Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Tứ diệu đế

02/04/201101:41(Xem: 4351)
5. Tứ diệu đế

KINH NGHIỆM THIỀN QUÁN
Tác giả: Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Con đường tu tập

Tứ diệu đế

Khi giáo lý của Đức Phật được truyền bá khắp nơi trên thế giới, có nhiều trường phái với nhiều lối giải thích khác nhau về Phật pháp được phát sinh. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có một hệ thống luận giải riêng và những phương tiện khéo léo riêng biệt. Mac dù các truyền thống khác nhau ấy có thể hiểu khác nhau về một số điểm trong giáo lý Đức Phật, nhưng có một điểm chung trong giáo pháp mà bao giờ cũng là trọng tâm của mọi truyền thống. Đó là Tứ diệu đế, hay Bốn sự thật mầu nhiệm.

Đức Phật dạy, sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế là Khổ đế, sự thật về khổ đau, trong tiếng Pali là dukkha. Chữ dukkha có một nghĩa rất rộng, bao gồm cả khổ đau, bất an và sự bất toại nguyện. Đức Phật sau khi giác ngộ đã đối diện với sự thật về khổ đau trong cuộc đời một cách không sợ hãi, không ta thán. Ngài đã nhận diện những vấn đề của khổ đau hết sức rõ ràng: nỗi đau đớn của sinh, lão, bệnh, tử, buồn lo, thất vọng, ưu tư, sầu khổ vì xa lìa người mình yêu, vì gần gũi người mình không ưa thích, vì không có được điều mình muốn - tất cả những cái ấy đều là dukkha. Khi ta quán chiếu tự tính duyên khởi của mọi hiện tượng một cách sâu xa và tinh tế, ta sẽ bắt đầu thấy được bản chất cố hữu của chúng là khổ đau.

Chúng ta ai cũng biết rằng những cảm thọ đau đớn trong tâm và thân là khổ đau. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm được khổ đau ấy khi ta ý thức được sự ngắn ngủi tạm thời của mọi hiện tượng. Không có bất cứ một kinh nghiệm nào, cho dù tuyệt vời đến đâu, lại có thể đem đến cho ta một sự thỏa mãn sâu xa và trường cửu, vì chúng lúc nào cũng thay đổi. Sự biến chuyển không ngừng của các hiện tượng thường khiến tôi liên tưởng đến dòng nước đổ xuống từ thác cao. Dòng nước đổ xuống, tan tác, bất tận, mạnh mẽ, không ngừng nghỉ. Đó cũng là tự tính của mọi hiện tượng.

Thêm vào đó, Đức Phật đã diễn tả về một loại khổ đau thứ ba rất chi tiết trong một bài pháp nói về lửa: “Mắt đang bị lửa thiêu đốt, tai đang bị lửa thiêu đốt... Thân... tâm... đang bị lửa nào thiêu đốt? Lửa của tham lam, lửa của sân hận và lửa của si mê.”

Chúng ta khó có thể cởi mở sự thật khổ đau, vì lúc nào ta cũng muốn trốn tránh, tìm sự ẩn náu trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta thường đi tìm hạnh phúc và nương tựa vào những gì đem lại cho mình khoái lạc, mặc dù chính chúng cũng chỉ là tạm bợ và nhất thời mà thôi. Tất cả cũng chỉ vì phần đông chúng ta không biết thực tập phương pháp dừng lại và cởi mở ra với sự sống chung quanh, để có thể cảm nhận được những gì thực sự đang diễn ra.

Có một điều hơi mâu thuẫn về khổ đau, nhưng cũng rất nhiệm mầu, là khi ta càng tiếp xúc, càng tìm hiểu khổ đau thì tâm ta càng trở nên nhẹ nhàng và tự do hơn. Vì khi ta không còn chối bỏ hay trốn tránh sự thật nữa, tâm ta sẽ trở nên bao la hơn, cởi mở và an lạc hơn. Chúng ta cũng sẽ không còn bị sai khiến bởi lòng tham dục hoặc những đam mê, vì ta có thể nhìn thấy được rõ ràng tự tính của mọi vật như chúng đang thực sự hiện hữu.

Nhưng nếu chỉ nhìn thấy và hiểu được khổ đau trong cuộc đời này thôi vẫn chưa đủ! Chân lý thứ hai, Tập đế, nhận diện được nguyên nhân của khổ đau. Khổ đau bắt nguồn từ đâu? Danh từ kilesa trong tiếng Pali có nghĩa là cảm xúc khổ thọ, tức là những nỗi thống khổ trong tâm như tham lam, ghen tức, thù hằn, sân hận, sợ hãi... Những trạng thái tương tự như thế giày xéo tâm ta, chúng làm cho ta điêu đứng và gây ra trăm ngàn khổ đau.

Kilesa có thể biểu hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Đôi khi chúng có năng lượng đủ mạnh để biến thành những hành động vô cùng bất thiện như là giết hại, trộm cắp, tà dâm, tự hủy hoại mình và làm hại người khác... Ta có thể thấy được năng lượng của kilesa biểu lộ thật rõ rệt mỗi khi ta quan sát những gì đang xảy ra khắp nơi trên thế giới: giết chóc, hãm hiếp, tra tấn, đói khát, thù hận... Những khổ đau này có goc rễ trong tâm mọi người, trong đó có cả bạn và tôi.

Chúng ta có thể làm vơi bớt phần nào những khổ đau trên cuộc đời này bằng cách giữ một giới hạnh trong sạch. Đức Phật có dạy cho chúng ta về Năm giới như là một phương pháp bảo vệ, giữ cho ta khỏi phạm vào những việc bất thiện. Năm giới ấy là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng những chất gây say. Bạn hãy tưởng tượng xem cuộc đời này sẽ đẹp biết bao nhiêu nếu ai cũng chỉ cần giữ một giới mà thôi: không giết hại sinh mạng!

Ở một mức độ thấp hơn thì kilesa là những tâm thức bất thiện nào có khả năng tạo nên lời nói hoặc tư tưởng có ảnh hưởng yếu hơn một chút. Và mức độ sâu kín hơn hết của kilesa, còn được gọi là những bất thiện tiềm ẩn, là khuynh hướng khổ đau sẵn có trong ta. Những khổ đau ấy hiện không có mặt trong giờ phút hiện tại, nhưng chúng có một tiềm nang khởi dậy khi gặp hoàn cảnh thích hợp. Ví dụ như khi một người bị đặt vào những hoàn cảnh khẩn trương, người ấy có thể thực hiện những hành vi bất thiện mà thường ngày không dám làm. Đó là do có sự bất thiện tiềm ẩn.

Đức Phật cũng nhấn mạnh đến một loại tâm bất thiện đặc biệt mà ta cần phải nhổ bỏ tận gốc, nếu ta muốn tận diệt nguyên nhân của khổ đau. Loại kilesa này được xem như là loại nguy hiểm nhất, đó là niềm tin cho rằng có một “cái tôi” thường hằng, bất biến. Ngày nào tâm ta còn bị ô nhiễm bởi tà kiến ấy, quan niệm sai lầm ấy, nó sẽ lôi kéo ta vào biết bao nhiêu những việc bất thiện khác nữa! Và khi ta có ý niệm sai lầm về một “cai tôi”, ta sẽ cố gắng bảo vệ nó, thoả mãn nó, rồi biết bao nhiêu hành động của ta chung qui cũng chỉ để phục vụ cho ý niệm sai lầm này. Nhà văn Wei Wu Wei có diễn tả cái tâm bất thiện ấy một cách thật gọn gàng và chính xác: “Giống như con chó ngồi sủa một cái cây, nhưng chỉ có điều là không có cái cây nào ở đó cả!”

Thiền tập có khả năng thanh lọc tâm ta sạch hết những tì vết của kilesa, những gì đã từng gây ra biết bao khổ đau trong cuộc đời, mà cũng là nền tảng của cái nhìn sai lầm về sự sống của ta. Nhờ năng lực của một ý thức tỉnh giác, ta sẽ có thể cảm nhận được, nếm được mùi vị của vô ngã - sự vắng mặt của “cái tôi”. Và ta sẽ hiểu được nó, không phải bằng lý thuyết hay qua ý niệm, nhưng bằng một kinh nghiệm trực tiếp ngay trong giây phút hiện tại này.

Thật ra, tuệ giác giải thoát ấy không có gì là mới lạ cả. Nó đã có từ thời Đức Phật và vô số những Đức Phật trước đó nữa. Sự hiểu biết này cũng chính là tự tính của Phật pháp. Nó đã được diễn tả qua tuệ giác của biết bao nhiêu người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Một dũng sĩ Nhật vào thế kỷ thứ 14 có viết:

Tôi không có mẹ cha,
Tôi lấy đất trời làm cha mẹ.
Tôi không nơi cư ngụ,
Tôi lấy sự tỉnh giác làm nhà.
Tôi không có tử sinh,
Tôi lấy sự ra vào của hơi thở làm lẽ sống chết.
Tôi không có thần thông,
Tôi lấy sự chân thật làm phép lạ.
Tôi không có bạn bè,
Tôi lấy tâm mình làm bằng hữu.
Tôi không có kẻ thù,
Tôi lấy thất niệm làm địch thủ.
Tôi không có áo giáp,
Tôi lấy từ tâm làm sự bảo vệ.
Tôi không có lâu đài,
Tôi lấy tâm bất động làm thành trì bao bọc.
Tôi không mang đao kiếm,
nhưng tôi chỉ cần một lưỡi gươm vô ngã mà thôi.

Chúng ta hãy là những dũng sĩ, lấy vô ngã làm thanh gươm trí tuệ. Thanh gươm báu ấy có khả năng xuyên qua những si mê và phá thủng được tấm màn vô minh mờ mịt.

Chân lý thứ nhất là Khổ đế, dạy cho ta về sự thật khổ đau và những mức độ khác nhau của chúng. Hiểu được chân lý thứ hai, tức Tập đế, ta sẽ nhận thức được các nguyên nhân của khổ đau và tập buông bỏ chúng. Ta sẽ làm lung lay và bứng nhổ hết những gốc rễ của phiền não trong tâm, nhất là ý niệm về một cái ngã.

Chân lý thứ ba của Tứ diệu đế là Diệt đế dạy rằng, mọi khổ đau có thể được chấm dứt, ta có thể trút bỏ được gánh nặng trên vai mình. Trong sự tu tập, thỉnh thoảng ta cũng có thể thoáng thấy được sự chấm dứt khổ đau ấy. Chúng ta có thể nếm được vị giải thoát này trong một khoanh khắc, khi một kilesa vừa biến mất. Khi ta vướng mắc vào những tình cảm phiền muộn, ta sẽ cảm thấy bị trói buộc, nóng nảy, nhỏ nhen; và khi ta vừa buông bỏ chúng, tức thì tâm ta sẽ được tự tại ngay. Chính vào giây phút ấy, ta nếm được mùi vị của giải thoát, mùi vị của sự chấm dứt khổ đau. Sự tự do ấy rất thật, vì nó là kinh nghiệm của chính ta chứ không phải chỉ là một ý niệm đẹp mơ hồ xa xôi nào đó. Cũng vậy, mỗi khi bạn có thể y thức được sự có mặt của một tư tưởng nào đó, thay vì bị nó lôi cuốn theo, tức là bạn đã kinh nghiệm được sự giải thoát của tâm mình.

Một kinh nghiệm tương tự với sự buông bỏ này là khi ta đi xem phim. Khi ngồi trong rạp, ta sẽ bị cuốn hút vào chuyện phim hấp dẫn. Nhưng khi xem xong bước ra khỏi rạp, ta có cảm giác rằng thực tại đã đột ngột thay đổi, một kinh nghiệm giác ngộ nho nhỏ: “À, thì ra đó chỉ là một cuốn phim thôi!”

Nhưng còn cuốn phim trong tâm ta thì sao? Bao giờ ta mới chịu bước ra khỏi rạp? Mỗi giây phút khi ta tỉnh giác và ý thức được những gì đang xảy ra đều là những giây phút giác ngộ. “À, đúng rồi, đó chỉ là một tư tưởng mà thôi. Chẳng phai là một chuyện gì ghê gớm như mình nghĩ!” Trong giây phút ấy, tất cả sẽ bừng mở.

Chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự chấm dứt của khổ đau qua một cách khác, khi ta đạt đến một trình độ gọi là “bình thản trước mọi sự thành tựu.” Một tâm tĩnh lặng bao giờ cũng vững vàng và quân bình trước bất cứ việc gì xảy đến. Chúng ta sẽ cảm thấy thư thái và cởi mở trước mọi thăng trầm của cuộc đời. Một tâm trầm tĩnh sẽ không bao giờ phản ứng mot cách quá khích. Trạng thái này cũng gần giống như tâm của một người đã hoàn toàn giác ngộ. Vì thế, mặc dù ta chưa thực sự bước ra khỏi cuộc đời, chưa được giải thoát trọn vẹn, nhưng ta vẫn có thể kinh nghiệm được trạng thái an lạc này.

Chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự chấm dứt khổ đau bằng cách quán chiếu những hiện tượng duyên sinh - nhận thức được sự vô sinh, do duyên khởi của chúng.

Chân lý thứ tư của Tứ diệu đế là Đạo đế, con đường đi đến sự giải thoát. Con đường tu tập do Đức Phật chỉ dạy rất trực tiếp và rõ ràng, mặc dù nó đòi hỏi một sự tin tưởng và kiên định, bền chí phi thường. Con đường tu tập ấy bao gồm sự đào luyện trong ba lãnh vực. Thứ nhất là trau dồi về giới luật, không làm hại đến ai. Nếu sự tu tập của ta không được đặt trên nền tảng của một tấm lòng tốt đối với bản thân và người khác, thì việc ấy cũng giống như chèo thuyền qua sông trong khi con thuyền vẫn còn cột chặt vào bến. Sự cố gắng của ta, cho dù có bền chí đến đâu, cũng không mang đến một kết quả nào. Chúng ta cần phải tu tập và rèn luyện khả năng sống chân thật và trong sạch.

Việc thứ hai chúng ta cần trau dồi là phát triển định lực và sự tỉnh giác. Đây là những công cụ của thiền quán và của sự sống, có khả năng làm cho ta tỉnh thức. Không có những yếu tố ấy, chúng ta cả đời sẽ chỉ hành động theo nhưng tập quán, thói quen tích tụ lâu đời lâu kiếp mà thôi!

Hai sự trau luyện ấy sẽ làm nền tảng cho sự phát sinh tuệ giác. Tuệ giác nhìn thấy được lý vô thường một cách rõ ràng, thấy được tính chất bị điều kiện chi phối của mọi hiện tượng, biết được rằng bất cứ sự việc gì có sinh thì phải có diệt. Khi chúng ta quán chiếu một cách sâu sắc, ta không còn bám víu nữa. Và khi ta không còn bám víu thì mọi khổ đau tự nhiên sẽ chấm dứt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1503)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3530)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 5346)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 8157)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 7517)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 16157)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5101)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6838)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3804)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 5326)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567