẳng liền:
- Chị về lo khiêm nhường mà niệm Phật đi, đừng có nghĩ tới chuyện “Niệm Vô Niệm” nữa. Nếu mà chị còn mơ tới chuyện đó, coi chừng khi đã bị trở ngại rồi thì không còn ai cứu được nữa đâu.
Ngày hôm nay tôi nghe một cái tin cũng là một người ham chứng đắc “Nhất tâm bất loạn” đã đưa đến kết quả rất là phũ phàng, rất là bi ai!...Đây là sự thật làm cho tôi ngỡ ngàng và câu chuyện này nó củng cố, nó chứng minh cho đề tài chúng ta đang nói, tu hành cần phải “Khế Cơ”.
Khế cơ là gì? Nói thẳng thắn là chúng ta hãy...
- Dùng cái “Thành Tâm” mà niệm Phật.
- Dùng cái “Khiêm Nhường” mà niệm Phật.
- Dùng cái “Cần Cù” mà niệm Phật.
Còn tất cả những cái chứng đắc cao kỳ, những cái lý luận cao siêu xin tạm thời để khi về trên Tây Phương xong rồi mới làm chuyện đó... Đó mới là đúng. Chư vị hãy giữ vững như vậy, kết hợp với nhau tu hành thì nhất định chúng ta sẽ được chư Bồ-Tát gia trì, chư Thiên-Long gia trì cho chư vị và A-Di-Đà Phật hằng phóng quang minh bao phủ chúng ta, tiếp độ chúng ta vãng sanh về Tây Phương, nhất định một đời này thành tựu đạo quả...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
KHẾ LÝ - KHẾ CƠ
Tọa Đàm 48
Nam Mô A-Di-Đà Phật,
Trong 48 đêm nói về hộ niệm vừa “Khế Lý”vừa “Khế Cơ”là để hợp với căn cơ của chúng ta mới thành tựu đạo quả... Thì hôm nay là đêm cuối cùng, Diệu Âm xin tổng kết lại nội dung của đề tài này.
- Chúng ta hãy nên tự xác nhận mình là hàng hạ căn phàm phu. Đã là hàng phàm phu thì chúng ta phải cố gắng thực hiện cho được những điều cần thiết đối với mình, để trong một đời này vượt qua cái thân phận phàm phu, trở về Tây Phương thành bậc Thánh Nhân. Ngài Ấn-Quang Đại sư nói “Khuyên người niệm Phật cầu về Tây Phương là giúp cho một chúng sanh phàm phu thành bậc Chánh Giác”. Câu nói này là để khai thị cho chính chúng ta.
- Đã là phàm phu thì phải Khiêm Nhường, quyết định phải Khiêm Nhường, dù chúng ta có công phu như thế nào đi nữa, thì xin chư vị cũng phải nhớ điểm này: Đừng bao giờ móng khởi một cái tâm là mình đã được chứng đắc, là mình tu khá!Điều này sẽ không hợp với hàng phàm phu của chúng ta đâu!
- Đã là phàm phu thì nghiệp chướng sâu nặng, mà nghiệp chướng sâu nặng thì ta có thể bị nghiệp khổ hành hạ, oán thân trái chủ nhiều. Có thể chúng ta sẽ bị tấn công trong những lúc sắp sửa rời bỏ báo thân. Cho nên phải chuẩn bị trước. Chuẩn bị có nghĩa là đừng bao giờ nghĩ rằng công phu mình đã đủ. Chư Tổ đều nói rằng, một khi mà mình nói công phu mình đủ, thì nhất định bắt đầu từ đó cái tâm bị “Thoái hóa”,tức là mình bị khó khăn, tức là cống cao ngã mạn nổi lên hồi nào không hay và chính cái điểm yếu này sẽ phá mất đường vãng sanh của chúng ta.
- Trong tất cả các pháp tu, ta hãy chọn những phương pháp nào dễ nhất và lại được chư Tổ khuyến khích mà áp dụng. Nhờ như vậy mới khế hợp với căn cơ của chúng ta.
- Thay vì mình cầu mong chứng đắc, thì bây giờ mình hãy lo Thành Tâm, Chí Thành, Chí Kính Niệm Phật. Mình muốn cho được chứng đắc không tốt bằng giữ tâm khiêm cung lại. Nhất định là mình không thể nào tự chứng đắc được đâu. Cho nên càng tu càng nương vào đại lực của đức Phật A-Di-Đà, cầu Ngài tiếp độ về Tây Phương. Khi tâm mình cung kính như vậy, tâm thành khẩn như vậy thì được chư Thiên-Long Hộ-Pháp gia trì, chư Bồ-Tát gia trì. Cụ thể là khi tu hành chúng ta cố gắng giữ giới giữ luật nghiêm minh, để cho đạo tràng của chúng ta càng ngày càng trang nghiêm, được chư Thiên-Long Hộ-Pháp bảo vệ. Nhờ vậy mà chúng ta mới được an toàn. Nếu sơ ý, chúng ta có thể bị các Ngài la rầy.
- Về phương pháp tu, thì mình không nên tìm hiểu về những phương pháp cao kỳ quá, đừng nên lý luận nhiều quá, mà chúng ta nên chọn những cách gọi là “Cần-cù, Nhẫn-nại, Khiêm-tốn...”. Cố gắng tạo thêm thời gian niệm câu A-Di-Đà Phật.
- Khi niệm câu A-Di-Đà Phật chúng ta cứ nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật, lắng nghe những tiếng niệm A-Di-Đà Phật của chính mình.
- Trong lúc niệm Phật nếu có vọng tưởng nổi lên thì cũng đừng nên khó chịu vì vọng tưởng đó. Cứ để vọng tưởng sao thì vọng tưởng, kệ nó!... Trong lúc nghĩ này nghĩ nọ như vậy mình cứ ráng cố gắng niệm câu A-Di-Đà Phật lên. Người nào có xâu chuỗi thì cầm xâu chuỗi. Người nào có cái máy bấm số thì nên bấm số. Cứ niệm như vậy thì một lúc nào đó tự nhiên câu A-Di-Đà Phật sẽ thay thế cho những cái nghĩ này nghĩ nọ.
Đây là những cách công phu hết sức là cụ thể, đơn giản mà giúp cho chúng ta vượt qua cái ách nạn sanh tử luân hồi, vãng sanh về Tây Phương. Đơn giản!
Như vậy, có những điều chúng ta không nên mơ tới. Mơ cho mình được chứng đắc! Nhất định đừng nên mơ tới. Muốn chứng hồi nào thì cứ để nó chứng đi, tự động nó tới. Đừng bao giờ nghĩ mình là nhất tâm bất loạn. Danh từ này tạm quên đi. Nhất tâm bất loạn tự nó là do công phu thành tựu. Khi công phu chúng ta thành tựu thì tự nhiên chúng ta sẽ tới chỗ đó, đến chỗ đó thì tự nhiên chúng ta sẽ biết, chứ không nên khởi tâm móng cầu. Tu như vậy thì chúng ta đang đi theo con đường an toàn vậy.
Trong ngày hôm nay có một số vị ở bên Âu Châu, bên Đức gọi qua, người ta nói những lời rất là tha thiết, mà rất là dễ thương, cảm động! Những đạo tràng ở bên Đức, Thụy-Sỹ, Tiệp-Khắc... người ta cũng phát tâm công phu theo như Niệm Phật Đường của chúng ta. Người ta đã tự nhận làm công cứ. Đây cũng là một cái duyên rất hay.
Trở về cách công phu, chúng ta đang hô hào ở tại đây là vận động công cứ. Thì công cứ này hoàn toàn là tự nguyện, không phải bắt buộc. Có thể quý vị lập công cứ ghi điểm cũng được, tức là cầm cái tờ công cứ để ghi số. Hoặc là tự mình lập ra công cứ riêng, ví dụ như một ngày tôi sẽ dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm Phật, thì chúng ta cố gắng làm sao dành ra ba tiếng đồng hồ để niệm. Hoặc là, có người nói một ngày tôi niệm ba chục chuỗi... thì đó là công cứ của mình. Cũng giống như có người nói, bây giờ tôi không tính chuỗi, mà tôi tính hơi thở. Cứ nằm xuống thở ra: “A-Di-Đà Phật”,thở vô: “A-Di-Đà Phật”... thì đó cũng công cứ.
Có rất nhiều cách công cứ, mà cái công cứ hay nhất, cụ thể nhất, thường thường bây giờ ở những đạo tràng người ta đang thực hiện, đó chính là làm những cái bảng để ghi nút nút nút vào đó. Khi nhìn vào đó mình biết mức công phu của mình đang đi tới đâu...
Bây giờ ở Việt Nam cũng có rất nhiều đạo tràng cũng đã xin nhận công cứ rồi. Bên Âu Châu, bên các nước khác nữa... Hiện nay chúng tôi đang soạn chương trình để gởi cho họ. Phải viết giấy đàng hoàng, cần dặn dò cẩn thận chứ nhiều khi có nhiều người thường vọng tưởng, tức là khi người ta lập công cứ như vậy thì cứ tưởng rằng mình chứng đắc?! Đây là điều không được đúng!
Xin nhắc nhở lại, công cứ này chỉ giúp cho ta có cái nấc thang để đi, đi cho vững vàng. Chúng ta nên nhớ, là sau cùng ít ra chúng ta cũng niệm cho được mười niệm để vãng sanh. Đây là mức thấp nhất, tệ nhất chứ không phải là cao nhất đâu.
Nếu chúng ta nghĩ rằng, mười niệm dễ quá thì coi chừng bị rớt đài! Chính vì vậy mà Hòa Thượng Tịnh-Không khuyên chúng ta cố gắng công phu để đạt đến Thượng-Phẩm, nếu có trở ngại gì thì cũng rớt xuống Trung-Phẩm. Nếu mà chúng ta cố gắng đạt đến công phu Trung-Phẩm, thì có rớt cũng rớt xuống Hạ-Phẩm, chúng ta cũng được về Tây Phương. Nếu mà chúng ta chỉ đạt cái tiêu chuẩn Hạ-Phẩm thì thường thường là thi rớt. Ví dụ như đi thi, người nào mà chuyên cần học, quyết học cho được đậu cao, thì có thể còn xuống hàng trung trung. Nếu người nào học mà nghĩ rằng đủ rồi, thì nhiều khi vô trong trường thi sẽ quên hết! Trường thi của chúng ta là thi vượt qua sanh tử luân hồi. Lúc lâm chung không phải dễ đâu!...
Để cụ thể hơn, Diệu Âm đưa ra cái công cứ đã soạn ra để phổ biến cho đồng tu tại đây. Chương trình tại đây là như thế này...
Ngoài công phu sáng, tức là ở đây sáng thì từ 5 giờ đến 7 giờ. Quý vị ở nhà có thể thức từ 4 giờ đến 6 giờ, hoặc từ 9 giờ đến 10 giờ, hoặc là tu thêm cũng được... không sao hết. Riêng cách công phu sáng của Niệm Phật Đường chúng ta ở đây đã loan ra nhiều chỗ rồi, vì tu hay mà lại dễ. Vừa niệm Phật, vừa tụng kinh, vừa lạy Phật, lại vừa sám hối, (lạy Phật là sám hối), mà lại được có 30 phút để “Tập thể dục” nữa... Trong khóa công phu có cả thế gian pháp và Phật pháp được lồng vào trong đó, có vẻ hay, nên có nhiều người tham gia vào.
Công phu tối như chúng ta đang tu đây và những ngày tu tinh tấn thì không được tính vào công cứ. Mỗi ngày xin quý vị cần thêm công phu niệm Phật. Chúng tôi xin chia ra như thế này...
Nên nhớ rằng, chương trình này đưa ra chỉ để thẩm định công phu thôi, còn quý vị có theo thì theo, không theo thì thôi chứ không ai bắt buộc đâu. Chúng ta có thể tự do quyết định. Tự mỗi chúng ta phải lo lấy huệ mạng của chính mình, không ai có thể lo cho mình được.
Công cứ chúng tôi đưa ra đây như thế này, mỗi ngày:
- Một người niệm từ không niệm câu nào hết cho đến dưới 1.000 câu.Nói về công phu thì thiếu công phu! Không có công phu! Tức là... Sáng có thể tu, chiều có thể tu, mà sau đó thì không chịu niệm Phật. Thì ở đây đánh giá rằng... là người không có công phu, và bản “Thẩm Định” thì cho rằng những người này chưa thật sự muốn vãng sanh. Tại vì nếu là người muốn vãng sanh thì không bao giờ có thời gian rảnh mà lại không chịu niệm Phật!?...
- Cái mức thứ hai là những người niệm từ 1.000 câu Phật hiệu cho đến 4.000 ngàn câu Phật hiệu một ngày. Họ tranh thủ để niệm được như vậy. Thì đây đã có công phu, nhưng mà “Công phu quá yếu”! Phải mau mau tăng thêm công phu. Đây là chiếc xe mới tập lăn, nhưng bị thiếu xăng rồi!... Xe lăn như vậy, sợ rằng đến lúc lâm chung chúng ta sẽ niệm không nổi mười niệm đâu. Đừng nghĩ niệm mười niệm là dễ dàng! Phải tập niệm cho nhập tâm. Nếu niệm không nhập tâm, thì niệm không nổi đâu. Chắc chắn! Vì công phu yếu quá, nên thường thường những thứ thế gian pháp, những chấp trước của thế gian thâm nhập vào tâm mình nhiều quá, đến lúc đó mình chịu không nổi! Xin chư vị có thể chiếu theo cái bản này mà tự nghiên cứu lấy nếu quyết lòng muốn đi về Tây Phương.
- Cái mức thứ ba là người niệm từ mức 5.000 câu cho đến 9.000 câu, dưới 10.000 câu.Thì mức này không gọi là quá yếu, mà gọi là “Yếu!”. Tức là dưới 10.000 câu vẫn là yếu, chưa đủ bảo đảm vãng sanh. Cần nên thêm công phu, không nên nghĩ vậy là đủ. Còn thiếu nhiều lắm!...
- Cái mức thứ tư là người nào niệm được từ 10.000 câu cho đến 14.000 câu, tức là chưa tới 15.000, thì công phu đã có. Công phu này “Được”, không đến nỗi quá yếu. Đây gọi là cái căn bản của người niệm Phật. Những người ví dụ như già quá rồi niệm không nổi nữa, thì cái mức 10.000 câu đến 14.000 câu nên cố gắng trì giữ để cho kịp... vì đã bịnh xuống rồi thì thời gian ra đi cũng không còn lâu nữa đâu, sợ rằng nếu sơ ý thì sau cùng chịu không nổi với nghiệp chướng. Thì ở đây chúng tôi thẩm định về căn bản là “Được”, và có thể tiếp tục giữ cái mức này dài lâu, không sao hết. Quan trọng là lòng chân thành của mình và cần nhờ ban hộ niệm tới giúp đỡ thì mình cũng có khả năng vãng sanh, nhưng mà cũng không chắc chắn lắm.
- Cái mức thứ năm là từ 15.000 câu cho đến 19.000 câu, tức là dưới 20.000 câu. Thì ở đây chúng tôi đánh giá là “Khá”. Những người nào mà niệm trên 15.000 câu, chưa tới 20.000 câu thì cũng được đánh giá là khá và có thể tiếp tục giữ cái mức này càng lâu càng tốt. Có thể giữ cho đến lúc lâm chung cũng được, và đây là điều đáng khuyến khích.
- Một cái mức nữa là những người niệm từ 20.000 câu cho đến 24.000 câu. Mức này được đánh giá là “Giỏi”. Xin chư vị khi niệm như vậy đừng nên quá trọng về số lượng, coi chừng khi mình coi trọng về số lượng thì niệm không rõ, niệm không vững, thì chủng tử A-Di-Đà Phật đi vào tâm của mình rất là yếu. Niệm như vậy cũng không có thể gọi là tốt được.
Mình phải thành thực với chính mình. Niệm phải niệm cho thật rõ ràng, dù nhanh cũng phải rõ ràng, dù lúc niệm thầm cũng phải rõ ràng từng câu từng câu. Chứ đừng nên ham số lượng nhiều quá! Về số lượng giấy tờ thì giỏi đó, nhưng về công lực thì yếu, cũng không nên. Hy vọng là những mức này có thể giúp cho chư vị tỉnh táo được cho đến lúc lâm chung. Nhất là khi được hộ niệm nữa thì đường vãng sanh không đến nỗi nào mà bi ai lắm.
- Còn những người niệm từ 25.000 câu trở lên.Là những người “Đặc biệt”, “Giỏi”, rất là “Đáng khen”. Nhưng xin thưa với chư vị là phải tập tùy sức mà niệm. Nếu mà mình niệm thấy từ 25.000 câu đến 30.000 câu mà thoải mái, pháp hỷ sung mãn thì chúng ta nên tiếp tục. Còn nếu mà mình cố gắng quá sức, làm cho mình bỏ ăn bỏ uống, làm cho mình xuống sức khỏe... thì chúng ta có thể chậm chậm lại một chút để giữ cho được cái mức quân bình vừa cả tâm lẫn thân mới tốt…
Những người niệm từ 25.000 câu trở lên được gọi là “Đặc biệt, quá đặc biệt”, thuộc vào hàng “Giỏi”, “Tinh tấn”. Xin nhắc nhở lại, là cần phải tùy sức đừng nên quá sức. Tại vì cố gắng quá sức cũng có thể dễ bị trở ngại!...
Đây là những cái mức chúng tôi đưa ra, xin quý vị có thể nhìn vào cái bản “Thẩm Định” này mà tự xét lấy mình. Nếu chúng ta quyết lòng nhất định đi về Tây Phương thì phải cố gắng, tự mình cố gắng, đừng có ỷ lại vào một cái gì hết. Thấy một người đó mê man bất tỉnh trong bệnh viện, đừng bao giờ nghĩ rằng mình không đến nỗi như vậy. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, nghiệp chướng thì ai cũng có, bây giờ nó chưa có cái duyên, nó chưa có cái dịp trổ ra đó thôi, khi mà nó trổ ra rồi thì coi chừng nghiệp của mình còn nặng hơn người khác nữa mà không hay đó!...
Mong chư vị nghĩ đến huệ mạng ngàn đời ngàn kiếp, cố gắng tinh tấn tu hành. Mong cho tất cả chúng ta đều được thành tựu viên mãn...
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức này:
Hồi hướng cho thập phương pháp giới chúng sanh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ, cầu nguyện thế giới hoà bình, tiêu tai giải nạn.
Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả chúng sanh đã bị con não loạn hoặc giết hại vì bất cứ lý do gì. Hôm nay con xin thành tâm sám hối. Nguyện cầu chư vị xoá bỏ hận thù, hộ pháp cho nhau, đồng lòng niệm Phật, đồng nguyện vãng sanh, đồng sanh Cực Lạc.
Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc trong vô lượng kiếp, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào, đều được cảm ứng, phát lòng Tín-Nguyện-Hạnh Niệm Phật, siêu sanh Tịnh-Độ.
Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc đang hiện tiền, nghiệp chướng tiêu trừ, phước lành tăng trưởng, phát khởi tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, và đều được thành tựu.
Hồi hướng cho tất cả chúng sanh có duyên hay không có duyên với con, sau cùng đều được vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Hồi hướng về Tây Phương trang nghiêm Tịnh-Độ. Nguyện khi con lâm chung, không còn chướng ngại, biết trước ngày giờ, tâm hồn tỉnh táo, thấy A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí, Thanh-Tịnh-Đại-Hải-Chúng, tướng hảo quang minh, hiện thân tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện hoa nở thấy Phật ngộ Vô-Sanh, nguyện chứng đắc Vô-Thượng Bồ-Đề, nguyện độ vô biên chúng sanh trong mười phương pháp giới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, viên thành Phật đạo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT