PHẬT VIỆT THI UYỂN
Nhiều tác giả
Xuất bản tại Houston, Texas, 2002
TRI ÂN
Xin chân thành tri ân Chư Tôn Đức và Chư Phật Tử đã hoan hỷ gởi thơ cho “Phật Việt Thi Uyển”, để vườn thơ mang nhiều sắc thái và thêm phần phong phú. Sự đóng góp của Chư Tôn Đức và Chư Phật Tử cho nền văn hóa Phật Việt đã in sâu vào tâm khảm của người con Phật họ Diệu này.
Kính chúc Chư Tôn Đức Pháp thể khinh an, trụ thế lâu dài để chúng sinh được ân triêm công đức.
Kính chúc Chư Phật Tử bồ đề tâm kiên cố để hộ trì Phật Pháp được trường tồn, già lam được hưng chấn.
Nơi đây xin cảm niệm công đức của KT Printing đã trợ duyên cho “Phật Việt Thi Uyển”
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
THAY CHO LỜI TRI ÂN THƯỢNG TỌA NGUYÊN SIÊU
“ Phật Việt Thi Uyển” ra đời như đóng góp thơ đạo cho Đại Hội Văn Hóa Phật Giáo Việt Namnăm 2003. Đã hẳn nhiên một bài thơ là phản ảnh tâm linh của từng nhà thơ nhưng phối ngẫu với nhau mà thành vườn thơ này. “ Phật Việt Thi Uyển” sẽ chẳng thành hình nếu không nhờ sự cố vấn giúp đỡ của Thầy. Là trưởng ban tổ chức Đại Hội, Thầy rất bận rộn với công việc Phật sự, nhưng Thầy vẫn hoan hỷ giúp con không có một ngôn từ nào có thể diễn tả được mối đạo tình và lòng tôn kính của con đối với Thầy.
Con xin cảm tạ lòng từ bi và trí tuệ của Thầy hôm nay và về sau. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ Thầy công huân viên mãn.
DẪN VÀO CÕI THƠ THIỀN.
Trải qua dòng lịch sử dân Việt, Phật pháp và thi ca nâng đỡ, hoà quyện nhau như sóng với nước. Lịch sử đã ghi chép về Thiền sư Không Lộ, Người uyên thâm kinh điển mà vẫn mang tâm hồn thi sĩ, để có lúc, trong cái tĩnh mặc của tâm thể, sáng tác cho đời những thi kệ hùng tráng:
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dạ tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đảnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
Dịch
Lựa nơi rồng rắn đất ưa người
Cả buổi tình quê những mảng vui
Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm
Một hơi sáo miệng, lạnh bầu trời
(Kệ Ngôn Hoài – Ngô Tất Tố )
Rồi lại kể đến Trần Nhân Tông là vị vua thứ ba đời Trần. Sau ngày bình định giặc Mông, yên vui bờ cõi, Ngài bèn cởi long bào, đi giày cỏ, theo đường mây về núi Yên Tử, mà khai sang giòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử, vừa là nền tảng Bi, Trí, Dũng cho việc trị quốc, vừa phổ tính phiêu bồng thoát tục vào Thiền Việt. Và Ngài cũng là một thi sĩ, đem chính cái vấn nạn về thiên lý mà chuyển hóa thành thơ :
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn , nhọc ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền
( Cư Trần Lạc Đạo Phú - Hội thứ 10 )
Truyền thống “Thơ trong đạo, đạo trong thơ” vẫn tiếp tục qua bao thời đại, bất kể bước lịch sử thăng trầm và điều bất thường của thời cuộc. Thế nên, gần với thời đại chúng ta, giữa bối cảnh khổ đau của kiếp người mộng tưởng lại hiển hiện những Thiền Sư, thi sĩ, người thơ, kẻ hành giả như Thích Nhất Hạnh, Thích Tuệ Sĩ, Phạm Thiên Thư, Thạch Trung Giả, Thi Vũ, Bùi Giáng… dù mặc áo Tăng hay lao đao giữa chợ đời, vẫn giữ trọn lửa đạo pháp sáng soi và cùng một lúc góp phần vào giòng thơ Việt những suối nguồn bất tuyệt. Có điều gì khác hơn là cái cảm nhận sâu thẳm về đời sống được nuôi nấng, vỗ về và lớn lên trong cái thế sung thiên phiêu bồng của Thiền để di sản thơ của chúng ta có được những câu như:
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
( T.T Tuệ Sĩ)
Hay
Ta hỏi kiến nơi nào cõi Tịnh
Ngoài hư không có dấu chim bay
( T.T Tuệ Sĩ)
Mối quan hệ xoá nhòa biên giới giữa Đạo và Thơ thật ra đã giao lưu bàng bạc trong hành trình Phật từ muôn năm trước. Phải chăng điều này hiển hiện trong ngôn từ Bodhi / Satva ( Bồ tát / Nghệ sĩ ) dành cho những nhân vật nửa truyền thuyết, nửa sống thật trong kinh văn Phật Thiên Trúc nguyên sơ. Phải chăng điều này đã hiển hiện trong kinh Pháp Hoa uyên áo:
Ý tứ diệu đường mây
Xối mưa pháp cam lộ
Dứt trừ lửa phiền não
( Phẩm thứ hai mươi lăm” Quán thế Âm Bồ Tát”)
Hay còn ở trong những bài kệ Phạn ngữ thong thường tụng niệm:
Dâng hoa cúng đến Phật Đà
Nguyện mau giải thoát sanh già khổ đau
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn
( Kinh Hồi Hướng )
Phải chăng Đạo với Thơ như sóng với nước vì đạo pháp là cội nguồn để cho thơ tư duy và hiện diện trong thơ như tinh thần nhân bản. Còn thơ lại là tiếng nói tinh khôi diễn đạt ý nghĩa thâm sâu của đạo Pháp dưới một hình thức văn chương xúc tích để trở thành tiếng nói khoáng đạt qua lòng người. Mối duyên của Đạo và Thơ, của thiền lý và thi cảm, một nét đặc thù hiếm thấy ở các tôn giáo khác, vừa thú vị lại vừa nói lên không ít về bản chất của Phật học cùng một lúc là giáo lý tu tập và là hệ tư tưởng dẫn đạo cho cuộc sống.
Phật Việt Thi Uyển là vườn thơ của hơn 100 bài thơ qua sự đóng góp của hơn 30 người thơ hướng tâm về tình và đạo trải dài trong nhiều năm vừa qua.
Xin được coi “ Phật Việt Thi Uyển” như một tiếp nối cho truyền thống Đạo và Thơ mà ở đó mối quan liên vừa tâm linh vừa lãng mạn của thi ca và pháp tướng lại đuợc thể hiện vuông tròn. Cũng như những ngã sông, vừa muôn ngàn con sông mà vẫn thu về làm một, đóng góp trong vườn thơ này, dù nhất quán trong tư tưởng vẫn biểu hiệu cho những tư duy muôn nẻo nơi nhà Phật và những hình tướng muôn màu của đời sống. Đã có những cao tăng mà cùng song hành với hoạt động nghiên cứu của kinh điển và rao giảng Phật pháp cho đời, đã thành danh như một thi nhân, đem nhan sắc vi diệu của đất, đá và điều an vi của giòng suối từ núi sâu trôi chảy xuống bình nguyên đời mà phổ vào thơ. Nhưng cũng hiện diện rực rỡ và sinh động trong vườn thơ này là những người ẩn tích trong tâm thất, trầm mình trong đời sống tu tập, tịnh mặc trong hương khói ngoại am. Có lẽ những người thơ ấy sẽ chẳng bao giờ là thi sĩ, nhưng những giòng thơ đóng góp trong vườn thơ lại chính là những điều tâm đắc về giáo lý, giản dị và sâu sắc, dung dị và nhiệm mầu, trân trọng với nhân loại mà không một chút băn khoăn về hình tướng. Rồi từ đó vào đời những thông điệp, hay đơn sơ, những lời dâng nồng nàn và không kém sáng soi như Đuốc Tuệ.
Xin được nhìn vườn thơ như con đường giao hưởng. Những chủng tử sống trong vườn thơ này có lúc dấu nối cùng nhau như thác sinh cùng bọc, có lúc cô độc với ngọn lửa tâm linh của chính mình in trên vách. Những chủng tử ấy, qua vườn thơ này, xin cùng góp nhặt cát đá gạn lọc từ thể xác riêng phần hay tích cóp từ trùng tu của luân hồi mà gây dựng thành con đường giao hưởng đi vào lòng người và đạo pháp.
Xin được nhìn vườn thơ như vị thiền núi bạc, hay người cư sĩ tâm cảm với kinh sách mà vẫn cưu mang đời sống, hay nhà sư thăng bằng trên đôi vai, cân đối trong trái tim, tâm tình hiến dâng cho đạo và đời. Tất cả như lấy ý ngôn phiêu bồng mà nồng nàn với đời sống từ di sản của kinh điển mà hoàn thành vườn thơ này.
Xin được nghiêng mình hái một đóa sen trắng để tặng cho nhân loại, cho niềm tin và đạo pháp
Diệu Anh
Houston, Texas - Đông 2002
HÒA THƯỢNG THÍCH TÂM CHÂU
TỔ ĐÌNH TỪ QUANG
GIẤC MỘNG PHÙ SINH
Giấc mộng phù sinh vẫn thế thôi,
Nhục, vinh, thành, bại mặc cho đời.
Lòng trong, ôm ấp đời và đạo,
Cùng với thiên nhiên nở nụ cười.
Xuân Canh Thìn: 10-02-2000
VUI VỚI NIỀM VUI
Vui với niềm vui của Đạo Vàng,
Vui cùng tứ chúng[1]mỗi hè sang.
Vui mây bàng bạc mười phương hợp,
Vui nắng dâng hoa đẹp mọi đàng.
Chân lý cao siêu được hiện lên[2],
Xa xưa vườn Lộc đã xây nền.
Sinh già bệnh tử, tươi màu đạo,
Nét đẹp vô sinh, bóng dáng hiền.
Chỉ “biết” và không, có thế thôi,
Thung- dung-chân-cảnh dẹp luân- hồi.
Hư- không phóng khoáng không triền- phược,
Như Thánh cầu mong ánh sáng ngời.
Thiện-sinh hiếu hạnh lễ gì đây?
Lễ sáu phương tâm trả đức dầy.
Đẹp đạo, tốt đời đây Cực Lạc,
Đây nguồn chân lý khỏi vơi đầy.
Chân voi to rộng sánh sao bằng,
Đức cả hư-không, đạo chuyển thăng.
Thế- trí lặng trầm qua mắt tuệ,
Rạch, nguồn xa thẳm dưới sông Hằng.
Tầm cầu giải thoát hiểu đường đi,
Đi tới nơi “ tâm chẳng động” gì.
Chặt lõi cây mang, mang đạt đích,
Vô biên pháp giới một lòng ghi !
Tin nơi chân lý chớ tin càn,
Dù bởi đâu đâu vẫn chẳng can.
Rõ thực, hiểu sâu bằng thực nghiệm,
An vui, lợi lạc, phúc muôn vàn.
Vui với niềm vui tâm lắng trong,
Cùng chung tỉnh thức đạo vun trồng.
Cùng lên bờ giác tâm an lạc,
Cùng đón quần sinh thoát bụi hồng.
Mùa Nghiên Tu An Cư
Tổ Đình Từ Quang: 14-7-2001
CÁNH HOA TÂM
Lồng lộng thái -hư,
Mông mênh sa- giới.
Chờn vờn vi vật,
Tĩnh lặng suy tư,
Dáng tâm hoa,
Muôn cánh,
Nở chu tuyền.
Hoa tâm muôn cánh diệu huyền
Núi sông cây cỏ góp duyên thuở nào.
Lưng trời lấp lánh trăng sao,
Mây bay gió thổi dạt dào nguồn sông.
Mưa rơi nắng dãi xanh đồng,
Chim muông hả mộng phiêu bồng tiêu dao.
Nhân sinh trọn chí anh hào,
Tùng xanh sương tuyết tuôn trào khí thiêng
Lồng trong pháp giới vô biên,
Nhịp nhàng tự tại chân thiền thăng hoa.
Hoa tâm hương ngát Sa-Bà,
Hoa tâm hiện bóng Di Đà nơi đây.
Hoa tâm gạn hết vơi đầy,
Hoa tâm bừng sáng muôn loài chung vui.
Hoa tâm dâng trọn cho người,
Cùng chung xây dựng cảnh đời như nhiên.
Montreal, mùa thu năm 2000
THOÁT THẾ [3]
( Thoát Đời)
Phiên thân nhất trịch xuất phần lung,
Vạn sự đô lô nhập nhãn không.
Tam giới mang mang tâm liễu liễu,
Nguyệt hoa Tây một, nhật thăng đông.
Dịch
Trở mình thoát lửa lao lung,
Mắt nhìn sự vật suốt cùng đều không.
Tâm thong ba cõi mênh mong,
Trăng Tây lẫn bong, trời Đông loé hồng.
Phỏng dịch thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ
KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO [4]
(Khuyên đời tiến đạo)
Tứ tự tuần- hoàn Xuân phục Thu,
Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.
Vinh-hoa khẳng cố nhất trường mộng,
Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.
Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,
Ái-hà xuất một đẳng phù-âu.
Phùng trường diệc bất mô lai tỵ,
Vô hạn lương duyên cửu mạ hưu!
Dịch
Bốn mùa Xuân lại tới Thu,
Đầu xanh chốc đã phất phơ bạc màu.
Vinh hoa phủ giấc mộng sâu,
Tháng năm ôm ấp mối sầu muôn thưng.
Xe lăn nẽo khổ không ngừng,
Sông yêu chìm nỗi như chừng bọt tan.
Gặp đâu hay đó… không cần,
Lương –duyên vô hạn chỉ ngần ấy chăng?
Phỏng dịch thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ
HOÀ THƯỢNG THÍCH HUYỀN VI
CHÙA LINH SƠN
GIÁNG SANH CẢM NIỆM
Năng nhơn thừa tượng hạ trần gian,
Tịnh Phạn Mẫu Hoàng thậm chí hoang,
Vô Ưu hoa thịnh hữu thủ tiếp,
Kim bồn mộc dục cảnh nghiêm trang.
Tứ phương thất bộ thiên địa chỉ,
Độc tôn chân ngã tùng vô thủy,
Bổn tâm toàn giác Như lai ngộ,
Khai hoá quần sanh chân thiện mỹ.
Dịch
Năng nhơn cưỡi tượng xuống trần gian,
Tịnh Phạn Mẫu hoàng rất hỷ hoan,
Tay hái Vô Ưu đang nẩy nở,
Bồn vàng tắm Phật cảnh nghiêm trang.
Bảy bước bốn phương chỉ đất trời,
Mình ta chơn ngã độc tôn thôi,
Như Lai biết được là tâm ngộ,
Khai hoá quần sanh thiện Mỹ đời.
GIÁNG SANH CẢM NIỆM
Giáng sinh tu chứng độ quần mê
Giáng sinh xuất tục thoát khổ nê
Giáng sinh thành đạo siêu tam giới
Giáng sinh nhập diệt triệt Bồ đề.
Giáng sinh khai Phật tri kiến tiên
Giáng sinh thị Phật tri kiến liên
Giáng sinh ngộ Phật tri kiến tánh
Giáng sinh nhập Phật tri kiến nguyên.
Dịch
Sinh xuống tục nêu gương thanh thoát
Sinh xuống tu thành đoạt cơ thiêng
Sinh xuống vượt khỏi ba miền
Sinh rồi vắng lặng như nhiên Bồ đề
Sinh xuống mở cửa về chân nhất
Sinh xuống bày thấy thật tiếp liên
Sinh xuống gặp tánh Phật huyền
Sinh xuống vào thẳng Giác nguyên hoàn toàn.
BÁO HIẾU
Mục Liên Tôn Giả hiếu từ thân
Chư thú tầm nương dục báo Ân
Ngã quỷ thọ hình tra thảm não
Khổ nạn cứu bạt ngưỡng Toàn Chân
Thất ngoạt, Phật ngôn: cứu Thế Nhân,
Vu Lan kỳ nguyện độ mê tân
Cúng dường tứ sự Tăng, Ni nạp
Tận lực, tận tâm, tận khổ phần!
Dịch
Đại Đức Mục Liên hiếu Mẹ già,
Kiếm tìm khắp cõi mới hay bà,
Ngục hình ngã quỷ người đang khổ,
Tai nạn dứt trừ nhờ Phật Đà.
Tháng bảy Phật khuyên cứu thế nhân
Vu Lan cầu nguyện khỏi mê tân,
Cúng dường tứ sự Tăng Ni nạp,
Rán sức hết lòng, dứt khổ phần.
CẢM NIỆM TÂN NIÊN
Khánh chúc Tân Niên Di Lặc Tôn,
Châu viên vạn đức chiếu sơn môn,
Long Hoa tam hội truyền duyên pháp,
Đâu Suất nội viện thuyết ngọc ngôn.
Nhâm Ngọ chung niên toàn thạnh đạt,
Ngũ châu Phật tử đáo Linh Sơn,
Trường xuân chánh đạo hoàn thanh cảnh,
Thọ ký đương lai tâm chánh chơn.
Dịch
Kính chúc Tân Xuân Di Lặc Tôn
Tròn năm muôn đức chiếu sơn môn,
Long Hoa ba hội truyền duyên pháp,
Đâu Suất cung trời tỏ ngọc ngôn,
Nhâm Ngọ trọn năm đầy thành đạt,
Năm châu Phật tử đến Linh Sơn,
Xuân daì chánh đạo hoàn thanh cảnh,
Thọ ký ngày sau tâm chánh chơn…
HOÀ THƯỢNG THÍCH GIÁC NHIÊN
TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG
KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
Ngày Phật Đản chúng con thường tưởng nhớ
Ân cao dày của một Đấng Cha lành
Cả cuộc đời, vì nhân loại chúng sanh
Nên chí nguyện , mói giáng trần độ chúng.
Cung Đâu Suất Bồ Tát danh Thiện Huệ
Tu nhiều đời nhiều kiếp mới được nên
Hưởng Niết Bàn, an lạc mãi thường bền
Thương sanh chúng lầm than trong Tam giới
Ngài quán xét, cõi Ta bà mong đợi
Đấng Từ bi xuất hiện độ chúng sanh
Ngài nhập thần, quán chiếu thấy rành rành
Trung Ấn Độ có đức vua Tịnh Phạn
Và Hoàng Hậu Ma Gia người trong sang
Đức hạnh nhiều, mọi người kính mến yêu
Đấng Mẫu từ và thuận tiện mọi điều,
Nên giáng xuống làm Đông cung thái tử
Vừa anh ra Tiên Tư Đà xem thử
Tướng phi thường đều khác hẳn người đời
Ngài đoán rằng: Khi Thái tử lớn khôn
Quyết giải thoát, tu đắc thành chánh quả.
Đem Chánh pháp phổ truyền lan khắp cả
Độ nhân sanh, cùng thế giới năm châu
Đạo của Ngài là vi diệu nhiệm mầu
Đáng sanh chúng muôn triệu đời ca tụng.
Lời tiên đoán A Tư Đà rất đúng
Ngày hôm nay hai ngàn bảy trăm năm (2620)
Khắp năm châu tháng tư đúng ngày rằm
Lễ Phật Đản hằng năm đều niệm tưởng
Hàng Phật tử chúng con đồng tín ngưỡng
Xin thành tâm kính lạy đấng Từ Tôn
Nguyện vâng theo lời ngọc ngữ kim ngôn
Trong Tam tạng, ân đức Ngài chỉ dạy
Tu giải thoát, cõi Ta bà khổ hải
Đừng xuống lên, sanh tử cõi trần gian
Đến khi nào đắc quả nhập Niết Bàn
Là bổn nguyện tròn xong người con Phật.
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
PHÁP LỤC ĐỘ
Ra ân Bố Thígiúp cùng nhau
Trì Giớigiữ gìn vẹn trước sau
Nhẫn Nhụcthương người cơn thống khổ
Giải mê giúp kẻ buổi lao đao
Tánh tâm chẳng vướng nhơ trần bợn
Tinh Tấncàng thêm phần giá cao
Thiền Địnhlặng trong thâu vạn pháp
Đạt thành Bát Nhãsớm nhanh mau
TÌNH THƯƠNG CỦA PHẬT
Đức Phật tình thương cả vạn loài
Ngài là toàn giác đấng Như Lai
Biết đời đau khổ nhiều cay đắng
Đem pháp huyền linh mới chỉ bày
Biển khổ Ta bà luân chuyển mãi
Sanh già đau chết cứ bi ai
Tham gian ác quấy gây sầu khổ
Quả nghiệp vần xoay xuống lên hoài.
DIỆU LÝ HOA NGHIÊM
Thiện Tài Đồng Tử đi cầu pháp
Thiện Tài Đồng Tử quyết tầm sư
Học hỏi suốt thông mối đạo từ
Giới đức nghiêm trì gìn đạo hạnh
Mở tâm khai ngộ lý chân như
Liễu khai vạn pháp minh tâm đạt
Thấu rõ tánh chân được vẹn mười
Tri cổ triệt kim đều suốt lý
Thiện Tài vốn thiệt trí vô sư.
CHÂN TÂM
Hạnh Phúc tìm trong ở chính mình
Tâm mình trong lặng trí quang minh
Tam tâm tứ tướng không còn nữa
Tánh tịnh Niết bàn đạt quả linh
Tất cả những gì tướng hữu vi
Ví như giọt nước có ra gì?
Khác nào điển chớp sương đầu cỏ
Chung cuộc đáo đầu chẳng có chi?
Chỉ có chân tâm thật của mình
Tịnh lòng trí sáng huệ quang minh
Thông tri vạn pháp vô nan sự
Bổn thể chân như xuất lộ hình.
Mê nhiễm trần gian phải đắm chìm
Xuống lên trồi ngụp mãi triền miên
Khó mong thoát khỏi vòng luân chuyển
Nương Bát Nhã thuyền mới vững yên
Trí huệ công năng thắng vạn thù
Vô minh phá vỡ dứt phàm phu
Bổn lai thể hiện chân như lộ
Phật tánh ngộ rồi dứt tuyệt ngu.
HÒA THƯỢNG THÍCH THẮNG HOAN
CHÙA PHẬT ÂN
TIẾNG MÕ KINH CẦU
Vang đều tiếng mõ gọi xa
Gói tròn kinh tụng thiền ca vọng về
Rót vào hố thẳm cơn mê
Lay người tỉnh mộng bên lề trầm luân
Âm ba chuỗi ngọc lan dần
Bao nhiêu vọng tưởng nghe chừng rụng rơi
Chân tâm đã thức dậy rồi
Bỗng nhiên miệng nở nụ cười xuân xanh
Tuy rằng sống giữa phù sinh
Nhưng mình cảm thấy bình minh sáng làu
Đi trong hơi thở nhiệm mầu
Nhẹ nhàng kinh tụng kết sâu mối tình.
TÌM HẠNH PHÚC TRÊN THAM VỌNG
Chập chờn trên lá lục
Đàn bướm vàng nhởn nhơ
Nô đùa theo nhạc sống
Thanh bình xây ước mơ
Vạn đóa hoa hàm tiếu
Ngàn hương thơm ngát bay
Bướm vàng thi nhau lượn
Đang ướp mộng tương lai
Khách Trần từ đâu lại
Nhẫn chi bắt bướm hoa
Đem ép vào lòng sách
Giết chết bản tình ca.
Thương thay người lữ khách
Làm mất vẽ đẹp xinh
Của bướm hoa trời đất
Ôm xác rã bên mình.
Hạnh phúc nhân duyên đến
Thiếu duyên không thể sanh
Tìm cầu trong tham vọng
Lệ thấm suốt trường canh.
BÊN ÁN SƯƠNG LAM
Khói sương cuồn cuộn lên đồi
Màn sương phủ kín chân trời cô thôn
Đồi thông lặng đứng sương ôm
Cỏ cây ấp ủ mặn nồng tình xuân
Nghe như sức sống lên đường
Đất trời rung chuyển nguồn thương nẩy mầm
Nghe như thế giới hoà âm
Thiền ca điệp khúc ngàn năm nhiệm mầu
Trần ai lắng đọng sạch làu
Lăng Già ảnh hiện nhịp cầu thiên thai
Thiền trà thắm giọt sương mai
Hương thơm Diệu Pháp vị đầy Chân Như
Đèn tâm soi sáng án thư
Hiên ngoài sương dệt vần thơ Niết Bàn
MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN
Ngày Phật Đản tin về mùa kỷ niệm
Rộn ràng lên người con Phật năm châu
Nghe nguồn vui mang sắc thái nhiệm mầu
Niềm tin vững in sâu lòng thệ nguyện
Bậc Đại Giác Ta Bà đà xuất hiện
Cứu quần sanh thoát khỏi biển trầm luân
Phá si mê người ngọn đuốc dẫn đường
Thuyền Bát Nhã vươn cao buồm trí tuệ
Người nhận thấy trần gian bao thế hệ
Phũ phàng lên kiếp nô lệ lầm than
Tạo cho nhau giai cấp trói buộc ràng
Bị khống chế bởi quyền năng không tưởng
Cứ hy sinh suốt cuộc đời vất vưởng
Trong khổ đau đầy ác trược triền miên
Trôi xuống lên vòng sanh tử não phiền
Lôi cuốn mãi theo vô minh nghiệp báo
Người thương xót liền mở bày Chánh đạo
Hướng nẻo chân lời dạy bảo rõ rành:
“ Các con đây chính là Phật sẽ thành,
Đều bình đẳng hãy mau lên Chánh Giác”
Thật chân lý và tình thương bàng bạc
Lời ngọc vàng vẫn ghi tạc lòng son
Tiếng Pháp âm vẫn vang dội chuông ngân
Chúng con nguyện bước theo chân Phật Tổ
Để nhớ ơn một bậc Thầy giác ngộ
Gương hy sinh người tế độ trần gian
Ngày Đản Sanh thị hiện thật huy hoàng
Chúng con nguyện kết hoa đăng tưởng niệm.
TIẾNG CHUÔNG
Mỗi lần điểm tiếng chuông ngân
Bao nhiêu vọng tưởng bỗng nhiên rụng rời
Trở về thực tại trong tôi
Phút giây chánh niệm đất trời lặng yên
Cửa tùng mở cánh chân nguyên
Vô ưu bắt nhịp cầu duyên Niết Bàn
Chim kêu Thiền thoại hành trang
Suối reo hòa khúc nhạc vàng Tâm Kinh
Thiền hương thơm bước tiến trình
Gót hài lưu dấu tinh anh nhiệm mầu
Tiếng chuông lãnh lót ngàn sau
Tỉnh người bến mộng sạch làu trần ai
Cách xa dù mấy dậm dài
Từ bi chất liệu tình xây nối liền
Đèn tâm soi sáng não phiền
Nguồn vui giải thoát đài sen kết thành
Bấy nhiêu chánh niệm cảm nên
Hiển bày qua tiếng chuông thanh nhịp nhàng
Tuy rằng bặt tiếng chuông ngân
Nhưng người tỉnh thức vẫn còn dư âm.
HÒA THƯỢNG THÍCH CHÁNH LẠC
CHÙA NHƯ LAI
TÁN PHẬT
Văn suôi
Thân Phật thanh tịnh như lưu ly
Mặt Phật là trăng tròn sáng tỏ
Phật ở thế gian để cứu khổ
Tâm Phật từ bi khắp nơi nơi
Văn vần
Lưu ly thanh tịnh Phật thân
Trăng tròn sáng tỏ trong ngần Phật nhan
Phật luôn cứu khổ thế gian
Từ bi tâm Phật muôn vàn nơi nơi
TÁN PHẬT
Mặt Phật là trăng tròn sáng tỏ
Cũng như ánh sáng ngàn thái dương
Viên quang chiếu khắp mười phương
Từ Bi Hỷ Xả yêu thương muôn loài
HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC LƯỢNG
PHÁP DUYÊN TỊNH XÁ
RẠNG DANH NGƯỜI
Kính dâng Đại Lão Hoà Thượng
Thích Huyền Quang
Giácdòng họ Thích Giác muôn sanh
Lượngquyết tâm tu Lượngchí thành
Kínhbậc Tôn Sư Nguyềnphụng hiến
DângNgài Đại Lão Xứngtinh anh
Hoàđời bảo đạo Gươnglòng sáng
Thượngquốc yêu dân Rạngtánh danh
Huyềnnhiệm pháp mầu Ngờibát chánh
Quangnhư nhật nguyệt Giữa Trời Thanh
San Jose Hoa Kỳ
Mùa Phật Đản 2626-2546-2002
THỈNH TÔN TƯỢNG QUÁN ÂM
Cungthành hướng nguyện Quán Âm
ThỉnhNgài thương xót giáng lâm thế trần
Thánhnguyền cứu khổ độ dân
Tượngtôn thạch bích trong ngần ánh quang
Bồđề liên toạ ngự an
Tátđỏa tiền điện vững trang nghiêm đài
Quántường cao ngút từng hai
Thếgian chiêm ngưỡng đức Ngài uy nghi
Âmvang linh cảm đại bi
Annhư tịnh thủy chuyển đi khắp miền
Ngựtừ đỉnh Bát Nhã duyên
Tạinguồn chánh pháp lòng thiền mở khai
Phápmầu độ khắp muôn loài
Duyêntrao đến những ai ai cầu nguyền
Tịnhlòng khấn nguyện bình yên
Xá nơi tích thiện vĩnh miên phúc lành
Santình Phật hóa chúng sanh
Jose kính đạo đạt thành ước mong.
Xuân năm 2000
NGUYỆN CHUNG XÂY
Mến tặng T.T. Thích Tín Nghĩa
Tuệnhật thường lưu khắp đó đây
Đàm hoa tỏa ngát vị hương đầy
Tửtâm thông thấu nguồn chân lý
Tặngý trao duyên pháp hữu này
Thượng chí cao vun nền chánh pháp
Tọanơi trần thế nguyện chung xây
Tínlòng mong mãi lo tròn phận
Nghĩađẹp đạo đời quý hoá thay.
Nhân kỳ Đại Hội GHPGVNTNHN/HK Kỳ III 12-10-2002
HƯƠNG VỊ GIẢI THOÁT
Hữu duyên thay cho con người hữu phước
Sanh ra đời được gặp ánh Minh Quang
Đèn Chơn lý chiếu soi lòng tỏ ngộ|
Và nương theo nguồn đạo sống thanh nhàn
Hữu hạnh thay cho con người được độ
Về Tây Phương Phật Quốc hưởng Niết Bàn
Cảnh Cực Lạc trường tồn yên vĩnh viễn
Sống chơn thường ngự tọa khắp không gian
Quý hóa thay cho con người chí nguyện
Hoà chung nhau một thể sống đại đồng
Khắp vũ trụ muôn vạn loài yêu mến
Lòng mong cầu giác ngộ mới thành công
Thỏa mãn thay cho con người đạt đến
Lẹ huyền vi mầu nhiệm của trường đời
Hòa nhịp sống đượm nhuần trên nhân thế
Gieo Ánh Vàng chiếu rọi khắp cùng nơi.
ÁNH ĐẠO VÀNG
(Họa y vận bài Ánh Đạo Vàng
Thơ Nữ Sĩ Tuệ Nga)
Họamấy vần thơ kết ngọc tràng
Bàivăn đượm sắc chiếu Huỳnh Quang
Thơhoa ngát tỏa mùi thiên lý
Ánh nguyệt rạng ngời cánh Huệ Lan
Đạo tiếp người đời qua bến giác
Vàngsoi nhân thế thoát trần gian
Tuệkhai bút pháp chân tâm hiện
Ngahướng lòng tu kính đạo vàng.
San Jose, Mạnh Hạ 2000
HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN TRÌ
CHÙA KIM QUANG
MỪNG XUÂN ẤT HỢI
Sự đời qua trước mắt
Tợ sân khấu ti vi
Khổ vui bao thảm cảnh
Buông màn còn có chi?
Đón mừng xuân Ất Hợi
Bằng chánh quán liễu tri
Lẽ vô thường vô ngã
Nguyện tinh tấn tu trì
Phát huy giới định tuệ
Dứt diệt tham sân si
An vui trong chánh niệm
Tâm hỷ xả từ bi.
TĨNH TỌA
Biển cả rền sóng vỗ
Non cao vách đá xây
Thiền sư ngồi tĩnh tọa
Lưng trời mây trắng bay.
Hạ Uy Di 1985
BƯỚC CHÂN DU HÓA
Bước chân du hóa Ta bà
Tạm dừng gót ngắm trời Ga-Lăng này
Chiều thu mặt biển chân mây
Trăng soi đáy nước đồi cây bóng lồng
Thiên thu vạn vật chắc không
Cảm thương biển khổ bềnh bồng sanh linh
Ngày mai bến giác đăng trình
Thuyền từ xin chở chúng sinh lên bờ
Tị nạn ở đảo Ga-Lăng
THƯỢNG TỌA THÍCH TUỆ SỸ
HẠ SƠN
Ngày mai sư xuống núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm tháng
Hương trầm lỡ cuộc say
Bình minh sư xuống núi
Tóc trắng hờn sinh nhai
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống núi
Phố thị bước đường cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông lung
Bình minh sư xuống núi
Khoé mắt còn rưng rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường rừng.
MỘNG NGÀY
Ta cỡi kiến đi tìm tiên động
Cõi trường sinh đàn bướm dật dờ
Cóc và nhái lang thang tìm sống
Trong hang sâu con rắn nằm mơ
Đầu cửa động đàn ong luân vũ
Chị hoa rừng son phấn lẳng lơ
Thẹn hương sắc lau già vươn dậy
Làm tiên ông tóc trắng phất phơ
Kiến bò quanh nhọc nhằn kiếm sống
Ta trên lưng món nợ ân tình
Cũng định mệnh lạc loài tổ quốc
Cũng tình chung tơ nắng mong manh.
Ta hỏi kiến nơi nào cõi tịnh
Ngoài hư không có dấu chim bay
Từ tiếng gọi màu đen đất khổ
Thắp tâm tư thay ánh mặt trời?
Ta gọ kiến, ngập ngừng mây bạc
Đường ta đi, non nước bồi hồi
Bóc quá khứ, thiên thần kinh ngạc
Cắn vô biên trái mộng vỡ đôi
Non nước ấy trầm ngâm từ độ
Lửa rừng khuya yêu xác lá khô
Ta đi tìm trái tim đã vỡ
Đói thời giant a gặm hư vô.
Saigòn,1984
TỐNG BIỆT HÀNH
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi mây trắng đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy sương sớm
Cạn hết ân tình, nước lạnh sao?
Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi.
Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân Hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn năm ố nhạt nhòa.
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng thu mưa náu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm hay máu xanh.
Nha Trang, 1977
THƯƠNG NHỚ
Mười lăm năm một bước đường
lòng lữ thứ đoạn trường, cha ơi
Đêm dài tưởng tượng cha ngồi
Gối cao tóc trắng rã rời thân con
Phù sinh một kiếp chưa tròn
Chiêm bao hạc trắng hãi hùng thiên cơ
Tuần trăng cữ nước tình cờ
Lạc loài du tử mắt mờ viễn phương
Tàn canh mộng đổ vô thường
Bơ vơ quán trọ khói sương đọa đày
Nha Trang, 1976
THƯỢNG TỌA THÍCH TỊNH ĐỨC
CHÙA ĐẠO QUANG
VỀ RỪNG
Ta về rừng núi bao la,
Nhìn sương rơi rụng, nhìn hoa lạc giòng.
Phù sinh một kiếp long đong,
Tiếng kinh vang vọng cô phong ngút ngàn.
Chiều về sương khói mênh mang,
Chuông chiều ngân giữa già lam lạnh lùng.
Mình ta lạc cõi vô cùng,
Như người lặn hụp giữa giòng tử sinh
Ta đi riêng một bóng hình,
Mang theo thức nghiệp tâm linh một đời.
Ra vào sinh tử chơi vơi,
Bờ mê, bến hoặc chuyển lời đạo xưa.
VÃNG AM
Gió ngàn lồng lộng rừng sâu
Am cheo leo đứng bên cầu Lãng Nhân
Sớm ra ngẫn thấy Phù-Vân
Một màu mây trắng, trắng ngần-đổi thay
Nghe chim hót, báo rạng ngày
Cho bình minh dậy, sương lay giọt sầu
Thoảng trong gió tiếng kinh cầu
vang vang, vọng vọng nhiệm mầu diệu âm
Có người phố thị về thăm
Đôi vai quảy nặng vi trần lợi danh
Nghe đồn chi lạ am tranh
Lần đi cho biết rừng xanh thế nào.
Buồn ơi rả rích mưa rào
Mưa tuôn hiên lạnh ôi chao nhớ nhà
Nằm nghe nhớ mẹ, nhớ cha
Nhớ non, nhớ nước, nhớ bà, nhớ con
Nhớ câu nước chảy đá mòn
Cây đa bến cũ đò còn khách đưa?
Biệt quê mẹ buổi chiều mưa
Giàn thiên lý nở bên chùa ngát hương
Nay xứ lạ, sống tha phương
Đoạn trường biến đổi; tang thương lạc loài
Sáng ra tỉnh mộng u hoài
Giã từ rừng vắng, đáo lai phố phường
Trong lòng còn chút vấn vương
Chiếc am cô lạnh vô thường Phù-vân
July,1998
MỘT KIẾP PHÙ SINH
Phù sinh nợ phù sinh duyên
Quẳng gánh ưu tư nhập đạo thiền
Nửa đêm bừng tỉnh trên giường mộng
Chợt biết ra mình thoát đảo điên.
Thoát đảo điên hề đời ta thênh thang
Hết say sưa hề hồn ta mơ màng
Nam Kha một giấc hề hồn ta miên man
Mộng hay thực hề lòng ta bàng hoàng.
Vu sơn giả mộng kiếp nhân sinh
Tay trắng hài nhi bướm hoá hình
Phù kiều mấy đoạn đời trôi nổi
Cập bến thiền môn tách bến tình.
Bồ đề một chuỗi của Thầy ban
Nhiếp niệm Hồng danh hiểu Đạo vang
Nam Mô thường niệm tâm thường tịnh
Tâm thường tịnh hề phiền não tan.
Khô Mộc thiền sư mở đạo tràng
ta theo diện bích ( sổ tức quan)
Chuyển mê khai ngộ trầm luân dứt
Biển đời thôi động biển mê sang.
Chèo thuyền Bát Nhã dạo thong dong
Chở ánh trăng khuya sáng rực song
Lâng lâng trần nhiễm lòng vô nhiễm
Thế sự thăng trầm vạn sự thông.
DẠY CON VÀO ĐỜI
Con còn nhỏ chim non vừa đủ cánh
Hãy bay đi vào biển rộng sông hồ
Gắng lên con vượt rừng núi hư vô
Chuyển đôi cánh mỗi ngày thêm cứng cáp
Con ơi đời đầy phong ba bão táp
Gió muôn trùng lồng lộng quạt bay con
Phải đương đầu những chướng ngại trầm oan
Con tự hiểu lớn khôn là phải sống
Gắng lên con dù trời cao biển rộng
Chí kiên cường con khắc phục khó khăn
Khổ cho con là tìm kiếm miếng ăn
Vì thơ dại con mồi không dễ kiếm
Nhưng thời gian sẽ dạy con kinh nghiệm
Sức sẽ bền chí sẽ vững thêm lên
Có những tuổi sầu quằn quại triền mien
Những nhục nhã phải cắn răng chịu lấy
Này con ơi muốn cho đời bừng dậy
Phải tự mình học lấy những thương đau
Cha Mẹ nuôi con khôn lớn đến độ nào
Rồi cũng phải xa con ngoan khờ dại
Phải ráng nhớ nghe con đừng ham dừng lại
Ở những nơi đầy mật ngọt mồi ngon
Bẫy sẳn giăng lừa dịp chờ bắt con
Lầm một chút là cuộc đời vong mạng
Tuy hiểu rằng hữu sinh thì hữu hạn
Nhưng chết sao cho liệt liệt oanh oanh
Có đôi lúc phải xả kỷ hy sinh
Xem cái chết tựa lông hồng nhẹ bỗng
Nhưng có úc phải nhục nhằn kham nhẫn
Dành mạng này cho đại cuộc mai sau
Đừng chỉ vì phút tức khí chẳng vào đâu
Mà phí bỏ cuộc đời trong vô nghĩa
Có đôi lúc bị thế gian mai mĩa
Xem như không để ý đến làm gì
Miễn sống sao đừng đánh mất lương tri
Đừng tàn hại đồng bào cùng huyết thống
Nhớ rõ câu là trời cao đất rộng
Mảnh lưới trời có lọt thoát ai đâu
Nếu kẻ nào ham danh lợi công hầu
Đem bán rẽ lương tâm cùng nghĩa khí
Lúc khó nghèo hay những khi cực bỉ
Phải giữ mình cho sạch rách thơm
Sống bao lâu tranh được được hơn hơn
Lúc nhắm mắt đều chẳng còn chi cả
Lợi lợi, danh danh mồi ngon vật lạ
Giã từ đời tay trắng lại hoàn không
Nhớ nghe con!
Nhớ nghe con! đừng ảo mộng tìm mong!
Phù vân Am, 1986
[1]Bốn chúng của Đức Phật: Tăng, Ni, Thiện nam , Tín nữ
[2]Các đoạn thơ dưới đây, ngầm nêu các kinh đã giảng trong Mùa Nghiên Tu An Cư này như kinh: Chuyển Pháp Luân, kinh Thánh Cầu, kinh Thiện Sinh, kinh Dụ Dấu Chân Voi, kinh Dụ Lõi Cây, kinh Kalama
[3]Đại ý: Muốn thoát ra cõi đời đầy phiền não, cần phải có chí quyết liệt, dám trở mình, nhảy vọt ra khỏi vòng lửa đang thiêu đốt. Đời vô thường, muôn sự đều vô thường. Thoát được tâm thênh thang, ba cõi ( cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) mông mênh, an nhiên tự tại, thấy ánh trăng đẹp lặn phương Tây, mặt trời mọc phương Đông như thường.
[4]Đại ý: Bài thơ này khuyên người ta vào đạo, tu đạo, tiến đạo. Cảm nhận đời là vô thường: Xuân đến Thu. Đầu xanh thanh đầu bạc. Vinh hoa là giấc mộng, năm tháng những buồn rầu. Cứ thế, chìm nỗi trong luân hồi, lăng xăng trong yêu ghét. Gặp cơ hội, không biết sờ lên mũi, xem hơi thở còn hay mất. Duyên lành chỉ có hạn thôi. Đừng nên gặp đâu hay đó, như trong Tuyền ăng Lục có câu: “ Can mộc tùy thân, phùng trường tác hý” Nghĩa là gậy gộc theo mình, gặp chỗ nào chơi đùa chỗ ấy.